Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.3 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





NGUYỄN THỊ THANH HOA




PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC
KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH TRƯỜNG
PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01






TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC










THÁI NGUYÊN – 2012
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ TÍNH


Phản biện 1: GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ

Phản biện 2: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền



Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn họp tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Ngày 06 tháng 10 năm 2012







Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
- Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Giao tiếp là một trong những hoạt động đặc trưng nhất của đời sống xã
hội, là điều kiện quan trọng để con người phát triển toàn diện tâm lý, ý thức và
hoàn thiện các phẩm nhân cách. Việc xây dựng môi trường văn hoá giao tiếp là
một phần không tách rời của việc xây dựng môi trường giáo dục thân thiện
trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Xây dựng môi trường văn hoá giao
tiếp giúp cho học sinh phát triển khả năng tư duy trí tuệ, hình thành các phẩm
chất nhân cách phù hợp với các mục tiêu, chuẩn mực giáo dục đề ra.
Môi trường văn hóa giao tiếp trong nhà trường chính là môi trường sư
phạm, đó chính là những chuẩn mực về văn hóa giao tiếp trong việc dạy, học
và cuộc sống hàng ngày. Xây dựng môi trường văn hóa giao tiếp lành mạnh,
văn minh, chuẩn mực đã góp phần xây dựng nhân cách cho con người. Sự
giao tiếp văn hóa của mọi người trong môi trường nhà trường sẽ tác động trực
tiếp, là những tấm gương, những chuẩn mực cho học học sinh noi theo.
Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
đang được ngành giáo dục triển khai thực hiện ở tất cả các bậc học hiện nay.
Mục đích của phong trào này là tạo nên một môi trường giáo dục (cả về vật
chất lẫn tinh thần) an toàn, bình đẳng, tạo hứng thú cho học sinh trong học
tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trên cơ sở tập trung mọi nỗ lực
của nhà trường vì người học. Môi trường học tập thân thiện gắn bó chặt chẽ
với việc phát huy tính tích cực, năng lực tiềm ẩn của học sinh. Trong môi
trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu
kiến thức dưới sự dìu dắt của thầy cô giáo, gắn chặt giữa học và hành, rèn
luyện kỹ năng và phương pháp học tập, phát triển toàn diện các phẩm chất

nhân cách của bản thân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Văn hoá nhà trường có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng
cuộc sống và hiệu quả của mọi hoạt động trong nhà trường. Sự phát triển tâm
lý, ý thức và các phẩm chất nhân cách của học sinh, đặc biệt là lứa tuổi học
sinh phổ thông chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hoá xã hội nơi các
em học tập, sinh hoạt. Một trong những yếu tố cần thiết tạo nên thành công
trong việc xây dựng văn hoá trong nhà trường đó là xây dựng kĩ năng giao
tiếp ứng xử giữa các thành viên trong nhà trường nói chung và kỹ năng giao
tiếp ứng xử cho học sinh nói riêng. GS.TS Lê Ngọc Trà (Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh) đã khẳng định: "Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với
giáo dục. Hay nói một cách cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục
chính là giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Ngoài ra giao tiếp
không chỉ là hình thức, phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung
quan trọng của giáo dục."
Trường học là nơi truyền bá những nét đẹp của văn hóa một cách
khuôn mẫu và bài bản. Nét đẹp văn hóa trong giao tiếp cũng đòi hỏi các nhà
sư phạm dạy cho học sinh những điều mẫu mực. Việc xây dựng chuẩn mực về
lời nói, hành vi, rèn luyện các kỹ năng giao tiếp yêu cầu nhà trường phải xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện. Muốn nâng cao văn hóa ứng
xử, phát triển kỹ năng giao tiếp của học sinh trong học đường con đường gần
nhất, hiệu quả nhất không thể nằm ngoài mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau giữa
giáo dục và giao tiếp, không nằm ngoài môi trường giáo dục nhà trường.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Phát triển môi
trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường phổ thông Dân tộc
Nội trú (DTNT) tỉnh Hà Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiêp thạc sĩ
chuyên ngành Giáo dục học.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề về môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp của
trường trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang, từ đó đề xuất các biện pháp
phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường phổ
thông DTNT tỉnh Hà Giang.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển môi trường giáo dục kỹ
năng giao tiếp cho học sinh phổ thông DTNT.
3.2. Nghiên cứu thực trạng môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.
3.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển môi trường giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.

4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp phát triển môi trường giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.

5. Giả thuyết khoa học
Xây dựng môi trường văn hoá giao tiếp là một trong những vấn đề gắn
bó mật thiết với xây dựng môi trường học tập thân thiện trong giáo dục nhà
trường. Nếu đánh giá đúng thực trạng môi trường văn hoá giao tiếp của

trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang, thực trạng một số kỹ năng giao tiếp
cơ bản của học sinh và đề xuất các biện pháp phát triển môi trường giáo dục
kỹ năng giao tiếp sẽ góp phần phát triển ngôn ngữ, khả năng tư duy, hình
thành các phẩm chất nhân cách cho học sinh và nâng cao hiệu quả giáo dục
của nhà trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên đối tượng học sinh dân tộc thiểu số tại
trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu phát
triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp trong giáo dục nhà trường (bậc
THPT) và một số kỹ năng giao tiếp cần thiết đối với học sinh ở trường DTNT,
cụ thể:
+ Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt
+ Kỹ năng lắng nghe
+ Kỹ năng chia sẻ
+ Kỹ năng làm việc theo nhóm

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và phân tích tài liệu, văn
bản, sách, giáo trình có liên quan đến nội dung đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thu thập các thông tin về
thực trạng môi trường giao tiếp và một số kỹ năng giao tiếp của học sinh
trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.
7.3. Phương pháp phỏng vấn: Bổ sung thêm các thông tin trực tiếp liên
quan đến môi trường giao tiếp trong trường và kỹ năng giao tiếp của học sinh.
7.4 Phương pháp quan sát: Quan sát các kỹ năng giao tiếp của học sinh
khi tham gia các hoạt động học tập, ngoại khóa trong và ngoài nhà trường.

7.5 Phương pháp khảo nghiệm: Khảo nghiệm một số biện pháp đề xuất
để đánh giá tính khả thi.
7.6 Phương pháp bổ trợ: Sử dụng thống kê toán học để xử lý các kết
quả nghiên cứu


8. Đóng góp mới của đề tài
8.1 Hệ thống cơ sở lý luận về phát triển môi trường giáo dục, kỹ năng
giao tiếp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
8.2 Làm sáng tỏ thực trạng môi trường giáo dục và kỹ năng giao tiếp
của học sinh phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.
8.3 Đề xuất những biện pháp phát triển môi trường giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh trường phổ thông nói chung và học sinh trường phổ
thông DTNT tỉnh Hà Giang nói riêng.

9. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5. Giả thuyết khoa học
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Những đóng góp của đề tài


NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển môi trường giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng về môi trường giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của
học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Các biện pháp phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho học sinh trường phổ thông DTNT tỉnh Hà Giang.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN MÔI TRƢỜNG
GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH Ở TRƢỜNG THPT

1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Môi trường giáo dục là nhân tố quan trọng đối với quá trình phát triển
nhân cách con người, môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ,
phương tiện hoạt động của con người do đó có rất nhiều công trình nghiên
cứu về môi trường. Mác khi nghiên cứu về môi trường đã đưa ra quan điểm
“Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra
hoàn cảnh”. Theo quan điểm của Mác thì mối quan hệ giữa con người và môi
trường là mối quan hệ hai chiều.

Nhà tâm lý học Mỹ Kenloc (1923) đã nuôi trong cùng một môi trường
con khỉ 10 tháng tuổi và cậu bé trai 8 tháng tuổi của mình để so sánh ảnh
hưởng của môi trường đến con khỉ và con người. Đã có nhiều ví dụ để chúng ta
hiểu về vai trò của môi trường sống đối con vật hoặc con người, không thể làm
thay đổi bản năng của con vật. Ngược lại môi trường của loài vật có thể tác
động mạnh vào bản chất của con người. Nhà xã hội học Mỹ R.E Pác – cơ đã
nói: “Người không đẻ ra người, đưa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo
dục”. Điều này khảng định vai trò của yếu tố môi trường văn hóa, môi trường
giáo dục có tính quyết định đối với sự hình thành nhân cách con người.
I.V. Pavlov và B.F. Skinnơ. I.V.Pavlov nghiên cứu sự hình thành phản
xạ có điều kiện trong môi trường được kiểm soát chặt chẽ, con vật (con chó)
hoàn toàn thụ động. B.F. Skinnơ nghiên cứu sự hình thành phản xạ tạo tác
động môi trường gần với thực tế hơn, con vật (chuột, bồ câu…) chủ động
trong hành vi đáp ứng trên cơ sở nhu cầu của nó. Nội dung học tập thể hiện
ngay trong môi trường mà con vật phải tìm cách thích nghi. Đây là cơ sở lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
thuyết để xây dựng kiểu dậy học chương trình hóa, dạy học bằng máy. Từ
nghiên cứu kết quả của hai ông, các nhà gíao dục đã nhận thức một vấn đề rất
quan trọng rằng: Yếu tố môi trường trong giáo dục không chỉ góp phần quyết
định đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người mà quan trọng hơn
là yếu tố thực tế đã kích thích chủ thể (con người) hoạt động năng động và
sang tạo hơn. Việc tạo lập, xây dựng và phát triển môi trường giáo dục là một
nhiệm vụ quan trọng của khoa học giáo dục hiện đại.
Nghiên cứu về môi trường dạy học phải kể đến công trình của Jean
Marc Denomme và Madeleine Roy về phương pháp sư phạm tương tác.
Trong đó, mô hình quen thuộc: Người dạy – Người học – Tri thức được
chuyển thành Người dạy – Người học – Môi trường. Tác giả coi môi trường

là yếu tố tham gia trực tiếp đến quá trình dạy học chứ không đơn thuần chỉ là
nơi diễn ra các hoạt động dạy học. Các tác giả đã nhấn mạnh đến một quy luật
quan trọng: Môi trường ảnh hưởng đến người dạy, người học và người dạy
phải thích nghi với môi trường. Ảnh hưởng và thích nghi đó chính là hệ quả
của phương pháp sư phạm tương tác liên quan đến môi trường.
Emile DurKheim quan niệm môi trường học đường bao hàm cả lớp học
và việc tổ chức lớp học, như một sự liên kết có phạm vi rộng hơn gia đình và
không trìu tượng như xã hội. Một lớp học không đơn thuần chỉ là một khối
kết dính các cá nhân độc lập với nhau mà còn là một xã hội thu nhỏ. Trong
lớp học, học sinh suy nghĩ, hành động và cảm nhận khác với khi chúng tách
rời nhau…Những quan niệm trên đây đã có trước hàng thế kỷ, hiện nay đang
trở thành vấn đề thời sự của khoa học giáo dục. Hầu hết các tác giả đều thống
nhất chung quan niệm về môi trường giáo dục đó là môi trường vật chất và
môi trường tinh thần do giáo viên, cán bộ quản lý và học sinh tạo ra.
PGS.TS Phạm Hồng Quang - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã nghiên cứu về môi trường văn hóa giáo dục, mối quan hệ của nó
với môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và chỉ ra những nguyên tắc
trong việc phát triển môi trường văn hóa giáo dục trong các nhà trường cơ sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
đào tạo giáo viên như: xây dựng cơ sở vật chất trường học, xây dựng văn hóa
chất lượng giáo dục, xây dựng các chuẩn mực trong giao tiếp ứng xử v v.
Bàn về môi trường học tập thân thiện đã có một số công trình nghiên
cứu đề cập đến, tuy nhiên mới chỉ ở một khía cạnh nào đó mà thôi, tiêu biểu
như công trình “Môi trường học tập trong lớp học” của tác giả Vũ Thị Sơn.
Gần đây có hai công tình nghiên cứu về xây dựng môi trường học tập thân
thiện của tác giả Phạm Duy Hưng và Nông Thị Hiểu đã khai thác môi trường
dưới góc độ các biện pháp quản lý và các biện pháp giáo dục trong nhà trường

phổ thông.
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh phổ
thông, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số là vấn đề còn bỏ ngỏ chưa có công
trình nào nghiên cứu, chính vì vậy mà tác giả đã chọn vấn đề làm đề tài
nghiên cứu.
1.2 Một số khái niệm công cụ
1.2.1 Khái niệm về môi trường
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện tự nhiên và
xã hội bao quanh con người và cơ ảnh hưởng tới sự sống và sự phát triển của
từng các nhân cũng như cả cộng đồng người và tác động qua lại với hoạt động
sống của con người.
Về phân loại, môi trường sống của con người gồm: môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo. Trong các loại môi trường nói
trên, môi trường xã hội có ý nghĩa rất quan trọng với sự phát triển của con
người. Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa con người với con
người tạo nên sự thuận lợi hoặc trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của cá
nhân cùng cộng đồng của họ.
Môi trường sống của con người là một phạm trù hẹp hơn so với phạm trù
môi trường. Môi trường sống thực hiện nhiều chức năng với con người. Cụ thể:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
- Là không gian sống của con người. Mỗi người trong quá trình sống
đều có không gian cần thiết cho các hoạt động như nhà ở, đất đai dùng để
sản xuất, tái tạo chất lượng môi trường sống. Yêu cầu về không gian sống của
con người thay đổi theo trình độ phát triển của kỹ thuật, công nghệ và sản
xuất. Trình độ phát triển của loài người càng cao thì nhu cầu về không gian
sản xuất càng giảm. Tuy nhiên nhu cầu về không gian sống của con người
không bao giờ mất đi. Sự sáng tạo của con người cho phép họ có thể tạo ra

những thay đổi đáng kể về không gian sống của mình. Con người có thể gia
tăng không gian sống bằng bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử
dụng của các loại không gian khác nhau. Điều đáng chú ý là, con người luôn
cần và vươn tới một chất lượng tốt của không gian sống. Vì vậy, con người
cần đến một thời gian xác định để cải tạo môi trường sống đã bị các loại hoạt
động khác nhau của con người làm suy giảm. Ngoài môi trường vật chất con
người còn mong muốn có một môi trường xã hội an toàn, môi trường giao
tiếp thân thiện để lao động, học tập, rèn luyện.
Môi trường là toàn thể hoàn cảnh tự nhiên tạo thành những điều kiện
sống bên ngoài của một sinh vật.
Môi trường là toàn thể hoàn cảnh xã hội( phong tục, tín ngưỡng, sinh
hoạt văn hoá, nghề nghiệp, gia đình…) xung quanh con người, có ảnh hưởng
đến đời sống và sự phát triển của con người.
Khái niệm môi trường được hiểu là toàn bộ những nhân tố bao quanh
con người hay sinh vật và tác động lên đời sống của con người, môi trường
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Theo chúng tôi, môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã
hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt
động sống của con người.
Quá trình hình thành nhân cách và sự phát triển nhân cách chỉ có thể
thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường tạo nên động cơ, mục
đích, cung cấp phương tiện cho hoạt động và giao lưu cá nhân. Tuy nhiên,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với cá nhân còn tuỳ thuộc vào thái độ,
xu hướng và năng lực của cá nhân trong các hoạt động và giao lưu mà con
người tham gia, môi trường giao tiếp là nơi con người tham gia quá trình giao
tiếp, chính môi trường giao tiếp ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực giao tiếp của

con người.
Vì vậy, nhận thức đúng về vai trò của môi trường giao tiếp và môi
trường giáo dục phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh THPT sẽ giúp nhà
giáo dục định hướng cho học sinh tiếp nhận những ảnh hưởng tốt đẹp của môi
trường giáo dục kỹ năng giao tiếp, đồng thời có khả năng chống lại những ảnh
hưởng xấu của môi trường giao tiếp.
1.2.2 Khái niệm về giao tiếp
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý phức tạp và nhiều mặt, nhiều cấp độ
khác nhau. Do đó, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định
nghĩa dựa trên một quan điểm riêng:
Các nhà Tâm lý học Xô Viết như L.X.Vưgôtxki cho rằng: “Giao tiếp là
sự thông báo hoặc là quan hệ qua lại một cách thuần túy giữa người với
người, như là một sự trao đổi quan điểm và cảm xúc”. X.L.Rubinstêin định
nghĩa ngắn gọn: “Giao tiếp là hình thức liên kết giữa con người với nhau”.
A.A.Lêônchiev lại cho rằng: “Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có
mục đích và động cơ đảm bảo cho sự tương tác giữa người này với người
khác trong hoạt động tập thể thực hiện các mối quan hệ liên nhân cách, các
quan hệ tâm lý và sử dụng phương tiện đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ”.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi con người luôn gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của những cộng đồng xã hội nhất định. Không ai có thể sống, hoạt
động ngoài gia đình, bạn bè, địa phương, tập thể, dân tộc, tức là ngoài xã hội.
Người La Tinh nói rằng: “Ai có thể sống một mình thì người đó hoặc là thánh
nhân hoặc là quỷ sứ”. Trong quá trình sống và hoạt động đó, nảy sinh trong
mỗi chúng ta nhiều mối quan hệ. Chỉ có một số ít các mối quan hệ là có sẵn từ
khi chúng ta cất tiếng chào đời, còn đại đa số các mối quan hệ còn lại được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
hình thành, phát triển trong quá trình sống và hoạt động trong cộng đồng xã

hội, thông qua các hình thức tiếp xúc, gặp gỡ trao đổi, liên lạc đa dạng với
người khác mà chúng ta thường gọi là giao tiếp. Xã hội càng phát triển, văn
minh thì nhu cầu và hình thức giao tiếp càng cao và đa dạng. Giao tiếp càng trở
thành một kỹ năng không thể thiếu và cần phải được rèn luyện. Có rất nhiều
khái niệm về giao tiếp:
“Giao tiếp là việc trao đổi thông tin giữa con người và thường dẫn tới
hành động tiếp theo”, “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông
qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết, tác
động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau”, “Giao tiếp là một quá trình trao đổi thông
tin giữa các cá nhân qua một hệ thống bao gồm các ký hiệu, dấu hiệu và hành
vi. Giao tiếp cũng có thể hiểu là các hình thức biểu lộ tình cảm, trò chuyện,
diễn thuyết, trao đổi thư tín, thông tin…” [Bài giảng Kỹ năng giao tiếp –
PGS.TS Đặng Đình Bôi].
Giao tiếp là hoạt động diễn ra rất nhiều, hàng ngày và dưới nhiều hình
thức trực tiếp hoặc gián tiếp như giao tiếp qua lời nói, ngôn ngữ không lời (cử
chỉ, hành vi, nét mặt, trang phục…), hỏi đáp, quan sát, nghe, trình bày, nói
chuyện, qua báo cáo, gửi thư, thư điện tử…nhằm trao đổi thông tin hay nói
cách khác giao tiếp là một quá trình trong đó các bên tham gia tạo ra và chia sẻ
thông tin hoặc cảm xúc với nhau để đạt được mục đích giao tiếp.
Giao tiếp là hiện tượng tâm lý rất phức tạp của con người. Mặc dù có
nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về giao tiếp nhưng nhìn chung mọi
người đều thống nhất ở một điểm giao tiếp là quá trình truyền thông, phải có
xây dựng một bản thông điệp sau đó gửi đi với hy vọng người nhận sẽ hiểu
thông điệp đó.
Như vậy, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối
quan hệ giữa con người với con người nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất
định đó là trao đổi và tiếp nhận thông tin.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
Ở Việt Nam, trong giáo trình “giao tiếp sư phạm” tác giả Ngô Công
Hoàn đã định nghĩa: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa
con người với con người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu
hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua
lại lẫn nhau” [Giáo trình giao tiếp sư phạm – Ngô Công Hoàn].
Trong tài liệu “Tâm lý học đại cương” tác giả Nguyễn Quang Uẩn đã
nêu ra định nghĩa: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người thông
qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn nhau,
ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói khác đi, giao tiếp xác lập và
vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa
chủ thể này với chủ thể khác”.
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và
vận hành các quan hệ người - người để thực hiện các quan hệ xã hội giữa
người ta với nhau”.
Mỗi tác giả khác nhau dựa trên một quan điểm riêng của mình đã đưa
ra những định nghĩa khác nhau về giao tiếp, tuy nhiên họ đều cho rằng giao
tiếp là hoạt động đặc trưng của con người, là sự trao đổi thông tin giữa con
người với nhau.
Từ những cách hiểu trên, theo chúng tôi, có thể hiểu về giao tiếp như
sau: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng của xã hội, là sự tiếp xúc tâm lý giữa
người với người, qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc,
tri giác lẫn nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, thiết lập và duy trì
mối quan hệ giữa con người với con người”
1.2.3. Khái niệm về môi trường giao tiếp
Mỗi một hoạt động giao tiếp khác nhau thì đều có môi trường giao tiếp
khác nhau. Như đã phân tích ở phần khái niệm môi trường, môi trường giao
tiếp được hiểu là những lĩnh vực, không gian giao tiếp xã hội đã được khu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
biệt bởi những động cơ, mục đích, nội dung, hình thức và phương tiện giao
tiếp. Môi trường giao tiếp luôn phải đảm bảo ba yếu tố cơ bản như sau:
+ Phương tiện (kênh) giao tiếp: Khi lựa chọn phương tiện giao tiếp,
bạn cần cân nhắc khả năng hiểu thông điệp của người nhận thông qua phương
tiện cụ thể đó.
+ Mối quan hệ và vị trí của những người tham gia giao tiếp: Điều này
quyết định cách mỗi người nhìn nhận vị trí của mình trong quan hệ giao tiếp,
do đó ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược giao tiếp sẽ lựa chọn. Mối quan hệ
này cũng kéo theo những tình cảm, cảm xúc có thể khiến một cuộc giao tiếp
trở nên thành công hay thất bại.
+ Môi trường khi diễn ra quá trình giao tiếp (địa điểm, thời gian, không
gian, âm thanh, ánh sáng…) cũng ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp. Lựa chọn
môi trường vật chất phù hợp sẽ giúp giao tiếp dễ đạt mục đích hơn.
Môi trường giao tiếp là không gian diễn ra các hoạt động giao tiếp, có
ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung giao tiếp, cách thức giao tiếp, chất lượng
giao tiếp của con người. Môi trường giao tiếp có tầm quan trọng và lợi ích lớn
vì nó quyết định đến chất lượng và hiệu quả của giao tiếp. Có khả năng đem
lại thành công trong giao tiếp cho con người.
Môi trường giao tiếp có thể hiểu là những yếu tố vật chất, hay tinh thần
tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình giao tiếp. Môi trường giao tiếp có
thể tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho quá trình giao tiếp của con người.
Đó là cảnh quan cơ sở vật chất nơi con người thực hiện quá trình giao tiếp, yếu
tố tâm lý do chủ thể giao tiếp tạo ra cho đối tượng giao tiếp, thái độ và hành vi
ứng xử giữa các thành viên trong quá trình giao tiếp, những quy định có tính
chuẩn mực của tổ chức hay nhà trường nơi diễn ra hoạt động giao tiếp vv…
* Các yếu tố tạo nên môi trường giao tiếp:
Môi trường giao tiếp được tạo nên bởi các yếu tố: cơ sở vật chất (hay
môi trường vật chất); yếu tố tâm lý, tinh thần và yếu tố xã hội (còn được gọi là


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
môi trường tinh thần). Trong nhà trường phổ thông, môi trường giao tiếp của
học sinh được tạo bởi các yếu tố: Cơ sở vật chất trường lớp, cảnh quan nhà
trường, truyền thống nhà trường, thái độ, hành vi ứng xử của các thành viên
trong nhà trường và phương pháp giảng dạy của giáo viên, tính tích cực chủ
động tham gia của học sinh trong quá trình hoạt động học tập, rèn luyện vv…
* Những ảnh hưởng tích cực của môi trường giao tiếp:
- Tạo cho học sinh một không gian thuận lợi, tích cực để rèn luyện các
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử.
- Là điều kiện tốt cho học sinh tự trải nghiệm, chia sẻ, tự khẳng định vị
trí và năng lực của bản thân.
- Là điều kiện, phương tiện để học sinh tiếp thu kiến thức, hoàn thiện nhân
cách và phát triển toàn diện về mọi mặt đặc biệt là phát triển kỹ năng sống.
* Những ảnh hưởng tiêu cực của môi trường giao tiếp:
- Môi trường giao tiếp không có văn hóa sẽ là nguyên nhân dẫn đến
những hành vi lệch chuẩn ở học sinh phổ thông, dẫn đến hiện tượng bạo lực
học đường, làm hạn chế chất lượng giáo dục, dạy học của nhà trường, ảnh
hưởng tới mối đoàn kết nội bộ. Môi trường giao tiếp có tầm quan trọng đặc
biệt, vì vậy, nhà giáo dục cần tạo điều kiện để phát triển, mở rộng môi trường
giao tiếp cho học sinh.
Giao tiếp là một trong những con đường cơ bản để hình thành và phát
triển nhân cách con người. Khả năng giao tiếp tốt là chìa khóa khởi nguồn cho
sự thành công. Khả năng giao tiếp của mỗi người có ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố khác nhau. Nó phụ thuộc vào vốn sống, vốn kinh nghiệm và tính tự chủ
của bản thân chủ thể, phụ thuộc vào môi trường, điều kiện, hoàn cảnh giao
tiếp. Đối với hoạt động giao tiếp của học sinh môi trường giao tiếp là điều
kiện cần thiết để phát triển kỹ năng, năng lực giao tiếp cho học sinh. Môi

trường giao tiếp có văn hóa góp phần tạo nên sự thành công trong giao tiếp,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đồng thời giúp bản thân học sinh hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
thiện nhân cách của mình theo mục tiêu giáo dục và yêu cầu xã hội. Trong
nhà trường phổ thông nói chung, trường phổ thông nói riêng, hoạt động giao
tiếp của học sinh thể hiện ở mối liên hệ trực tiếp giữa học sinh với giáo viên,
giữa học sinh với học sinh và các mối quan hệ tiếp xúc giữa học sinh với các tổ
chức giáo dục trong nhà trường. Thông qua hoạt động giao tiếp, giáo viên cung
cấp tri thức, kỹ năng, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp cho học tập, phương
pháp rèn luyện, phương pháp nhận thức cho học sinh, giúp họ tự thay đổi để
phát triển.
Đối với giáo viên, môi trường giao tiếp thuận lợi sẽ giúp người giáo
viên dễ dàng hiểu được tính cách, năng lực, phẩm chất hay những nét tâm lý
riêng của từng học sinh. Cũng qua đó, người giáo viên tự điều chỉnh thái độ,
lời nói, cử chỉ và hành vi ứng xử phù hợp, rèn luyện thêm các kỹ năng giao
tiếp, hoàn thiện nhân cách cũng như năng lực của mình.
Hiện nay, với ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, yêu cầu đặt ra cho
mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, dân tộc ngày càng cao. Con người cần phải có khả
năng thích ứng, hợp tác để tồn tại và phát triển. Đặc biệt yêu cầu cao đối với
học sinh phổ thông là những người đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời,
chuẩn bị bước vào cuộc sống lao động, học tập việc nâng cao năng lực giao
tiếp, hình thành kỹ năng sống có vai trò không nhỏ trong việc đào tạo ra
những con người “vừa hồng, vừa chuyên” nhằm xây dựng và bảo vệ thành
công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1.2.4 Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp được hiểu là quá trình

giáo viên, học sinh tiến hành một hệ thống các biện pháp nhằm tạo ra một môi
trường giao tiếp an toàn, hiệu quả, thu hút người học tích cực tham gia, giúp
người học có cơ hội được trải nghiệm được phát huy và khẳng định mình
thông qua việc trao đổi, tiếp nhận thông tin để rèn luyện các kỹ năng giao tiếp
ứng xử.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp là hệ thống những tác
động của chủ thể giao tiếp nhằm tạo ra môi trường vật chất, môi trường tinh
thần và môi trường xã hội an toàn, thu hút đối tượng giao tiếp tự giác tham
gia, đồng thời tạo cơ hội cho đối tượng giao tiếp được bày tỏ thái độ và quan
điểm của mình trong môi trường đó nhằm đem đến sự hài lòng cho đối tượng
giao tiếp và chủ thể giao tiếp cũng như những người xung quanh, giúp đối
tượng giao tiếp phát triển các kỹ năng giao tiếp nâng cao hiệu quả giao tiếp.
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp là sự kết thừa, phát
huy những yếu tố tích cực của môi trường văn hoá giáo dục nhà trường, đồng
thời xây dựng, lựa chọn những phương pháp, phương tiện giao tiếp tích cực
để đạt được hiệu quả giao tiếp. Đây là nhiệm vụ của tập thể giáo viên, cán bộ
quản lý nhà trường, các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường đồng thời
là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi học sinh .

1.3. Những vấn đề cơ bản về phát triển môi trƣờng giáo dục kỹ năng giao
tiếp cho học sinh trƣờng phổ thông DTNT
1.3.1 Đặc điểm tâm lý của học sinh phổ thông DTNT
Mỗi một nhóm người, một cộng đồng xã hội hay một tộc người đều có
những đặc trưng tâm lý riêng mang tính chất xã hội - lịch sử. Học sinh THPT
người dân tộc thiểu số vừa mang đậm tính dân tộc của học vừa mang đầy đủ
những đặc điểm tâm lý của học sinh bậc THPT nói chung. Học sinh THPT là

giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người
lớn. Đây là lứa tuổi có những nét nổi bật như nhiệt tình, sôi nổi, đầy ước mơ
và đây cũng là lứa tuổi đang bắt đầu hình thành các chức năng tâm lý như khả
năng nhận thức, tình cảm, ý chí …đặc biệt là năng lực trí tuệ. Đây là điều kiện
để hình thành một nền tảng kiến thức, tính cách của một con người trong
tương lai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Trên thực tế đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc
thiểu số ở Hà Giang nói riêng chủ yếu sinh sống ở vùng rừng núi, vùng sâu,
vùng xa, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, giao thông
đi lại khó khăn, ít tiếp xúc với xã hội bên ngoài, nhất là điều kiện để tiếp cận
với xã hội là triển bị hạn chế nên trình độ dân trí thấp. Cuộc sống của người
dân tộc thiểu số sống gắn bó với thiên nhiên, phụ thuộc vào thiên nhiên, lao
động thủ công là chủ yếu. Các hoạt động kinh tế vẫn là tự cung tự cấp ít có
hoạt động sản xuất hàng hóa nên thu nhập không cao, chất lượng cuộc sống
thấp. Hiện nay, tuy nhà nước đã khuyến khích người dân tộc thiểu số sống
định canh, định cư những vẫn còn một ít người dân tộc hoặc nhóm người vẫn
sống du canh, du cư học đi cả nhà và ở lại trong rừng, làm nương rẫy. Chính
đặc điểm này làm cho mặt bằng kiến thức của học sinh người dân tộc thiểu số
không đồng đều, chất lượng thấp hơn mặt bằng trung. Do vậy, trong quá trình
học tập các học sinh người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn hơn so với
các học sinh khác.
Bên cạnh đó, vốn ngôn ngữ phổ thông ở học sinh người dân tộc thiểu
số cũng bị hạn chế. Tốc độ nói chậm, phát âm không chuẩn, nói ngọng, nói
mất dấu, sai ngữ pháp, diễn dạt rời rạc….Đây có thể coi là khó khăn lớn nhất
làm hạn chế khả năng học tập và giao tiếp của các em học sinh người dân tộc
thiểu số.

Đặc điểm tâm lý tình cảm của học sinh người dân tộc thiểu số thường
khép kín, ít bộc lộ. Vì vậy, trong hoạt động học tập và các hoạt động sinh hoạt
khác các em thường bình thản, ít tham gia nên giáo viên khó nắm bắt được
tâm lý của đối tượng học sinh này.
Nhận thức ở các em học sinh THPT người dân tộc thiểu số cũng có sự
khác biệt đó là ngay từ khi còn bé các em đã được tiếp xúc nhiều với thiên
nhiên nên đối tượng tri giác của các em là các sự vật, hiện tượng gắn liền với
tự nhiên, thiên nhiên. Chẳng hạn tri giác về không gian hay thời gian các em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
thường gắn với những quy ước mang tính cộng đồng như khoảng, buổi, thời
điểm của mặt trời, mặt trăng thay vì các đơn vị đo như ngày, giờ, tháng….
Hơn nữa, do sống trong điều kiện tự cấp, tự túc, năng xuất lao động
phụ thuộc vào thiên nhiên, ít va chạm, sống theo tập tự và thỏa mãn với
những gì đã có nên trong tư duy của các em thể hiện những đặc trung về tư
duy hình ảnh trực quan sinh động hơn là khả năng tư duy ngôn ngữ. Các em
thiếu thói quen suy nghĩ theo chiều sâu. Biểu hiện trong học tập và không
phát hiện những mâu thuẫn cần giải quyết, suy nghĩ thiếu sâu sắc, nhiều em
không hiểu bài nhưng cũng không biết mình không hiểu ở chỗ nào, có thói
quen suy nghĩ một chiều và dễ dàng thừa nhận những gì người khác nói, óc
phê phán còn hạn chế biểu hiện là trong quá trình làm bài thì thường đọc đề
bài qua loa, không suy nghĩ thấu đáo đã bắt tay vào làm bài nên dễ dàng nhầm
lẫn hoặc sai sót.
Cuộc sống của học sinh dân tộc thiểu số ở các trường nội trú còn nhiều
khó khăn, các em phải sống xa gia đình trong khi chưa chuẩn bị đủ cho cuộc
sống tự lập, mọi trang trải cho học tập, cuộc sống đều phụ thuộc vào hỗ trợ
của nhà nước, sinh hoạt vật chất của các em rất eo hẹp. Điều này cũng dẫn
đến tâm lý tự ti, mặc cảm, chấp nhận cuộc sống âm thầm, lặng lẽ thiếu thốn

tình cảm, vật chất.
Có thể nói học sinh người dân tộc thiểu số ở bậc THPT trong cả nước
nói chung và ở Hà Giang nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống
và hoạt động học tập. Khả năng nhận thức chậm, ngôn ngữ phổ thông hạn chế
khó hòa nhập với phương pháp giảng dậy mới, mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp
là những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của các em.

1.3.2 Mục đích, yêu cầu của việc phát triển môi trường giáo dục kỹ năng
giao tiếp cho học sinh phổ thông DTNT
Mục tiêu của xây dựng môi trường giao tiếp là nhằm tạo điều kiện, tạo
phương tiện, tạo động lực cho hoạt động dạy và học phát triển. Giúp nhà quản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
lý, giáo viên không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, chất lượng giáo
dục toàn diện học sinh. Môi trường giao tiếp góp phần tạo nên chất lượng
giáo dục không ngừng được nâng cao bởi ở đó người học được tiếp nhận và
chia sẻ thông tin, được khắc phục những hẫng hụt về tâm lý, được trợ giúp
khó khăn trong giao tiếp. Các thầy, cô giáo phải thân thiện trong dạy học, thân
thiện trong đánh giá kết quả rèn luyện, học tập của học sinh, đánh giá công
bằng, khách quan với lương tâm và trách nhiệm của nhà giáo giúp các em tự
tin trong học tập, rèn luyện, sẵn sàng chia sẻ thông tin và chủ động tìm kiếm,
tiếp nhận thông tin trong học tập, rèn luyện.
Môi trường giao tiếp tốt giúp học sinh được học tập, rèn luyện trong
môi trường lành mạnh, an toàn, tránh được những bất trắc, nguy hiểm đe dọa.
Môi trường giao tiếp có đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất đảm bảo các
quyền tự nhiên thiết yếu của con người: đủ nước sạch, ánh sáng, phòng y tế,
nhà vệ sinh, sân chơi, bãi tập, không gian cây xanh v v…tạo điều kiện cho
học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ, kích thích lòng ham

học và sự say mê tìm kiếm kiến thức của học sinh, giúp học sinh có động cơ
học tập đúng đắn.
Môi trường giao tiếp thân thiện, chia sẻ tạo lập sự bình đẳng giới, bình
đẳng giữa các học sinh thuộc các dân tộc khác nhau, không có sự phân biệt,
kỳ thị giàu nghèo, học sinh khuyết tật. Chính môi trường đó chú trọng kỹ
năng sống, giáo dục học sinh dân tộc hòa nhập, giáo dục cho học sinh biết rèn
luyện thân thể, biết tự bảo vệ sức khỏe, biết sống khỏe mạnh, an toàn. Phát
huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt
động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả. Tăng cường sự tham gia một cách
hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại
cộng đồng, với thái độ tự giác, chủ động và ý thức.
Môi trường giao tiếp thân thiện, chia sẻ tạo cho thầy và trò gắn kết với
nhau, trò – trò quan hệ thân thiện, đoàn kết cùng nhau học tập, rèn luyện để
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20


1.3.3 Ý nghĩa của việc phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho
học sinh DTNT
Ý nghĩa quan trọng nhất của việc phát triển môi trường giáo dục là tạo
nên một môi trường (cả về vật chất lẫn tinh thần) an toàn, bình đẳng, tạo hứng
thú cho học sinh trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trên cơ sở tập
trung mọi nỗ lực của nhà trường vì người học. Kết quả cuối cùng là hướng
đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, góp phần nâng
cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Môi trường giao tiếp thân thiện có tác dụng phát triển kỹ năng giao tiếp
cho học sinh gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tích cực của học sinh. Bởi giao

tiếp được tiến hành ngay trong quá trình học tập, rèn luyện, trong sinh hoạt
sống của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập
hứng thú,chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của thầy cô giáo, gắn
chặt giữa học và hành, biết thư giãn khoa học, rèn luyện kỹ năng và phương
pháp học tập, trong đó những yếu tố hết sức quan trọng là khả năng tự tìm
hiểu, khám phá, sáng tạo được thực hiện thông qua hoạt động giao tiếp và kỹ
năng giao tiếp của bản thân. Nhờ có giao tiếp mà học sinh cảm nhận về người
khác và về bản thân mình, nhờ giao tiếp mà học sinh tự biến đổi tri thức, kỹ
năng cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp là điều kiện để từng
bước xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý, đáp
ứng yêu cầu của giáo dục trong thời kỳ phát triển mới. Theo đó, các thế hệ
học sinh năng động, tích cực dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo được học
tập trong môi trường giao tiếp thân thiện, cởi mở, có tính chuẩn mực trong
ứng xử sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững cho nhà trường, cho
địa phương, cho đất nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Xây dựng môi trường văn hoá giáo dục giúp nhà trường trở thành trung
tâm văn hóa, gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội ở địa phương. Xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho nhà trường, nêu
cao đạo lý tôn sư trọng đạo, tôn vinh nghề dạy học. Phát triển môi trường giáo
dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh giúp các em tự tin trong học tập, rèn
luyện, phát triển năng lực cá nhân, tham gia tích cực hoạt động xây dựng phát
triển trường, lớp.
Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện tích cực tạo cho học sinh có
cảm nhận an toàn, thân thiết, thích đến trường, các em nhận thấy rằng trường
học đó trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời. Giáo dục đó trở

thành mục đích sống, lẽ sống của học sinh, nơi đây các em được rèn luyện và
phát triển, môi trường giao tiếp góp phần tạo động lực cho học sinh học tập,
rèn luyện để phát triển nhân cách.
Xây dựng môi trường giao tiếp và phát triển kỹ năng giao tiếp cho học
sinh góp phần nâng cao năng lực của cộng đồng và gia đình, giúp học sinh
phát triển tối đa tiềm năng, trong đó chú trọng đến sự phát triển về thể chất,
nhân thức và tâm lý xã hội, góp phần làm thay đổi hẳn những thói quen, tập
quán của đồng bào các dân tộc thiếu số cũng như cuộc sống của các em.
Xây dựng môi trường giao tiếp và phát triển kỹ năng giao tiếp cho học
sinh là một nội dung quan trọng trong xây dựng văn hóa nhà trường, đối với
trường phổ thông DTNT vùng khó khăn, góp phần tạo động lực thúc đẩy học
sinh tới trường, nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự công bằng trong giáo
dục, giúp giáo dục miền núi phát triển.

1.3.4 Nội dung phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học
sinh phổ thông DTNT
Phát triển môi trường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh là những
biện pháp của chủ thể giao tiếp (giáo viên, cán bộ) và đối tượng giao tiếp (học
sinh) nhằm tạo ra môi trường vật chất an toàn, thân thiện với đối tượng giao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
tiếp và các mối quan hệ xã hội chia sẻ, cộng đồng hợp tác trong học tập, rèn
luyện cùng với các yếu tố tâm lý tích cực thúc đẩy người học tự giác chủ động
trong quá trình giao tiếp nhằm thực hiện có hiệu mục tiêu và nhiệm vụ học tập,
rèn luyện đề ra. Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, chia sẻ có khả năng
phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh là tạo ra những ảnh hưởng tích cực tới
chất lượng giáo dục, dạy học và chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Xây
dựng môi trường phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh bao gồm:

1.3.4.1 Phát triển không gian, cơ sở vật chất thân thiện trong nhà trường
- Không gian vật lý thân thiện: trường lớp xanh, sạch, đẹp và thân thiện
(luôn đảm bảo vệ sinh, chăm sóc các bồn hao cây cảnh. Chú ý trang trí không
gian lớp học: Góc thiên nhiên, góc học tập. Tăng cường các khẩu hiệu, pa nô
vừa có tính thẩm mĩ lại vừa có tính tuyên truyền giáo dục).
Cơ sở vật chất đầy đủ tiện nghi cho việc học tập của học sinh, xây dựng
thư viện thân thiện, phòng đọc thân thiện, phòng học đủ ánh sáng và thuận lợi
cho việc học tập của học sinh. Nhà trường đảm bảo an toàn về vệ sinh, nước
uống và tránh xa những nơi có tiếng ồn. Hiệu trưởng phải thường xuyên huy
động mọi nguồn lực trong và ngoài nhà trường nhằm đảm bảo thông tin tốt
nhất cho trẻ em trong môi trường an toàn, hiệu quả.
1.3.4.2. Xây dựng quan hệ thân thiện, chia sẻ giữa giáo viên với đồng
nghiệp, giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh
Xây dựng quan hệ thân thiện giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học
sinh đó là quan hệ chia sẻ, cộng đồng hợp tác, chia sẻ những khó khăn trong dạy
học, giáo dục học sinh và cuộc sống đời thường. Huy động giáo viên, học sinh
cùng cộng đồng hợp tác trong xây dựng “trường ra trường, lớp ra lớp”.
Giáo viên chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm giảng dạy, giáo dục
học sinh và những khó khăn trong cuộc sống, tạo nên môi trường làm việc
cộng đồng trách nhiệm với triết lý vì sự tiến bộ của học sinh, người học là lý
do tồn tại của nhà trường. Thầy tận tâm với nghề, trách nhiệm với đồng
nghiệp hết lòng vì học sinh thân yêu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện trong tập thể sư phạm với nhau.
Điều này rất quan trọng, vì nó là cái lõi để thân thiện với mọi đối tượng khác.
Giáo viên chia sẻ với học sinh những khó khăn trong học tập, rèn luyện. Quan hệ
thầy trò là quan hệ cộng đồng hợp tác cùng chung một mục đích đó là vì sự tiến

bộ của người học và quán triệt triết lý “ Thầy ra thầy, trò ra trò”.
Thân thiện giữa tập thể sư phạm, nhất là các thầy, cô với các em học
sinh. Thầy cô cùng các bộ phận khác trong nhà trường đều hoạt động theo
phương châm: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Từ đó, học sinh sẽ quý mến,
kính trọng thầy cô một cách thực sự.
Coi trọng việc giáo dục bình đẳng giới để các em học sinh nam, nữ biết
quý trọng nhau, sống hòa đồng với nhau. Rèn kỹ năng sống cho học sinh
thích ứng với xã hội, bởi cuộc sống nhà trường là cuộc sống thực, không để
học sinh phải “ngơ ngác” trước cuộc sống xã hội đang từng ngày thay đổi.
1.3.4.3 Dạy và học hiệu quả, lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy
học tạo môi trường học tập hợp tác, chia sẻ cho học sinh
Biến những kiến thức xa lạ thành gần gũi, thân quen, thu hút học sinh
cùng tham gia trong môi trường học tập hợp tác với thầy, với bạn. Phương
pháp dạy học (PPDH) phổ biến ở phổ thông hiện nay vẫn theo hướng “Lấy
người dạy là trung tâm” (Teacher – centered) với quan niệm giáo viên là người
truyền đạt kiến thức và học sinh là người tiếp thu kiến thức. Kiến thức từ sách
giáo khoa được giáo viên “độc quyền” truyền đạt cho học sinh, kiến thức của
các em phụ thuộc vào kiến thức của thầy và học sinh luôn là người lĩnh hội tri
thức thụ động. PPDH này đã dẫn đến lối dạy “Thầy đọc – trò chép” và lối học
“thuộc lòng những gì thầy đọc cho chép”. Đây là phương pháp dạy học tạo nên
thói quen thụ động, trông chờ và sức ỳ của học sinh trong tiếp thu kiến thức, sẽ
ảnh hưởng nhiều đến tính năng động, sáng tạo trong cuộc sống và là môi
trường giao tiếp không tích cực cho học sinh.
PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học (Learner-
centered) thực sự là phương pháp dạy học hướng vào người học, thu hút
người học cùng tham gia hợp tác, giáo viên ở đây chỉ là người tổ chức và trợ

×