Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.21 KB, 79 trang )


1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TẠI HUYỆN PHÚ LƢƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Kinh tế Nông Nghiệp
Mã số: 60 - 31- 10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Phạm Thị Lý
Thái Nguyên – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trang trại - loại hình kinh tế của sản xuất nông nghiệp đã và đang phát
triển mạnh mẽ ở nước ta trong những năm gần đây gắn liền với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo. Sự phát triển của kinh tế trang trại đã mang lại những
thành tựu hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng tập trung chuyên canh, sản xuất hàng hóa, tạo ra những


sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao. Kinh tế trang trại phát triển mang lại hiệu
quả kinh tế, xã hội, môi sinh, môi trường góp phần phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động, góp phần xóa đói giảm
nghèo ở khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Tuy nhiên để kinh tế trang trại thực sự trở thành loại hình kinh tế năng
động, hiệu quả của nền nông nghiệp hàng hóa mang tính cạnh tranh cao trong
những thập niên đầu của thế kỷ 21 thì Nhà nước và nông dân còn phải giải
đáp nhiều bài toán, tháo gỡ nhiều khó khăn vướng mắc ở cả tầm vi mô lẫn vĩ
mô liên quan đến nhận thức, cơ chế chính sách và các giải pháp cụ thể như đất
đai, vốn, lao động, khoa học công nghệ, tổ chức quản lý, thị trường.
Trong những năm trở lại đây, vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự
được công nhận và được quan tâm chú ý, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại thì
kinh tế trang trại mới thực sự được sự trợ giúp của Nhà nước cả về cơ chế và
chính sách. Sự tăng nhanh về số lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng
tỏ đây là một mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh
tế nông nghiệp, nông thôn nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho
bản thân và cho xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Thái Nguyên, không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại
với quy mô đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng
bằng phía nam, nhưng được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự nhiên, khí
hậu…đặc biệt là vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ
thâm canh của người dân tương đối cao.
Huyện Phú Lương là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng, nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông

nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người, thì kinh tế trang trại là một trong những mô
hình phù hợp. Những năm qua, kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều khởi
sắc, nhưng thật sự vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Vì vậy, tôi
chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế trang trại tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung:
Nghiên cứu tìm ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
trang trại tại huyện Phú Lương tỉnh Thái nguyên góp phần vào sự phát triển
kinh tế của tỉnh.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế trang trại và các yếu tố ảnh
hưởng đến kinh tế trang trại tại huyện Phú Lương.
- Đề xuất giải pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Phú Lương.
3. Đối tƣợng, nội dung và phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
3.1. Đối tượng:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại trên địa bàn huyện Phú
Lương tỉnh Thái Nguyên.
3.2 Nội dung:
- Các vấn đề kinh tế - xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế
trang trại của huyện Phú Lương,
- Phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích những tồn tại và đề xuất các giải
pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu toàn
bộ trang trại trên địa bàn huyện Phú Lương.
- Phạm vi thời gian: tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm 2009-
2011. Tập trung vào năm 2011.
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn:
Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề giữa lý luận và thực tiễn về trang
trại, để từ đó phân tích đánh giá tình hình hoạt động của trang trại, đưa ra các
giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại tại huyện Phú Lương.
5. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang
trại.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Phú Lương.
Chương 4: Giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế trang trại tại huyện
Phú Lương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về trang trại
1.1.1. Khái niệm trang trại và kinh tế trang trại
1.1.1.1. Khái niệm về trang trại
Hiện nay vẫn có rất nhiều khái niệm về trang trại, có những khái niệm
rất dài, rất cụ thể nhưng cũng có những khái niệm lại rất ngắn gọn và cô đọng.
Ví như ở Bangladesh, người ta định nghĩa trang trại rất đơn giản, trang
trại là một vùng đất dành cho nông nghiệp. [10]


Hay như ở Canada trang trại lại được định nghĩa cụ thể hơn, trang trại có
nghĩa là đất sử dụng cho mục đích chăn nuôi, sản xuất bơ sữa, nuôi ong, trồng
cây ăn trái và những cây khác và toàn bộ đều là đất trồng trọt. [11]

Còn theo trang từ điển wordnet thì trang trại là một nơi làm việc gồm các
công trình xây dựng lớn nhỏ của trang trại và đơn vị diện tích đất nuôi trồng.
[12]

Theo PGS - TS Lê Trọng (2000) cho rằng trang trại là cơ sở, là doanh
nghiệp kinh doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh.
Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với hình thức
sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy mô hộ gia
đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường.
Trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nông
dân, hình thành và phát triển chủ yếu trong điều kiện kinh tế thị trường khi
phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến.
Một số tác giả khi nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển kinh tế
trang trại trên thế giới cho rằng, các trang trại được hình thành từ cơ sở của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
các hộ tiểu nông sau khi từ bỏ sản xuất tự cung tự cấp khép kín, vươn lên sản
xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường trong điều kiện cạnh tranh. [1]

Theo tác giả, trang trại là một đơn vị kinh doanh nông nghiệp, được phát
triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân, với mục đích chính là sản xuất
hàng hoá.
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và

nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy
sản. [5]

Khái niệm trên đã khá đầy đủ, nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị
trường sản phẩm của trang trại phải mang tính hàng hoá và đáp ứng nhu cầu
thị trường vì vậy theo tác giả thì kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản
xuất hàng hóa trong nông nghiệp, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng
quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông,
lâm, thủy sản nhằm đáp ứng và luôn gắn với yêu cầu của thị trường.
1.1.2. Phân loại trang trại
Căn cứ điều 3, chương I thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT ngày
13/04/2011 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thì các trang trại
được xác định theo lĩnh vực sản xuất như sau:
- Trang trại trồng trọt;
- Trang trại chăn nuôi;
- Trang trại lâm nghiệp;
- Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;
- Trang trại tổng hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của
ngành chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong
năm.
Trường hợp không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng
hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.
1.1.3. Những tiêu chí xác định kinh tế trang trại

Căn cứ điều 5, chương II thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày
13/04/2011 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thì tiêu chí xác định
kinh tế trang trại như sau:
1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải
đạt:
a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000
triệu đồng/năm trở lên;
3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và
giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
1.1.4. Những đặc trưng của trang trại
Qua khảo sát thì các trang trại trên địa bàn huyện Phú Lương đều là
trang trại gia đình, vì vậy tác giả tập trung đưa ra những đặc trưng của trang
trại gia đình. [9]

1.1.4.1 Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần
thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình kinh tế
trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái
sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm : sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó là
dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia
đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia

đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang
trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu
thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là
những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự
cung tự cấp.
Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền
sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia
đình. Bằng công sức , tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình
thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất
kinh doanh bằng những tài sản chung đó.
Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất kinh
doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai nhất
định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng thời
cũng là trụ sơ giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong việc
tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm giao
dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy
định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh
vực như : đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và
môi trường, bảo hộ, vv Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại
gia đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa
chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ
chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,

1.1.4.2 Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông sản
phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của
trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế
hộ tự cấp tự túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản xuất
nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong cơ
chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng cơ
bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và
tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ
yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình
trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá
là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 –
80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001
cho thấy : Ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong
cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ
suất hàng hoá là 92,6% . Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ
ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp
tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Kinh tế trang trại chủ yếu là sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
nông, lâm và ngư nghiệp ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu của thị trường từ
đó dần phát triển mở rộng quy mô sản xuất.
Sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống tự cung, tự cấp chỉ giải
quyết nhu cầu của chính người sản xuất, lượng sản phẩm dư thừa đem bán
trên thị trường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với khối lượng nông sản mà họ
sản xuất ra. Các hộ nông dân cũng cố gắng bán bất kỳ thứ nông sản nào do

chính bản thân họ sản xuất ra - giai đoạn này gọi là thương mại hóa sản phẩm.
Sau đó, hộ nông dân sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của thị trường - đó là giai
đoạn sản xuất hàng hóa của hộ đã đạt tới một trình độ cao để thích ứng với
nhu cầu của thị trường. Tới khi sản xuất hàng hóa khu vực nông thôn đã đạt
đến một cấp độ cao hơn, một bộ phận hộ nông dân đã phát triển đến hình thức
sản xuất theo mô hình trang trại. Lúc này, số lượng hàng hóa, chất lượng hàng
hóa và cơ cấu sản phẩm đều được nâng lên. Số lượng hàng hóa được sản xuất
nhiều hơn, quá trình sản xuất được phân hóa, một số hộ đã tích tụ ruộng đất,
đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất. Chất lượng hàng hóa cũng tốt hơn, đảm bảo
cả về an toàn, vệ sinh trong nông sản, chất lượng dịch vụ cung cấp nông sản
cũng tốt hơn. Cơ cấu sản phẩm được cung cấp theo hướng chuyên môn hóa
theo vùng sản xuất, bởi vì ngoài tác động của thị trường, sản phẩm nông
nghiệp còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện tự nhiên của vùng, vì vậy các
trang trại cũng phải tuân thủ điều kiện tự nhiên của vùng.
1.1.4.3 Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất
và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản
xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, được tập
trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về
mục đích sản xuất của trang trại. Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có
quy mô lớn hơn rất nhiều so với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu
điều tra năm 1999 của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy:
bình quân một trang trại gia đình có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó
91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai bình quân của một trang trại gia đình là

6,338 ha, trong khi đó bình quân đất đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia
đình chỉ là 0,68 ha.
1.1.4.4. Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các
thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động.
Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành
viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như:
Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản
lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao
động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn
lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang
trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là:
thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao
động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu
hết trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê
ngoài trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang
trại, trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động
thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
1.1.4.5. Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại
gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp.
Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và quy
mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều hành
sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ chỉ cần
có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha truyền con
nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản xuất hàng

hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày càng nhiều thì
cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi
phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất,
xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ và quy
trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi nhuận,
phân tích kinh doanh… Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức khoa
học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.
Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia
đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và
trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính
chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn ở nước ta.
1.1.4.6. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có
kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về
kinh doanh.
Trước hết, xin nói về công tác điều hành, kế hoạch hóa, tổ chức kiểm tra,
đánh giá hoạt động sản xuất được các chủ trang trại chú ý, hoạt động sản xuất
hàng hóa của trang trại không thể theo một tư duy sản xuất theo kiểu tự cung,
tự cấp. Do đó, trang trại phải đặt ra cho mình câu hỏi sản xuất nông sản gì để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
đáp ứng nhu cầu thị trường; kỹ thuật canh tác nào sẽ được lựa chọn áp dụng
cho công việc sản xuất tại trang trại; việc phân bố nguồn lực lao động vào
hoạt động sản xuất ra sao, số lượng cần bao nhiêu? Hoặc là phân phối lượng
vốn của trang trại được đầu tư cho tài sản lưu động là bao nhiêu? … là công
việc của người chủ trang trại, nó đòi hỏi phải có hạch toán một cách đầy đủ,
bởi mọi chi phí phát sinh không ghi chép, theo dõi sẽ không thể kiểm soát, và
như vậy, công việc hạch toán không tốt có thể dẫn đến kết quả sản xuất kinh

doanh của trang trại được đánh giá một cách sai lệch, thiếu khách quan.
1.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển trang trại và kinh tế trang trại
1.1.5.1. Những nhân tố khách quan
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Sản phẩm nông nghiệp và thị trường nông sản mang tính chất vùng và
khu vực. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gắn
chặt với điều kiện tự nhiên mang tính chất vùng. Lợi thế so sánh và lợi thế
tuyệt đối của các vùng là yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn hướng sản
xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh và tổ chức hợp lý quá trình
tiêu thụ sản phẩm. Có sản phẩm chỉ thích ứng với một vùng, thậm chí tiểu
vùng và lợi thế tuyệt đối có được coi như là những đặc điểm mà ở các vùng
khác, khu vực khác không có. Đối với những sản phẩm loại này có thể có
những hình thức và phương pháp tiêu thụ đặc biệt. Đối với những loại sản
phẩm khá phổ biến mà vùng nào cũng có thì phải có những hình thức tiêu thụ
thích hợp.
Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp có tác động mạnh mẽ đến
cung - cầu của thị trường nông sản và giá cả nông sản. Sự khan hiếm dẫn đến
giá cả cao vào đầu vụ, cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá cả giảm vào chính
vụ là một biểu hiện của đặc điểm này. Việc chế biến, bảo quản và dự trữ sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
phẩm để đảm bảo cung cầu tương đối ổn định là một yêu cầu cần được chú ý
trong quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong phú và trở thành nhu cầu tối
thiểu hàng ngày của mỗi người, với thị trường rất rộng lớn nên việc tổ chức
tiêu thụ sản phẩm phải hết sức linh hoạt. Có những sản phẩm cồng kềnh, tươi
sống, khó bảo quản chuyên chở xa, vì vậy cần nhiều hình thức linh hoạt và
thuận tiện cho người tiêu dùng, hoặc sơ chế trước khi tiêu thụ, đồng thời phải
sử dụng các phương tiên chuyên dùng riêng khi vận chuyển, bảo quản.

Một bộ phận lớn như nông sản, lương thực, thực phẩm được tiêu dùng
nội bộ hoặc với tư cách là tư liệu sản xuất, vì vậy phải tính đến những nhu cầu
đó một cách cụ thể để tổ chức tốt việc tiêu thụ đối với nông sản được coi là
hàng hóa vượt ra ngoài phạm vi tiêu dùng của gia đình, của cơ sở sản xuất
kinh doanh.
- Cơ sở hạ tầng: Với tất cả các ngành kinh tế thì cơ sở hạ tầng luôn đóng
một vai trò hết sức quan trọng và trong kinh tế trang trại thì vai trò của cơ sở
hạ tầng còn có ý nghĩa quan trọng hơn nữa, vì sản phẩm của kinh tế trang trại
là cây, con - những sinh vật có chu kỳ sống nên nếu không được vận chuyển
kịp thời, đúng thời điểm thì có thể sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng cũng
như số lượng của sản phẩm.
- Khoa học kỹ thuật: Việc khoa học kỹ thuật có những bước tiến mới
cũng sẽ tạo ra những đổi khác rất lớn với kinh tế trang trại. Khi công nghệ
sinh học (di truyền, lai tạo, chọn giống) tạo ra giống mới năng suất cao, kháng
bệnh, chất lượng sản phẩm tốt thì chắc chắn sẽ là những tin vui đối với việc
phát triển kinh tế trang trại. Hay như, nếu công nghệ bảo quản, chế biến được
nâng cao thì sản phẩm của trang trại sẽ hạn chế được việc “mất mùa trong nhà
kho” (tức là sản phẩm thu hoạch về nhưng do công nghệ bảo quản chế biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
chưa tốt mà dẫn đến sản phẩm bị suy giảm về chất lượng hoặc số lượng dẫn
tới mang về kho rồi mà không tiêu thụ được - mất mùa trong nhà kho)
- Các yếu tố tự nhiên: thời tiết, khí hậu, dịch bệnh: Những yếu tố tự
nhiên này có tác động vô cùng to lớn đối với hoạt động của trang trại, vì đối
tượng của kinh tế trang trại đều là vật nuôi, cây trồng - những sinh vật hết sức
mẫn cảm với thời tiết, khí hậu và bệnh dịch. Chỉ cần một thay đổi nhỏ của
thời tiết cũng có thể có những tác động vô cùng to lớn và khôn lường đến hoạt
động của trang trại.
- Chính sách về đất đai: Chính phủ đã có những chỉ đạo trong công tác

đất đai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế trang trại như
chính sách giao đất, giao rừng, dồn điền, đổi thửa, ví dụ như Chính phủ đã có
Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp, điều này đã kích thích và là nền tảng cho kinh
tế trang trại phát triển một cách chắc chắn và lâu dài.
- Chính sách về tín dụng: Trong nhiều năm qua nhà nước luôn quan tâm
và có những chính sách ưu tiên về tín dụng đối với hoạt động nông nghiệp nói
chung cũng như của trang trại nói riêng. Các trang trại khi vay vốn thì luôn
được ưu tiên cả về thời hạn cho vay cũng như lãi suất cho vay … Điều này đã
được cụ thể hóa tại quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm
1999 của Thủ tướng chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục
vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn hay gần đây nhất là tại Nghị định
41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về chính sách tín
dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Các chính sách khác: Bên cạnh những chính sách về đất đai, tín dụng
thì những chính sách khác như: chính sách thuế, chính sách về việc hỗ trợ phụ
nữ nông thôn phát triển sản xuất nâng cao chất lượng cuộc sống, chính sách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
về việc ưu tiên cán bộ làm việc ở vùng sau, vùng xa … cũng có những tác
động rất lớn tới kinh tế trang trại.
1.1.5.2. Những nhân tố chủ quan
- Chủ trang trại: Việc điều hành một trang trại trên thực tế cũng gần như
điều hành một doanh nghiệp tư nhân, chủ trang trại cũng có thể coi như một
giám đốc, một chủ doanh nghiệp chính vì vậy nên năng lực điều hành, lãnh
đạo cũng như trình độ của người chủ trang trại là hết sức cần thiết và quan
trọng đối với sự sống còn của trang trại. Người chủ trang trại phải là người có
khả năng tổ chức và quản lý sản xuất: quy hoạch, bố trí đất đai, sắp xếp và sử

dụng các nguồn lực. Người chủ trang trại phải là người có ý trí vươn lên, sẵn
sàng chấp nhận mạo hiểm, gian khổ và có ham muốn làm giàu. Bên cạnh trình
độ chuyên môn thì chủ trang trại cũng cần phải có kinh nghiệm thực tế, điều
này là hết sức cần thiết vì có nhiều trang trại, chủ trang trại mặc dù không
được học hành, đào tạo bài bản, chính quy nhưng với kinh nghiệm “thất bại là
mẹ thành công” mà vẫn có thể vươn lên trở thành những ông chủ, những
trang trại lớn. Có thể nói, chủ trang trại như là “hạt nhân” của trang trại, nếu
“hạt nhân” mà tích cực thì trang trại sẽ ngày càng phát huy.
- Quy mô diện tích trang trại: Đất đai là sản phẩm tự nhiên và có trước
lao động, trong quá trình lao động con người tác động vào đất đai để tạo ra
các sản phẩm. Đất đai giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là tài nguyên quý
giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt. Đất đai tham gia vào tất cả các
ngành kinh tế của xã hội và trong nông nghiệp thì đất đai chiếm một vị trí đặc
biệt vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu sản xuất. Không giống như
những tài sản khác, đất đai là một tư liệu hết sức đặc biệt, nếu được đầu tư và sử
dụng một cách hợp lý thì không những không bị hao mòn mà càng ngày càng tăng
giá trị, tăng độ phì nhiêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
- Lao động của trang trại: Lực lượng lao động của nước ta rất dồi dào, rất
cần cù và chịu khó nhưng do tác phong nông nghiệp lúa nước từ lâu đời nay
nền tính kỷ luật chưa được cao, hơn nữa lao động chủ yếu làm các công việc
tay chân là nhiều, những lao động làm việc đòi hỏi chất xám và trình độ, được
đào tạo bài bản chính quy thì chưa có nhiều.
- Vốn của trang trại: Để bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh, các trang
trại luôn cần phải có vốn - toàn bộ những giá trị ứng ban đầu của trang trại
để có các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.Vốn của trang trại có
thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: vốn tự có, vốn vay ngân
hàng, vốn vay của người thân …

1.1.6. Ý nghĩa kinh tế - xã hội - môi trường của trang trại
Theo đánh giá của Chính phủ tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 2
tháng 2 năm 2000 về Kinh tế trang trại: kinh tế trang trại đã đóng góp phần to
lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động của
các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp
phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trồng,
đồi núi mọc, đất hoang hóa, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven
biển; tạo thêm nông sản hàng hóa. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và
cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân
trong vùng. Sự phát triển của kinh tế trang trại là động lực mới cho phát triển
kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các vùng sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng và giá trị hàng hoá, tạo tiền
đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và thực phẩm phát triển, mở
rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Các trang trại góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, khắc phục dần tình trạng phân tán, tạo nên những vùng
chuyên môn hóa cao, góp phần vào việc phát triển công nghiệp đặc biệt là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. Bên cạnh đó, trang trại
còn có khả năng thu hút lao động, điều này sẽ làm hạn chế bớt sự di cư ra
thành phố, làm giảm áp lực đối với xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, hạn chế tệ
nạn cho xã hội.
Có thể nói, sự phát triển kinh tế trang trại đã góp phần thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng CNH, HĐH.
Theo ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ (NCFS) của Bộ Nông nghiệp
Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo, trong đó USDA thừa
nhận “những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm:

- Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ
sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh
học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại
nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong
cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống.
- Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào
các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị
quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
- Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại
nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm
cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này
không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại
hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa
phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn trong
việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và hạnh phúc
của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ trang trại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn trong việc kiểm
soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác hại đối với cộng
đồng.
- Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng
những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng
canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia
đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất.
Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng
đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng

đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp.
Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình
thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc
duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên, nó
đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế cũng
như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình.
1.2. Phát triển kinh tế trang trại của một số nƣớc và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại của một số nước trên thế giới
Tại nước Mỹ và các nước Tây Âu kinh tế trang trại đã xuất hiện từ
những năm 1950, tuy nhiên ngày càng số lượng trang trại ngày càng ít đi, tại
Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại đến năm 1992 còn 1.920.000 trang trại,
diện tích trang trại bình quân của các trang trại ngày càng tăng, tại Mỹ diện
tích bình quân năm 1950 là 86 ha, đến năm 1992 là 198,7 ha [8]. Tại Anh năm
1950 diện tích bình quân trang trại là 36 ha, đến năm 1987 là 71 ha [3]. Tại
các nước Châu Á kinh tế trang trại chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên,
dân số nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nước Châu Âu về quy
mô và số lượng trang trại. Tại các nước Châu Á do đất canh tác trên đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
người vào loại thấp trên thế giới như Đài Loan: 0,47 ha; Malaixia: 0,25 ha;
Hàn Quốc: 0,53ha…, trong khi đó ở các quốc gia Châu á đều có dân số đông
nên có ảnh hưởng đến quy mô trang trại. Chính vì vậy ở các nước Châu Á nói
chung, hiện tượng tích tụ ruộng đất diễn ra chậm nên tình trạng manh mún,
phân tán ruộng đất cũng là một trong trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế
trang trại.
Đối với các nước Châu Âu, nước Mỹ thì trang trại bao gồm: Trang trại
gia đình; trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần và trang trại uỷ
thác cho người nhà, bạn bè quản lý, sản xuất. Trong đó trang trại gia đình là
loại hình trang trại mà mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ

hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, ở
nhiều nước phát triển, những chủ trang trại muốn được nhà nước công nhận
thì trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật
và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập lao động sản
xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Các chủ trang trại họ đều là
những chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, có trình độ học vấn, họ thường
xuyên liên hệ đối với các cơ quan khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ
thuật, tham gia hội thảo khoa học, đây là loại hình trang trại phổ biến còn các
loại hình trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần thì đây là loại
hình trang trại có quy mô lớn, được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao
động làm thuê là chủ yếu. Ở Mỹ và các nước Châu Âu thì nguồn vốn và lao
động của họ có những thuận lợi hơn so với các nước Châu Á, các trang trại
được mua chịu tư liệu sản xuất, được hỗ trợ vay vốn với lãi xuất thấp để mua
tư liệu sản xuất. Về lao động và kỹ thuật, các trang trại ở Châu Âu và các
nước phát triển tăng cường sử dụng máy móc hiện đại và mức độ cơ giới ngày
càng từng bước tiến tới tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá trong sản xuất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
trong các trang trại số lượng lao động trong nông nghiệp của gia đình cũng
như lao động làm thuê ngày càng giảm dần.
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang
trại trên thế giới:
- Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa của
các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hóa của các nước
từ thấp đến cao, chính công nghiệp hóa đặt ra yêu cầu khách quan để phát
triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát
triển. Trong quá trình công nghiệp hóa kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung
kích cung cấp nông sản hàng hóa cho xuất khẩu.
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau như: trang trại gia đình;

trang trại liên doanh; trang trại hợp doanh theo cổ phần; trang trại ủy thác cho
người nhà, bạn bè quản lý sản xuất từng việc theo từng vụ hay liên tục nhiều
vụ nhưng phổ biến nhất là trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì
thế phát huy được thế mạnh vốn có của hộ gia đinh trong sản xuất nông
nghiệp.
Trang trại gia đình là mô hình phổ biến nhất của nông nghiệp thế giới, nó
chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác và số lượng nông sản phẩm
làm ra. Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia đình có sự biến đổi về số
lượng cũng như quy mô. Thực tế ở nhiều nước cho thấy, trong thời kỳ đầu
công nghiệp hóa do lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao
động xã hội còn hạn chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ
công nghiệp hóa phát triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch
vụ tăng lên nhanh chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi.
Quy mô trang trại gia đình biến động theo chiều ngược lại với số lượng
trang trại của mỗi quốc gia, tùy điều kiện của mỗi nước mà quy mô trang trại
có thể rất khác nhau, Trang trại ở các nước Châu Á có diện tích nhỏ nhưng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Châu Âu quy mô trang trại lại lớn hơn rất nhiều, có trang trại lên đến hàng
chục ha.
Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng
chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ
thuật và công nghệ sinh học. Các trang trại chủ yếu sử dụng lao động của hộ
gia đình và có thuê mướn lao động ngoài.
- Thưc tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia cho thấy: chính các trang
trại quy mô nhỏ mới thực sự là chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp
bền vững, lâu dài.
- Trong quá trình ban đầu, kinh tế trang trại phát triển theo hướng kinh
doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hóa sản phẩm, cùng với sự phát triển của

nền kinh tế thị trường thì kinh tế trang trại dần dần từng bước đi vào chuyên
môn hóa.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc
vào quy mô đất đai, ở các nước châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản
diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu lại rất lớn.
Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên thế giới cho thấy điều
kiện cần và đủ để phát triển kinh tế trang trại là sự hình thành nền kinh tế
hàng hóa theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất
nước. Ngoài ra các trang trại cũng rất cần sự tác động trực tiếp và gián tiếp
của Nhà nước thông qua các chính sách và công cụ quản lý vĩ mô như: Chính
sách tài chính tín dụng, chính sách thuế, chính sách về đào tạo giáo dục, chính
sách về bao tiêu và bán sản phẩm …
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại của Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại của Việt Nam qua các thời kỳ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà
Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại
của quý tộc phong kiến. [4]

Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều
đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi… triệu
tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp
đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn”.
Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời nhà
Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như
những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của
bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo
ruộng đất dưới chế độ phong kiến. Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến

chủ trương mở rộng khai hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với
trang trại). Lượng lao động khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù
binh và một số binh lính đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước
có 43 sở đồn điền để cấp cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên
(gọi là cấp lộc điền). Lực lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa
áp dụng chế độ nô tỳ, vừa chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ
thuộc trực tiếp bởi nhà nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt
nông dân không ruộng phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch.
Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25
quyết định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để
khai hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân
bị lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất
hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô. Đặc biệt thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa làm giàu cho
chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành đấu tư ít vốn mà dễ dàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ phì nhiêu của đất vừa
bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm 1888, Toàn quyền
Đông Dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được quyền lập các đồn
điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền
rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890, số đồn điền trại
ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên tới 108 cái, với
diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền. Đến giữa những
năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn đã lên đến
270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở Bắc kỳ
136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên trồng
cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông … quy mô vừa, lớn, nhỏ khác nhau.
Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng 200

ha/cái. Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi
nhau phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh
doanh. Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đoạt 1,2 triệu ha, bằng
1/7 trong tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới
4.000 đồn điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái.
Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau:
- Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong
kiến.
- Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ
cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao
động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công
nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su…
- Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch
tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân
Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển
một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà
nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những
năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy
mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã
có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống
thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền
Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.
- Từ 1975 đến 1986:
Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại

kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những
nông trường quốc doanh. Nói chung, thời kì hòa bình, khôi phục và phát triển
nền kinh tế cả nước theo hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và vẫn áp dụng
mô hình cũ - xây dựng nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính kế hoạch, tập
trung. Chỉ có 2 hình thức kinh tế chủ yếu (trong thành phần kinh tế Xã hội
chủ nghĩa) là nông trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ
nhiều khuyết tật cần được đổi mới.
- Từ 1986 đến nay:
Đảng và Chính phủ đã công nhận sự tồn tại tất yếu, vai trò của kinh tế
trang trại và đã ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển.
+ Nghị quyết 10 (tháng 4 năm 1987) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ,
khuyến khích phát triển.
+ Luật đất đai năm 1993 khẳng định ruộng đất là của Nhà nước, Nhà
nước giao cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng ổn định, lâu dài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×