Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Phân tích lợi thế so sánh của Việt Nam về hàng thâm dụng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH





TÔ VĂN HẢI






PHÂN TÍCH LỢI THẾ
SO SÁNH CỦA VIỆT NAM VỀ HÀNG
THÂM DỤNG LAO ĐỘNG
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS-TS. NGUYỄN KHÁNH DOANH







Thái Nguyên - 2012


ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là nội dung nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số
liệu, kết luận nghiên cứu trình bày trong luận văn này chưa hề được công bố
ở các nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về các kết quả và nghiên cứu trong luận văn!

Học viên



Tô Văn Hải



























iii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS. TS.
Nguyễn Khánh Doanh đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện. Tôi xin trân thành cảm ơn Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học - Trường
ĐH Kinh tế và QTKD đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khoá học và
trình bày luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp đã
chia sẻ nhiều tư liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề nghiên
cứu của luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


iv
MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii

Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt vii
Danh mục các bảng viii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 4
2.1. Mục tiêu chung 4
2.2. Mục tiêu cụ thể 4
3. Phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Phạm vi về nội dung 4
3.2. Phạm vi về không gian 5
3.3. Phạm vi về thời gian. 5
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài 5
5. Bố cục của luận văn 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 6
1.1. Cơ sở lý luận về lợi thế so sánh 6
1.1.1. Chủ nghĩa trọng thương 6
1.1.2. Lợi thế tuyệt đối của Adam Smith 8
1.1.3. Lợi thế so sánh của David Ricardo 10
1.1.4. Sự sẵn có các yếu tố sản xuất và lợi thế so sánh 12
1.1.5. Tự do hóa thương mại và lợi thế so sánh 14

v
1.2. Cơ sở thực tiễn 15
1.2.1. Thực hiện chính sách kinh tế mềm dẻo 16
1.2.2. Điều chỉnh chính sách ngoại thương 17
1.2.3. Chính sách hỗ trợ 18
1.2.4. Đầu tư vào khoa học và phát triển công nghiệp chế biến 20
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22

2.1. Phương pháp thu thập số liệu 22
2.1.1. Chọn mẫu 22
2.1.2. Thu thập số liệu thứ cấp 22
2.2. Phương pháp xử lý số liệu 22
2.2.1. Đo lường mức độ lợi thế so sánh và mức độ chuyên môn
hóa xuất khẩu 22
2.2.2. Phương pháp phân tích 24
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
3.1. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
2000-2010 29
3.1.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá phân theo mức độ thâm dụng các
yếu tố sản xuất 29
3.1.2. Tổng quan về xuất khẩu hàng hoá thâm dụng lao động 34
3.2. Thực trạng về lợi thế so sánh của Việt Nam 43
3.2.1. Kết quả về chỉ số BI (RCA) của Việt Nam đối hàng nhóm
hàng thâm dụng lao động 43
3.2.2. Tính ổn định về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 50
3.2.3. Sự chuyển biến trong cơ cấu lợi thế so sánh của Việt Nam đối
với nhóm hàng thâm dụng lao động 51
3.2.4. Mức độ chuyên môn hóa xuất khẩu của Việt Nam 56

vi
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY LỢI THẾ SO
SÁNH CỦA VIỆT NAM TRONG XUẤT KHẨU HÀNG
THÂM DỤNG LAO ĐỘNG 58
4.1. Các nguồn lực cơ bản để phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam 58
4.1.1. Nguồn nhân lực 58
4.1.2. Vị trí địa lý 60
4.1.3. Tài nguyên thiên nhiên 60
4.2. Một số quan điểm về phát huy lợi thế so sánh trong giai đoạn hiện nay 62

4.3. Những giải pháp chủ yếu để phát huy lợi thế so sánh của Việt
Nam trong xuất khẩu hàng thâm dụng lao động 66
4.3.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách 66
4.3.2. Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế trong xuất khẩu hàng thâm
dụng lao động 69
4.3.3. Nhóm giải pháp về chiến lược nâng cao sức cạnh tranh hàng
thâm dụng lao động 71
4.4. Kiến nghị 74
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 80


vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

XNK
GDP
FDI
ĐVT
Xuất nhập khẩu
Tổng sản phẩm quốc nội
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đơn vị tính


viii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Kim ngạch xuất khẩu phân theo mức độ thâm dụng các

yếu tố sản xuất 29
Bảng 3.2: Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 30
Bảng 3.3: Kim ngạch nhập khẩu phân theo mức độ thâm dụng các
yếu tố sản xuất 32
Bảng 3.4: Cơ cấu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 33
Bảng 3.5: Xuất khẩu hàng thâm dụng của Việt Nam sang một số thị
trường chủ yếu 34
Bảng 3.6: Một số thị trường xuất khẩu hàng hoá thâm dụng lao động
chủ yếu 35
Bảng 3.7: Cơ cấu xuất khẩu hàng thâm dụng lao động 36
Bảng 3.8: Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá cần nhiều lao động phổ thông 38
Bảng 3.9: Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá cần nhiều nguồn vốn con người 39
Bảng 3.10: 20 nhóm hàng thâm dụng lao động xuất khẩu chủ yếu
của Việt Nam 42
Bảng 3.11: 10 nhóm hàng thâm dụng lao động có lợi thế so sánh cao
nhất năm 2010 44
Bảng 3.12: Lợi thế so sánh của hàng hoá cần nhiều lao động phổ thông 46
Bảng 3.13: Lợi thế so sánh của hàng hoá cần nhiều nguồn vốn con người 48
Bảng 3.14: Chỉ số tương đồng xuất khẩu Finger & Kreinin 50
Bảng 3.15: Kết quả của mô hình hồi quy Galtonian 52
Bảng 3.16A: Ma trận xác suất chuyển đổi 2001-2004 53
Bảng 3.16B: Ma trận xác suất chuyển đổi 2004-2007 54
Bảng 3.16C: Ma trận xác suất chuyển đổi 2007-2010 54
Bảng 3.16D: Ma trận xác suất chuyển đổi 2001-2010 55
Bảng 3.17: Hệ số GINI về xuất khẩu hàng thâm dụng lao động của
Việt Nam 57
Bảng 4.1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam 59
Bảng 4.2: Độ mở của nền kinh tế Việt Nam và các quốc gia đang
phát triển 62


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được
những thành tựu đáng khích lệ. Đây là kết quả đánh dấu cho những bước đi
năng động và sáng tạo của Đảng và Nhà nước. Công cuộc đổi mới đất nước
vào năm 1986 và đặc biệt quá trình cải cách theo định hướng thị trường năm
1989 đánh dấu một bước chuyển trong lịch sử phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Quá trình cải cách đã mang lại những thành tựu đáng kể về tăng trưởng GDP,
ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và
giảm tỉ lệ nghèo đói. Nhờ thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta
nói chung đã có những bước phát triển vượt bậc và đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Sự phát triển của nền kinh tế vững chắc là nền tảng cho sự ổn
định về chính trị và xã hội và cải thiện cuộc sống của người dân.
Tuy nhiên quá trình cải cách ở Việt Nam còn gặp một số khó khăn và
chưa được tiến hành một cách đồng đều và nhất quán. Nhịp độ phát triển của
quá trình cải cách đã bị giảm trong suốt thời kỳ từ năm 1996 đến năm 1999,
đặc biệt sau cuộc khủng hoảng nền kinh tế tài chính trong khu vực Châu Á.
Thời kỳ từ năm 2000 đến năm 2004 đã có một số bước chuyển mới và đạt
được một số tiến bộ để tiếp tục quá trình cải cách, đặc biệt đối với sự phát
triển của các cá thể và sự mở rộng thương mại. Trong khi đó, công cuộc cải
cách của các doanh nghiệp quốc doanh (SOEs), hệ thống ngân hàng, và các tổ
chức quản trị công lại đạt được những kết quả thấp hơn mong đợi, điều này đã
gây ảnh hưởng và làm hạn chế sự hiệu quả của các công cuộc cải cách khác.
Song song với quá trình cải cách kinh tế, sự cấp thiết của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu
quả và tăng trưởng kinh tế. Bắt đầu từ cuố i nhữ ng năm củ a thậ p kỷ 80, Việ t

2
Nam đã nhanh chó ng thự c hiệ n chủ trương hộ i nhậ p với nền kinh tế khu vực

và quố c tế . Chủ trương đó thể hiện từ việ c thông qua Luậ t Đầ u tư Nướ c ngoà i
vào năm 1987, ký một thỏa thuận về thương mại với Liên minh Châu Âu
(EU) vào năm 1992, trở thà nh thà nh viên củ a Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) vào năm 1995, gia nhậ p tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998, k hiệp định thương mại song
phương Việ t Nam - Hoa Kỳ và o năm 2000, tham gia vào khu vực thương mại
tự do Châu Á - Trung Quốc (2002), hiệp hội kinh tế Châu Á - Nhật Bản
(2003) và trở thành thành viên chín h thứ c củ a WTO và o đầ u năm 2007. Như
vậ y, trong vò ng 20 năm kể từ khi tiế n hà nh công cuộ c đổ i mớ i , Việ t Nam đã
nhanh chó ng hộ i nhậ p vớ i nề n kinh tế thế giớ i . Nhữ ng thà nh tự u to lớ n mà
Việ t Nam đã đạ t đượ c trong quá trình c huyể n đổ i nề n kinh tế là dấ u hiệ u tố t
trướ c nhữ ng thay đổ i nhanh chó ng củ a nề n kinh tế thế giớ i.
Trong bối cảnh đó, thể chế thương mại quốc tế của Việt Nam đã có nhiều
thay đổi và được điều chỉnh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế. Những
biến đổi tích cực này đã góp phần đem lại nhiều thà nh tự u to lớ n cho Việ t
Nam trong quá trình chuyể n đổ i nề n kinh tế . Đây cũng chính là dấ u hiệ u tố t
trướ c nhữ ng thay đổ i nhanh chó ng củ a nề n kinh tế thế giớ i . Cụ thể là tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam luôn đạt mức 7-8% một năm
trong thập kỷ 90. Theo tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê (2006,
2008, và 2011) thì tỷ trọng của xuất khẩu trong GDP liên tục tăng nhanh, từ
2,3% vào năm 1986 lên 46,5% vào năm 2000 và 93,3% năm 2011. Tổng mức
lưu chuyển ngoại thương cũng đạt được mức tăng trưởng ngoạn mục, từ 2,94
tỷ USD năm 1986 lên 30,1 tỷ USD năm 2000 và 203,7 tỷ USD năm 2011. Từ
một nước phải nhập khẩu hầu hết các mặt hàng nông sản thiết yếu để đáp ứng
nhu cầu trong nước Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu lớn trên thế
giới. Cụ thể, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, đứng đầu về

3
xuất khẩu cà phê vối và hạt tiêu, đứng thứ 3 về xuất khẩu cao su thiên nhiên.
Ngoài ra, Việt Nam còn sản xuất, chế biến và xuất khẩu một lượng lớn hạt

điều, chè và một số mặt hàng nông sản khác.
Trên phương diện của Việt Nam, lợi ích thu được từ tự do hóa thương
mại bao gồm gia tăng thương mại, phát huy lợi thế theo quy mô trong sản
xuất và tiếp cận các nguồn lực cho sản xuất. Ngoài ra, tự do hoá thương mại
cũng sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng năng động hơn. Lợi ích này
có được thông qua hiệu quả gia tăng do kết quả của cạnh tranh và tiếp cận
công nghệ của nước ngoài. Thêm vào đó, tự do hóa thương mại giữa Việt
Nam và các nước bạn hàng tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam chuyên môn
hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Bản chất của lợi thế so sánh được xây dựng nhằm giải thích nguyên nhân của
thương mại quốc tế và dự đoán cơ cấu thương mại xuất phát từ những thay
đổi về sự sẵn có các yếu tố sản xuất và công nghệ. Do đó, thương mại tự do sẽ
cho phép các quốc gia thu được lợi ích từ việc tăng cường chuyên môn hóa
vào những hoạt động mà họ có lợi thế so sánh.
Như vậy, để có được thành tựu trên chúng ta không thể không kể đến
vai trò của những yếu tố như cải cách theo định hướng thị trường, ổn định xã
hội, và đặc biệt là mở cửa và hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và quốc
tế. Chính vì vậy, điều quan trọng là phải xác định những nhóm hàng mà Việt
Nam có lợi thế so sánh và phân tích sự chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc xác định mặt hàng chủ lực
và những mặt hàng đầy tiềm năng trong tương lai, đồng thời phục vụ cho việc
hoạch định chính sách nhằm phát huy lợi thế so sánh của những nhóm này
trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thấy tầm quan
trọng đó em xin phép được chọn đề tài: “Phân tích lợi thế so sánh của Việt
Nam về hàng thâm dụng lao động” làm đề tài luận văn cao học.

4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của đề tài này là phân tích về mặt thực nghiệm cơ cấu và sự

chuyển biến về lợi thế so sánh của Việt Nam đối với nhóm hàng thâm dụng
lao động trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và thực tiễn về lợi thế so sánh. Trên cơ
sở đó, đề tài đưa ra các phương pháp cơ bản nhằm đo lường và phân tích cơ
cấu lợi thế so sánh.
- Đánh giá cơ cấu và sự chuyển biến về cơ cấu lợi thế so sánh của Việt Nam.
- Phân tích tính di động của lợi thế so sánh của Việt Nam trong bối
cảnh tự do hóa thương mại.
- Trên cơ sở phân tích cơ cấu và sự chuyển biến về cơ cấu lợi thế so
sánh, đề tài sẽ khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế so sánh
của Việt Nam về nhóm hàng thâm dụng lao động, đồng thời thúc đẩy xuất
khẩu phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước trong thời hội nhập kinh tế
quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi về nội dung
- Đo lường mức độ lợi thế so sánh của Việt Nam về nhóm hàng thâm dụng
lao động.
- Xác định cơ cấu lợi thế so sánh và phân tích sự chuyển biến về cơ cấu
lợi thế so sánh của Việt Nam về nhóm hàng thâm dụng lao động.
- Phân tích tính di động của phân phối chỉ số hiển thị lợi thế so sánh
của Việt Nam về nhóm hàng thâm dụng lao động.
- Xác định mức độ tập trung trong cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng thâm
dụng lao động của Việt Nam và sự thay đổi của mức độ tập trung này.

5
3.2. Phạm vi về không gian: Phân tích lợi thế so sánh của Việt Nam. Lợi thế
so sánh ở đây được xác định là lợi thế xuất khẩu của Việt Nam sang phần còn
lại của thế giới.
3.3. Phạm vi về thời gian: Phân tích lợi thế so sánh giai đoạn 1998-2010.

4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Tìm hiểu các lý luận chung về lợi thế so sánh.
Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa ở Việt Nam giai đoạn 1998 -
2010, và thực trạng xuất khẩu hàng hóa thâm dụng lao động. Qua đó, đề ra
những biện pháp nhằm phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam thông qua xuất
khẩu hàng hóa thâm dụng lao động.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4: Giải pháp nhằm phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam
thông qua xuất khẩu hàng hóa thâm dụng lao động.











6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về lợi thế so sánh
Trong phần này, tác giả luận giải và tổng hợp cơ sở lý thuyết của đề tài,
bao gồm việc phân tích những nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng thương,

lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lý thuyết của Heckscher~Ohlin,… Trên cơ sở
đó, tác giả sẽ xây dựng khung phân tích áp dụng cho việc thực hiện đề tài.
1.1.1. Chủ nghĩa trọng thương
Từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVIII, hầu hết các quốc gia ở châu
Âu chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chủ nghĩa trọng thương trong việc thống nhất
kinh tế và kiểm soát chính trị. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết
thương mại quốc tế đầu tiên. Trong thời kỳ đó, vàng và bạc được lưu hành với
tư cách là đồng tiền thanh toán trong thương mại quốc tế và cũng là thước đo
tài sản của một quốc gia. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, sự giàu
có của một quốc gia phụ thuộc vào số lượng vàng và bạc mà quốc gia đó nắm
giữ. Để thu được nhiều vàng và bạc thì các quốc gia cần phải xuất khẩu nhiều
hơn nhập khẩu. Một quốc gia mà xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì đều nhận
được sự chi trả bằng vàng, bạc từ phần còn lại của thế giới. Chính vì vậy, các
nhà trọng thương đều ủng hộ việc điều tiết thương mại quốc tế theo hướng
khuyến khích xuất khẩu.
Học thuyết trọng thương đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều
khiển kinh tế thông qua bảo hộ (Võ Thanh Thu, 2010). Những người theo chủ
nghĩa này kêu gọi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế thông qua
việc áp dụng các hàng rào bảo hộ mậu dịch, miễn thuế nhập khẩu cho các loại
nguyên liệu phục vụ sản xuất, cấm bán ra nước ngoài sản phẩm thô, thực hiện
trợ cấp xuất khẩu. Theo các nhà trọng thương thì lao động là yếu tố cơ bản

7
của sản xuất. Chính vì vậy, để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường thì cần phải hạ thấp lương để giảm chi phí sản xuất.
Nhiều học giả cho rằng chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết lâu
đời, nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa này vẫn còn kéo dài cho đến nay, đặc
biệt là trong cách tranh cãi về chính trị và chính sách thương mại của nhiều
quốc gia. Một trong những l do nêu trên là quan điểm cho rằng thâm hụt cán
cân thương mại là không có lợi và nhập khẩu sẽ làm giảm việc làm trong

nước. Khi một quốc gia bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai thì quốc gia đó
phải vay vốn từ phần còn lại của thế giới để mua nhiều hàng hoá và dịch vụ từ
phần còn lại của thế giới hơn là quốc gia đó bán hàng hoá và dịch vụ cho phần
còn lại của thế giới. Tuy nhiên, việc vay vốn này rất có thể cải thiện sức mạnh
kinh tế của quốc gia nếu lợi ích từ việc vay vốn này vượt quá chi phí vay.
Qua phân tích lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhận thấy
có một số ưu điểm như sau. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương đã biết đánh
giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng mang
quý kim về cho đất nước. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương đã sớm nhận rõ vai
trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết quan hệ ngoại thương. Thứ ba,
chủ nghĩa trọng thương là l thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử được nâng
lên như là l thuyết khoa học.
Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên, lý thuyết trọng thương
về thương mại quốc tế bộc lộ một số nhược điểm nhất định. Thứ nhất, chủ
nghĩa trọng thương chưa cho phép giải thích được bản chất của thương mại
quốc tế, như cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa trong thương mại quốc tế và
cũng chưa thấy được tính hiệu quả cũng như lợi ích do quá trình chuyên
môn hóa và trao đổi mang lại. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương cho rằng một
quốc gia chỉ có thể có lợi từ thương mại trên sự hy sinh của một quốc gia
khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng các quốc gia chỉ mong muốn tham

8
gia vào thương mại quốc tế với nhau khi cả hai quốc gia đều thu được lợi ích
từ thương mại. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương hiểu sai về khái niệm “tài
sản quốc gia”, đo lường sự giàu có của quốc gia bằng quý kim. Ngược lại,
ngày nay sự giàu có của một quốc gia được đo lường bỏi khả năng của quốc
gia đó về nguồn lực con người, tài nguyên có thể cung cấp được cho sản
xuất và dịch vụ. Nguồn lực này càng phong phú, sử dụng càng có hiệu quả
thì dòng chảy hàng hoá và dịch vụ thoả mãn con người càng dồi dào, tiêu
chuẩn sống của quốc gia càng cao.

1.1.2. Lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Adam Smith là một nhà kinh học cổ điển người Anh. Trong cuộc đời
của mình ông đã có nhiều tác phẩm về kinh tế. Năm 1776, trong tác phẩm “Sự
giàu có của quốc gia”, Adam Smith đã không nhất trí với quan điểm “thương
mại quốc tế là một trò chơi có tổng lợi ích bằng không” của các nhà trọng
thương. Ông bắt đầu bằng một sự thực đơn giản là để cho hai quốc gia thương
mại với nhau một cách tự nguyện thì cả hai quốc gia đều phải thu được lợi ích
từ thương mại. Nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia kia phải chịu thiệt thì
quốc gia chịu thiệt sẽ từ chối không tham gia vào thương mại quốc tế nữa.
Theo Adam Smith thì thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử dụng
nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, và từ đó tạo ra lợi ích cho từng nước
tham gia vào hoạt động buôn bán (Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng,
2004). Cũng nhờ tác phẩm này mà ngày nay nhiều nơi suy tôn Adam Smith là
“cha đẻ của kinh tế học”.
Để chứng minh rằng thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các
quốc gia tham gia thương mại, Adam Smith đã xây dựng khái niệm lợi thế
tuyệt đối. Khái niệm này nói về khả năng của một quốc gia cần sử dụng
nguồn lực ít hơn so với các quốc gia khác để sản xuất ra một hàng hóa nào đó.
Theo Adam Smith, một quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn so với các quốc gia

9
khác nếu quốc gia đó có khả năng sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn với
cùng một nguồn lực. Ông cho rằng thị trường sẽ điều tiết các hoạt động kinh
tế và đóng vai trò là một bàn tay vô hình phân bổ các nguồn lực. Giá đóng vai
trò là một nhân tố chủ chốt. Cụ thể là giá tăng lên khi có sự khan hiếm và
giảm xuống khi có sự dư thừa. Các tác nhân thị trường đảm bảo việc sản xuất
hàng hoá và dịch vụ hợp lý.
Chấp nhận quan điểm là sự khác biệt về chi phí sản xuất sẽ phi phối sự
di chuyển quốc tế về hàng hóa, Adam Smith đã tìm cách giải thích nguyên
nhân tại sao chi phí sản xuất tại các quốc gia lại khác nhau. Ông cho rằng hiệu

suất của các nhân tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất. Hiệu suất này do lợi
thế tự nhiên và lợi thế có được tạo ra. Lợi thế tự nhiên bao gồm các yếu tố
liên quan đến thời tiết, đất đai và khoáng sản. Trong khi đó lợi thế có được
bao gồm các kỹ năng và kỹ thuật đặc biệt. Adam Smith lập luận rằng, do có
lợi thế tự nhiên và lợi thế có được, một quốc gia có thể sản xuất hàng hóa với
chi phí thấp hơn, và do đó trở nên cạnh tranh hơn so với quốc gia khác. Chính
vì vậy, Adam Smith nhìn nhận khả năng cạnh tranh từ mặt cung của thị trường.
Adam Smith đã đưa ra một số chỉ trích quan trọng đối với chủ nghĩa
trọng thương. Một là, thương mại tự do mang lại lợi ích cho các bên tham gia
thương mại. Hai là, chuyên môn hoá sản xuất cho phép thực hiện lợi thế theo
quy mô, và như vậy nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ba là,
trong một môi trường tự do thương mại mà không có sự can thiệp của chính
phủ thì phúc lợi công cộng sẽ tăng lên do có sự cạnh tranh.
Như vậy, Adam Smith ủng hộ tự do thương mại. Theo ông, tự do thương
mại thúc đẩy phân công lao động quốc tế và cho phép các quốc gia có thể tập
trung vào sản xuất hàng hóa mà họ có thể sản xuất với chi phí thấp nhất. Tuy
nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế. Lợi
thế tuyệt đối không giải thích được trường hợp khi một quốc gia nào đó lại

10
bất lợi thế hơn so với các quốc gia còn lại trong việc sản xuất tất cả các hàng
hoá và dịch vụ thì liệu quốc gia đó có nên tham gia vào thương mại quốc tế
hay không. Vì sự hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình hình phát
triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi thế tương
đối, còn gọi là lợi thế so sánh.
1.1.3. Lợi thế so sánh của David Ricardo
David Ricardo là nhà duy vật và nhà kinh tế học người Anh gốc Do
Thái. Ông được C.Mác đánh giá là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế
chính trị tư sản cổ điển”. David Ricardo cho rằng lợi thế tuyệt đối không phải
là điều cần hoặc đủ để thương mại diễn ra giữa hai quốc gia. Chẳng hạn, nếu

một quốc gia có lợi thế tuyệt đối đối với tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ thì
quốc gia đó sẽ sản xuất và xuất khẩu mọi thứ và không nhập khẩu thứ gì cả.
Nếu quốc gia này muốn xuất khẩu để thu ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu
thì lợi thế tuyệt đối sẽ không có giá trị nữa.
Chính vì vậy, năm 1817, nhà kinh tế học David Ricardo phát triển tư
tưởng “lợi thế so sánh” thành thuyết “lợi thế so sánh” hay còn gọi là quy luật
“lợi thế tương đối”. Theo nguyên tắc của lợi thế so sánh thì một quốc gia
được cho là có lợi thế so sánh về một hàng hoá hay dịch vụ nếu quốc gia đó
sản xuất với chi phí cơ hội thấp hơn so với quốc gia khác. Điều đó cũng có
nghĩa là bất kì quốc gia nào cũng có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế
dù quốc gia đó có hay không có các điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn hẳn các
quốc gia khác.
Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những quy luật
quan trọng nhất, đặt cơ sở, nền móng cho mậu dịch quốc tế và được ứng dụng
rộng rãi nhất. Cho đến nay, bản chất của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo
vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia nào. Theo quy luật này
thì thậm chí một quốc gia kém hiệu quả hơn (bất lợi thế tuyệt đối) so với quốc

11
gia kia trong việc sản xuất cả hai hàng hoá thì cả hai quốc gia vẫn có thể thu
được lợi ích từ thương mại. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất
khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối ít hơn (hàng hoá có bất lợi thế so
sánh) và nhập khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối lớn hơn (hàng hoá
có bất lợi thế so sánh). Nói cách khác, một quốc gia sẽ có lợi hơn khi sản xuất
và xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao
hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc
gia kia (Trần Văn Hòe và Nguyễn Văn Tuấn, 2007).
Ưu điểm của quy luật lợi thế so sánh là nó đi xa hơn lợi thế tuyệt đối
của Adam Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi
giao thương với nhau bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Tuy

nhiên, lý thuyết này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định. Một là, David
Ricardo đã dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hóa lý thuyết về giá trị
lao động để chứng minh cho quy luật này. Trong khi đó trên thực tế lao động
không phải là đồng nhất; những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác
nhau, với những mức thu nhập khác nhau. Ngoài ra, hàng hóa sản xuất không
chỉ có lợi thế về lao động, nó còn nhiều yếu tố khác như: đất đai, vốn, khoa
học-công nghệ… nhất là hiện nay, yếu tố lợi thế về lao động dần dần bị thu
hẹp lại giữa các quốc gia, các yếu tố khác như đất đai, vốn, khoa học - công
nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hai là, lý thuyết lợi thế so sánh
không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước. Ba là, lý thuyết
không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với
một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu
xa của thương mại quốc tế. Bốn là, các phân tích của Ricardo không đề cập
tới chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các
nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương
mại quốc tế. Năm là, học thuyết này không xác định được tỷ lệ giao hoán

12
quốc tế, tức là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. Cuối cùng, trong
thực tế có thể xảy ra trường hợp cả hai quốc gia đều có bất lợi thế tuyệt đối
giống nhau. Trong trường hợp này, cả hai quốc gia đều không thu được lợi
ích từ thương mại. Do đó, quy luật lợi thế so sánh có một trường hợp ngoại lệ,
và để cho quy luật luôn luôn đúng thì quy luật này có thể được phát biểu như
sau: Thậm chí nếu một quốc gia kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai
hàng hoá so với quốc gia khác thì cả hai quốc gia vẫn thu được lợi ích từ
thương mại, trừ khi bất lợi thế tuyệt đối của quốc gia này so với quốc gia kia
có cùng tỷ lệ đối với cả hai hàng hoá.
1.1.4. Sự sẵn có các yếu tố sản xuất và lợi thế so sánh
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo không giải thích được
nguyên nhân xuất hiện lợi thế so sánh và vì sao các nước khác nhau lại có chi

phí cơ hội khác nhau. Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế học người
Thụy Điển là Heckscher và Ohlin đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh thông
qua việc xác định nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu
tố sản xuất. Lý thuyết của Heckscher~Ohlin dựa trên các giả định sau đây.
- Một là, thế giới chỉ có hai quốc gia, hai yếu tố sản xuất (vốn và lao
động) và hai loại hàng hoá.
- Hai là, hai quốc gia sử dụng cùng một công nghệ sản xuất hàng hoá
giống nhau và thị hiếu của các dân tộc là giống nhau.
- Ba là, các sản phẩm khác nhau cần các yếu tố sản xuất ở các tỷ lệ
khác nhau. Chẳng hạn, việc sản xuất gạo cần tỷ lệ lao động tương đối lớn hơn
trên mỗi đơn vị vốn, trong khi đó việc sản xuất ô tô cần nhiều vốn hơn trên
mỗi đơn vị lao động. Trong trường hợp này, gạo được gọi là mặt hàng thâm
dụng lao động, còn ô tô được gọi là mặt hàng thâm dụng vốn.
- Bốn là, các quốc gia khác nhau có các yếu tố sản xuất sẵn có khác
nhau. Một quốc gia được coi là dư thừa tương đối về vốn khi tỷ lệ vốn/lao

13
động của quốc gia này lớn hơn so với quốc gia kia. Ngược lại, một quốc gia
được cho là dư thừa tương đối về lao động khi tỷ lệ vốn/lao động của quốc gia
này nhỏ hơn so với quốc gia kia.
- Năm là, tỷ lệ đầu tư và sản lượng của hai loại hàng hoá trong hai
quốc gia là một hằng số. Cả hai quốc gia đều chuyên môn hoá sản xuất
không hoàn toàn.
- Sáu là, các yếu tố sản xuất di chuyển tự do trong phạm vi một quốc
gia nhưng không di chuyển giữa các nước.
- Bảy là, thương mại tự do, không có hàng rào thuế quan và phi thuế
quan, và chi phí vận chuyển bằng không.
Lý thuyết của Heckscher~Ohlin chứng minh rằng một nước sẽ thu được
lợi ích thông qua việc trao đổi hàng hoá. Quốc gia dư thừa tương đối về vốn
nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng thâm dụng vốn. Ngược

lại, quốc gia dư thừa lao động một cách tương đối nên tập trung sản xuất và
xuất khẩu hàng hoá thâm dụng lao động. Thương mại quốc tế dựa vào sự khác
biệt về yếu tố sản xuất hiện có của mỗi nước. Chẳng hạn, Nhật Bản chuyên
môn hoá vào sản xuất hàng công nghệ cao vì Nhật Bản có nguồn lao động có
tri thức cao và dồi dào nguồn vốn. Ngược lại, Argentina lại chuyên môn hoá
sản xuất nhiều sản phẩm nông nghiệp vì quốc gia này có nhiều đất màu mỡ và
nguồn lao động với chi phí thấp.
Như vậy, học thuyết Heckscher~Ohlin khuyến khích tất cả các quốc gia
tham gia vào quá trình thương mại quốc tế, ngay cả những nước không có lợi
thế tuyệt đối. Tuy nhiên, học thuyết này cũng có những hạn chế nhất định. Nó
không cho phép giải thích được mọi hiện tượng của thương mại quốc tế, đó là
những trường hợp sau đây:
- Có sự đảo nghịch về nhu cầu, sở thích về hàng hoá không đồng nhất
giữa các khu vực.

14
- Có sự xuất hiện của cạnh tranh không hoàn hảo (nhà nước tham gia
bảo hộ thị trường nội địa, tài trợ cho các nhà sản xuất nội địa).
- Chi phí về vận tải và bảo hiểm quá lớn, nhiều khi vượt quá chi phí
sản xuất.
Thêm vào đó, Leontief lại đưa ra nghịch lý Leontief. Nghịch lý này đi
ngược lại lý thuyết tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất. Cụ thể là Hoa Kỳ là một
quốc gia dư thừa tương đối về vốn và khan hiếm một cách tương đối về lao
động. Như vây, theo l thuyết của Heckscher~Ohlin thì Hoa Kỳ sẽ xuất khẩu
hàng hoá thâm dụng vốn và nhập khẩu hàng hoá thâm dụng lao động. Tuy
nhiên, trên thực tế Leontief cho thấy điều ngược lại. Đó là Hoa Kỳ xuất khẩu
hàng thâm dụng lao động và nhập khẩu hàng hoá thâm dụng vốn.
Mặc dù còn một số hạn chế trước thực tiễn phát triển phức tạp của
thương mại quốc tế hiện đại ngày nay nhưng quy luật này vẫn đang là quy
luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế. Sự lựa chọn những

mặt hàng xuất khẩu phù hợp với lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn
có sẽ là điều kiện cần thiết để các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển có thể nhanh chóng tham gia vào sự phân công lao động quốc tế và hợp
tác trong thương mại quốc tế.
1.1.5. Tự do hóa thương mại và lợi thế so sánh
Tự do hoá thương mại là việc giảm thiểu hoặc loại bỏ những hàng rào
mà các quốc gia xây dựng nên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luồng hàng
hoá và dịch vụ di chuyển từ nước này sang nước khác trên cơ sở cạnh tranh
bình đẳng. Những hàng rào nói trên có thể là hàng rào thuế quan hoặc hàng rào
phi thuế quan (hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giấy phép xuất nhập
khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá
v.v ). Các rào cản thương mại nói trên đều là những đối tượng của các hiệp
định mà WTO đang giám sát thực thi.

15
Tự do hoá thương mại dẫn đến những thay đổi đáng kể trong cơ cấu
kinh tế của các nước. Đặc biệt, việc giảm thiểu mức độ bảo hộ mậu dịch sẽ
tạo điều kiện cho các ngành có lợi thế so sánh phát triển một cách tương đối
và thu hẹp một cách tương đối của các ngành công nghiệp không có lợi thế so
sánh so với phần còn lại của thế giới. Điều này cho thấy rằng mức độ và bản
chất của sự chuyên môn hoá sẽ có tác động nhất định đến nền kinh tế thực
hiện tự do hoá bởi lẽ việc tái cơ cấu lại nền kinh tế sẽ làm dịch chuyển các
nguồn lực phục vụ cho sản xuất. Do đó, chi phí điều chỉnh liên quan đến sự
thay đổi về cấu trúc nền kinh tế có thể là khá lớn và các quốc gia cần phải
chuẩn bị kỹ lưỡng để giảm thiểu những tác động bất lợi của việc điều chỉnh
này. Hơn nữa, thay đổi cơ cấu chuyên môn hoá cũng có thể có tác động đáng
kể đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi. Mở cửa nền kinh tế cho phép chuyên
môn hoá cao hơn, nâng cao năng suất thông qua vừa làm vừa học, nhưng nó
cũng có thể kích thích chuyên môn hoá ở những ngành không cần nhiều tiến
bộ khoa học công nghệ, làm cho tăng trưởng chậm lại và giảm phúc lợi.

Hội nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới là một chiến
lược đúng đắn, những chiến lược này sẽ kéo theo những chi phí mà các quốc
gia cần quan tâm. Hiểu rõ chi phí điều chỉnh có khả năng xảy ra là một yếu tố
quan trọng trên quan điểm của chính sách kinh tế. Cũng cần lưu  rằng lợi thế
so sánh không phải là tĩnh, và nó được xác định một phần bởi chính sách công.
Các chính sách tạo thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực và nâng cao kỹ năng
là rất cần thiết. Các chính sách này sẽ cho phép các quốc gia giảm thiểu
những chi phí trong ngắn hạn và định hướng chuyên môn hoá theo ngành
nhằm giải quyết những thách thức do giảm thiểu hàng rào mậu dịch.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, mỗi một quốc
gia đều tập trung đầu tư vào một số nhóm hàng chủ lực dựa trên lợi thế so

16
sánh của quốc gia đó để sản xuất những hàng hoá có chi phí thấp, chất lượng
cao, và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việt Nam và một số
nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia
có rất nhiều điểm tương đồng. Do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của họ trong
việc phát huy lợi thế so sánh là một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thành công của một số quốc gia về chiến
lược hướng về xuất khẩu của một số quốc gia láng giềng có điều kiện tương
đồng với Việt Nam cho thấy chính phủ của các quốc gia này rất quan tâm đến
việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thông qua việc phát huy lợi thế so
sánh. Đặc biệt có những nước đã xây dựng chiến lược riêng đối với từng
ngành nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Sau đây là kinh
nghiệm của một số quốc gia đã thành công trong việc phát huy lợi thế so sánh.
1.2.1. Thực hiện chính sách kinh tế mềm dẻo
Có thể nói rằng các nền kinh tế như Đài Loan, Hong Kong đều có đặc
điểm là nghèo về tài nguyên thiên nhiên, thậm chí không đủ cho sản xuất

phục vụ nhu cầu trong nước. Các nền kinh tế này đều có xuất phát điểm thấp
hơn nhiều nước khác trên thế giới khi bước vào thời điểm bắt đầu thực hiện
công nghiệp hóa. Tuy nhiên, sau hơn 30 năm đạt mức tăng trưởng kinh tế cao,
các nền kinh tế này đã trở thành những “con rồng châu Á”. Những thành tựu
mà họ đã đạt được là do họ đã xây dựng thành công một chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng mở cửa và hội nhập. Kinh nghiệm của
các nền kinh tế này có thể được tóm tắt như sau:
- Một là, những nền kinh tế này đã biết phát huy những lợi thế so sánh
của họ về các nguồn lực, đặc biệt là lao động. Song song với việc phát huy lợi
thế sẵn có của họ thì họ cũng không ngừng tạo ra các nguồn lực mới để phát
triển, đặc biệt là ngoại thương. Một số quốc gia tập trung tăng năng suất lao

17
động trong nông nghiệp để tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Năng
suất lao động tăng sẽ giải phóng lao động nông nghiệp. Lực lượng lao động
này sẽ chuyển sang các ngành khác làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình
này đã thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp sử dụng diện tích đất
canh tác lớn như gạo, đường. Sau đó, dần dần chuyển sang những sản phẩm
mới sử dụng nhiều lao động nhưng cần ít diện tích đất và có thể tận dụng
được những địa thế không thuận lợi cho nông nghiệp.
- Hai là, các nền kinh tế này tuân thủ các quy luật phát triển chung.
- Ba là, họ tập trung thu hút được nguồn vốn đầu tư của nước ngoài dồi
dào hơn, đồng thời tiếp nhận kỹ thuật hiện đại và phương pháp quản lý tiên
tiến của các nước công nghiệp phát triển.
- Bốn là, một vấn quan trọng cần chú  đó là việc xây dựng khu vực kinh
tế quốc doanh để tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền kiểm soát của Nhà nước đối
với nền kinh tế quốc dân. Kinh nghiệm các nước cho thấy cần phải tập trung vào
một số trọng điểm mang tính chiến lược thì mới có thể thực hiện tốt việc kiểm
soát của Nhà nước đối với nền kinh tế thông qua thành phần kinh tế quốc doanh.
Kinh nghiệm của Indonesia là cần chấn chỉnh, rà soát và giảm bớt các doanh

nghiệp nhà nước kém hiệu quả nhằm khắc phục nhược điểm, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1.2.2. Điều chỉnh chính sách ngoại thương
Trong thời kỳ đầu của phát triển kinh tế, các nước thường áp dụng
chính sách bảo hộ mậu dịch với những mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể của từng quốc gia. Sau đó nới lỏng giới hạn của các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan sao cho phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và khu vực mậu dịch tự do mà các nước tham gia.
Về chính sách thuế quan, các quốc gia sử dụng thuế quan chủ yếu là
nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước nguy cơ cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Tại các nước Đông Nam Á chính sách này thường được áp dụng đối với các

×