Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Incoterms 2010 va Tình hình xuất nhập khẩu tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.47 KB, 30 trang )

INCOTERMS
®
2010 2014
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS
®
2010 3
I.Sự ra đời của Incoterms 3
II Vai trò của Incoterms đối với hoạt động thương mại quốc tế 4
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ KẾT CẤU CỦA INCOTERMS 5
I.Nội dung của INCOTERMS 5
II.Khái quát về INCOTERMS 2010 5
III.Sự khác biệt giữa INCOTERMS 2010 và INCOTERMS 2000 7
IV.CÁC QUY TẮC CHÍNH TRONG SỬ DỤNG CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA
INCOTERMS 2010 12
CHƯƠNG 3: INCOTERMS 2010 VÀ QUAN HỆ VỚI CÁC PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 16
I.Các chứng từ - sỡ hữu và không sỡ hữu 16
II.Điều khoản giao hàng - điều kiện thanh toán 16
CHƯƠNG 4: TÌNH HÌNH XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC ĐIỀU
KHOẢN INCOTERMS 2010 18
I.Hiểu biết và vận dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp trong việc xuất
nhập khẩu tại Việt Nam 18
II.Những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi sử
dụng Incoterms 2010 22
III.Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong việc sử
dụng các điều khoản Incoterms 2010 23
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31


Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 1
INCOTERMS
®
2010 2014
LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại Quốc tế đã phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh toàn cầu hóa, mở ra cơ hội
to lớn để doanh nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới, thông qua
việc xuất-nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh Thương
mại quốc tế đem lại cơ hội tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo cho các quốc gia, nếu
được hoạch định và thực thi qua các chính sách đúng đắn và tinh tế. Hàng hoá được
bán ra ở nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại đa dạng hơn. Khi
khối lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, nếu hợp đồng mua bán
hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì khả năng dẫn đến sự hiểu nhầm
và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên.
Incoterms®, quy tắc chính thức của ICC về việc sử dụng các điều kiện thương mại
trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển. Việc dẫn chiếu
Incoterm® 2010 trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ phân định rõ ràng nghĩa vụ
tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ rắc rối về mặt pháp lý.
Kể từ khi Incoterms® được ICC soạn thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng mang
tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát triển của
thương mại quốc tế. Incoterms® 2010 có tính đến sự xuất hiện ngày càng nhiều khu
vực miễn thủ tục hải quan, việc sử dụng thông tin liên lạc bằng điện tử trong kinh
doanh ngày càng tăng, mối quan tâm cao về an ninh trong lưu chuyển hàng hoá và cả
những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms® 2010 cập nhật và gom những điều
kiện “giao hàng tại nơi đến”, giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống 11, trình bày
nội dung một cách đơn giản và rõ ràng hơn. Incoterms® 2010 cũng là bản điều kiện
thương mại đầu tiên đề cập tới cả người mua và người bán một cách hoàn toàn bình
đẳng.
Điều kiện Incoterms giải thích những điều kiện thương mại được viết tắt bằng ba chữ
cái, thể hiện tập quán giao dịch giữa các doanh nghiệp trong các hợp đồng mua bán

hàng hóa. Điều kiện Incoterms chủ yếu mô tả các nghĩa vụ, chi phí và rủi ro trong quá
trình hàng hóa được giao từ người bán sang người mua.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 2
INCOTERMS
®
2010 2014
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS
®
2010
I. Sự ra đời của Incoterms:
Incoterms viết tắt từ 3 từ International Commercial Terms, có nghĩa là Những
điều kiện Thương Mại Quốc Tế hay còn gọi là Những điều kiện cơ sở giao hàng.
Incoterms là một loạt các điều khoản thương mại được quốc tế công nhận, được
Phòng Thương Mại Quốc tế sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng mua bán quốc tế.
Những điều khoản này cũng được sử dụng ngày càng nhiều trong thương mại nội địa.
Incoterms được gọi là các quy tắc vì dùng để thừa nhận bản chất hợp đồng của những
điều khoản đó, và cũng là để phù hợp với chính sách chung của ICC – gọi các ấn
phẩm ICC là “các quy tắc” (UCP 600, URDG 758, …).
Incoterms ra đời năm 1936 nhằm giúp cho các nhà kinh doanh thương mại và
những bên có liên quan trên toàn cầu thuận lợi hơn khi đàm phán, ký kết và tổ chức
các công việc có liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế, từ đó thúc đẩy thương
mại trên toàn cầu phát triển. Incoterms quy định các điều khoản về giao nhận hàng
hoá, trách nhiệm của các bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ
tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của
hàng hoá trong quá trình vận chuyển , thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng
hoá.
Kể từ khi ra đời đến nay, Incoterms đã trãi qua 7 lần sửa đổi vào các năm 1953,
1967, 1976, 1980, 1990, 2000, 2010. Sự thay đổi nội dung của Incoterms theo hướng:
• Phản ánh sự mở rộng của các khu vực mậu dịch tự do, việc sử dụng các
phương tiện giao tiếp điện tử, các quan ngại về an ninh sau sự kiện 11 tháng 9.

• Phù hợp hơn với những thay đổi trong vận tải và tập quán thương mại quốc tế.
• Rõ ràng hơn, giúp các bên hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi cơ bản,
có liên quan đến người bán và người mua trong hoạt động thương mại quốc tế.
Mỗi loại Incoterms phù hợp với những loại phương tiện vận tải cơ bản, ví dụ
điều kiện FOB, FAS, CIF… chủ yếu áp dụng với loại phương tiện vận tải đường thủy;
còn điều kiện FCA, CPT; DAP, DAT… chủ yếu áp dụng với các loại phương tiện vận
tải và vận tải đa phương thức. Incoterms 2010 là phiên bản mới nhất của Incoterm,
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 3
INCOTERMS
®
2010 2014
được Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ở Paris, Pháp và có hiệu lực kể từ ngày 1
tháng 1 năm 2011.
Incoterms 2010 bao gồm 11 điều kiện, là kết quả của việc thay thế bốn điều kiện cũ
trong Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai điều kiện mới
là DAT và DAP. 10 năm đã qua kể từ khi Incoterms 2000 có hiệu lực, môi trường
kinh doanh toàn cầu, tập quán thương mại quốc tế, vận tải, công nghệ thông tin, vấn
đề an ninh đã có nhiều thay đổi.
Phiên bản cũ - Incoterms 2000 bao gồm có 13 điều kiện giao hàng mẫu, chia
thành 4 nhóm: C, D, E, F. Trong đó, nhóm E gồm 1 điều kiện (EXW), nhóm F gồm 3
điều kiện (FCA, FAS, FOB), nhóm C gồm 4 điều kiện.
II. Vai trò của Incoterms đối với hoạt động thương mại quốc tế:
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế, Incoterms có 5 vai trò quan
trọng:
1) Incoterms là một bộ các quy tắc nhằm hệ thống hoá các tập quán thương mại
quốc tế được áp dụng phổ biến bởi các doanh nhân trên khắp thế giới.
2) Incoterms là một ngôn ngữ quốc tế trong giao nhận và vận tải hàng hoá ngoại
thương.
3) Incoterms là phương tiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ đàm phán, xây dựng
hợp đồng ngoại thương, tổ chức thực hiện hợp đồng ngoại thương.

4) Incoterms là cơ sở quan trọng để xác định giá cả mua bán hàng hoá.
5) Incoterms là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu nại và giải quyết
tranh chấp (nếu có) giữa người mua và người bán, trong quá trình thực hiện
hợp đồng ngoại thương.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 4
INCOTERMS
®
2010 2014
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ
KẾT CẤU CỦA INCOTERMS
I. Nội dung của INCOTERMS
Bộ quy tắc này quy định ai có những trách nhiệm gì, ai thanh toán khoản gì, khi
nào rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua, khi nào thì
giao hàng, cũng như những vấn đề như bảo hiểm, làm thủ tục thông quan xuất nhập
khẩu, và việc phân bổ các chi phí liên quan đến việc giao hàng.
Không có quy định về quyền sở hữu đối với hàng hóa, không quy định chi tiết về
các nghĩa vụ thanh toán (thời hạn, phương thức, điều khoản đảm bảo thanh toán,
chứng từ thanh toán), không quy định chi tiết về yêu cầu liên quan đến tàu, các trường
hợp bất khả kháng, kết thúc hợp đồng, mất khả năng thanh toán. Nói tóm lại, Incoterm
không cấu thành một hợp đồng mua bán đầy đủ mà chỉ là các quy tắc tiện lợi, được
quốc tế công nhận về việc mua bán hàng hóa. Những quy tắc này phát huy tác dụng
tốt như một hợp đồng sơ lược cần phải được cụ thể hóa, và điều chỉnh với những điều
khoản và điều kiện thêm nữa.
II. Khái quát về INCOTERMS 2010
1. Nguyên nhân INCOTERMS 2010 ra đời:
Có 06 nguyên nhân sau đây :
• Nhiều điều kiện thương mại của Incoterms 2000 ít được sử dụng
• Cách giải thích ở nhiều điều kiện thương mại Incoterms 2000 chưa rõ, khiến cho
các doanh nghiệp chưa nắm chính xác được nghĩa vụ chi phí có liên quan đến giao
nhận ngoại thương dẫn tới sử dụng chưa hiệu quả, tranh chấp xung quanh sử dụng

Incoterms còn khá phổ biến.
Ví dụ: Hội đồng chủ hàng châu Á (ASC ) muốn Bộ điều kiện Thương mại do
ICC phát hành mới năm 2010 phải xác định rõ ràng những yếu tố tạo thành
chuyến hàng FOB để các nhà vận chuyển hàng hóa đường biển không thể đánh
các phụ phí đối với người bán hàng. Những loại phí này điển hình là các phí bao
gồm như phụ phí xếp dỡ container (Terminal handling charges - THC), phí chứng
từ, hoặc thậm chí là phí tắc nghẽn cảng….
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 5
INCOTERMS
®
2010 2014
• Quy tắc bảo hiểm hàng hóa chuyên chở mới có hiệu lực từ 1/01/2009 được hoàn
thiện từ Quy tắc ban hành năm 1982 .
• Quy định về an ninh hàng hóa sau sự kiện khủng bố ngày 11/9 tại Hoa kỳ
• Năm 2004 Quy tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của Hoa kỳ đã hoàn thiện và
cho ra đời bộ quy tắc mới. Nhiều chuyên gia làm luật thương mại của Hoa kỳ phối
hợp với các chuyên gia của VCCI hoàn thiện và xây dựng Incoterms 2010. Có thể
nói nội dung của Incoterms 2010 có nhiều điểm tương đồng nhất với Bộ quy tắc:
“The 2004 revision of the United States' Uniform Commercial Code” so với
Incoterms 1990 hay Incoterms 2000.
• Sự thay thế nhanh chóng các chứng từ giấy tờ bằng chứng từ điện tử cũng là
nguyên nhân thúc đẩy Incoterms được điều chỉnh đúng chu kỳ là 10 năm/lần.
2. Các Điều khoản (Quy tắc) :
11 quy tắc Incoterms
®
2010 được phân thành hai nhóm chính:
 QUY TẮC ÁP DỤNG CHO MỌI PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI
EXW EX WORKS – Giao tại xưởng
FCA FREE CARRIER – Giao cho người vận tải
CPT CARRIAGE PAID TO – Cước phí trả lời

CIP CARRIAGE AND INSURANCE PAID TO
– Cước phí và bảo hiểm trả tới
DAT DELIVERED AT TERMINAL – Giao tại bến
DAP DELIVERED AT PLACE – Giao hàng tại nơi đến
DDT DELIVERED DUTY PAID – Giao hàng đã nộp thuế
 QUY TẮC VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA
FAS FREE ALONGSIDE SHIP – Giao dọc mạn tàu
FOB FREE ON BOARD – Giao hàng trên tàu
CFR COST AND FREIGHT – Tiền hàng và cước phí
CIF COST INSURANCE AND FREIGHT
– Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Nhóm thứ nhất bao gồm bảy quy tắc Incoterms
®
2010 (EXW,FCA,CPT, CIP,
DAT, DAP và DDP), có thể sử dụng cho bất kì phương thức vận tải nào, và có thể sử
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 6
INCOTERMS
®
2010 2014
dụng cho trường hợp sử dụng nhiều hơn hai phương thức vận tải. Có thể sử dụng
những quy tắc này ngay cả khi không sử dụng phương thức vận tải đường biển.
Nhóm thứ hai, các quy tắc dành cho vận tải “đường biển và đường thủy nội địa”.
(FAS, FOB, CFR, CIF), thì điểm giao hàng và điểm hàng hóa được chuyển tới cho
bên mua đều là cảng (cảng biển, phi cảng…). Các quy định liên quan đến lan can tàu
như là một điểm giao hàng đều không được sử dụng, vì hàng hóa được coi như đã
giao khi chúng được đặt lên boong tàu.
III. Sự khác biệt giữa INCOTERMS 2010 và INCOTERMS 2000
1. Bỏ bốn điều khoản trong INCOTERMS 2000 (DAF, DES, DEQ, và DDU) và
đưa vào hai điều khoản mới (DAP và DAT)
Xu hướng container hóa và giao hàng từ điểm này đến điểm khác ngày càng

nhiều, dường như đã khiến ICC phải có những sửa đổi quan trọng và đưa ra hai điều
khoản mới về “đã giao hàng”:
• Delivered At Place (DAP) được sử dụng thay cho DAF, DES và DDU; và
• Delivered At Terminal (DAT) thay thế cho DEQ.
Những điều khoản này có thể được sử dụng với bất kì phương thức vận tải nào.
Một lí do sử dụng ít điều khoản hơn,đơn giản là vì các bên thường chọn “nhầm” điều
khoản hoặc lẫn lộn các điều khoản, dẫn đến các hợp đồng có nội dung mâu thuẫn
không rõ ràng.
Điều khoản DAF của Incoterms 2000 không còn đáp ứng nhu cầu thương mại, và
thực tế còn gây ra vấn đề khi người mua không thể kiểm tra hàng hóa trước khi hàng
đến điểm đích, mà thường điểm đích lại nằm xa hơn điểm giao hàng (tức là biên giới).
Đối với cả hai điều khoản mới – Delivered At Place (DAP) và Delivered At
Terminal (DAT) - việc giao hàng diễn ra tại điểm đích đã xác định.
Quy tắc mới DAP (Delivered At Place) trong Incoterms 2010 bao gồm tất cả các
trường hợp người bán giao hàng cho người mua trên phương tiện vận tải đến mà chưa
dỡ hàng xuống, là những trường hợp trước đó được quy định bởi các điều khoản DAF,
DES, cũng như tất cả các trường hợp giao hàng tại cơ sở của người mua hay điểm
đích nào khác tại nước của người mua, mà trước đó được quy định bởi điều khoản
DDU.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 7
INCOTERMS
®
2010 2014
Đối với điều khoản DAP, "phương tiện vận tải đến" cũng có thể là một con tàu,
và "điểm đích xác định" có thể là cảng dỡ.
Với quy tắc mới DAT của Incoterms 2010 (Delivered at Terminal), việc giao
hàng diễn ra khi hàng hoá được giao vào quyền định đoạt của người mua tại kho cảng
xác định, tại cảng hoặc tại đĩểm đích chưa được dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải
đến. Điều khoản DAT của Incoterms 2010 thay thế cho điều khoản DEQ trước đó của
Incoterms 2000 (Delivered Ex Quay) vốn chỉ phù hợp cho hàng nguyên liệu.

Incoterms 2000 không có giải pháp thỏa đáng cho các điều khoản "D", đối với
trường hợp hàng hoá được giao mà chưa dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến tại
kho cảng. Điều khoản mới DAT (Delivered at Terminal) của Incoterms 2010 đã giải
quyết được vấn đề này, và bao gồm tất cả trường hợp trước đó được quy định bởi điều
khoản DEQ. "Kho cảng xác định" trong điều khoản DAT có thể là cầu cảng tại cảng
dỡ hoặc trạm container tại cảng dỡ.
 Chú thích: Hiệp hội Thị trường Bảo hiểm Lloyd’s (Lloyd’s Market
Association_LMA) và Hiệp hội các nhà Bảo hiểm Quốc tế của London_IUA.
2. Chính thức tạo ra hai loại INCOTERMS – (1) các quy tắc áp dụng cho bất
cứ phương thức vận tải nào, và (2) các quy tắc áp dụng cho vận tải đường
biển và đường thủy nội địa (INCOTERMS 2000 có 4 loại)
 11 điều khoản được chia thành hai loại:
• Giao hàng bằng bất kỳ phương thức vận tải nào (vận tải đường bộ, hàng
không, đường sắt, đa phương thức)
- FXW, FCA, CPT, CIP, DAP, DAT và DDP; và
• Giao hàng bằng vận tải đường biển/ đường thủy nội địa
- FAS, FOB, CFR và CIF.
3. Chính thức thừa nhận rằng những quy tắc này có thể sử dụng cả trong
thương mại quốc tế và thương mại nội địa (nếu phù hợp). Điều khoản EXW
được nói rõ là chỉ phù hợp cho thương mại nội địa.
Bộ quy tắc INCOTERMS mới được nêu rõ là có thể sử dụng “cả cho thương mại
quốc tế và thương mại nội địa”. Điều này là nhờ những câu trong các quy tắc rằng,
nghĩa vụ thực hiện các thủ tục hải quan xuất nhập khẩu chỉ tồn tại trong trường hợp có
liên quan đến xuất nhập khẩu.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 8
INCOTERMS
®
2010 2014
 Chú thích: Đối với các khối lượng thương mại ( như EU) khi các thủ tục
“biên giới” không còn, và ở Hoa Kỳ khi ngày càng nhiều người càng muốn sử

dụng INCOTERMS hơn là các điều khoản giao hàng trong Uniform
Commercial Code, các điều khoản mới trở nên dễ dàng áp dụng hơn
4. Nêu rõ tham chiếu đến việc sử dụng “các phương tiện ghi chép điện tử có
giá trị tương đương”, nếu như các bên đồng ý như vậy, hoặc đó là tập quán
thương mại.
Các nghĩa vụ của người bán hàng và người mua trong việc cung cấp các chứng từ
hợp đồng hiện tại có thể được thực hiện bằng “bản điện tử nếu các bên đồng ý hay đó
là tập quán”, phản ánh sự thừa nhận của ICC về tầm quan trọng ngày càng tăng, và
tính chắc chắn về hợp đồng (nhờ tốc độ chuyển thông tin nhanh chóng) mà giao tiếp
bằng điện tử mang lại. Điều này cũng đảm bảo sự phù hơp INCOTERMS 2010 trong
tương lai khi các giao tiếp/thủ tục điện tử ngày càng phát triển.
INCOTERMS 2010 yêu cầu người bán hàng và người mua phải thống nhất rõ
ràng là sẽ giao tiếp với nhau bằng điện tử để trao đôi dữ liệu điện tử tương đương, và
chấp nhận chúng như bằng chứng về chứng từ giao hàng/vận tải.
5. Sửa đổi điều khoản bảo hiểm để phản ánh những thay đổi đối với Các Điều
khoản Bảo hiểm Chuẩn (Institute Cargo Clauses) (theo những thay đổi gần
đây đối với các điều khoản bảo hiểm LMA/UA2 vào năm 2009).
Khi một điều khoản trong INCOTERMS yêu cầu người bán hàng phải mua bảo
hiểm, thì các yêu cầu bảo hiểm đều đã được sửa đổi để phản ánh những sửa đổi trong
các điều khoản bảo hiểm hàng hóa chuẩn. Nghĩa vụ của các bên về bảo hiểm cũng đã
được làm rõ: chỉ theo CIF và CIP thì người bán hàng có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì
quyền lợi của người mua, tuy nhiên trong tất cả các điều khoản giao hàng, các bên đều
có nghĩa vụ cung cấp cho bên kia, nếu có yêu cầu, những thông tin cần thiết để mua
bảo hiểm nay mua thêm bảo hiểm cho hàng hóa (hoặc tự mua hoặc nhờ bên kia mua
hộ vì lợi ích bản thân). Các quy tắc Incoterms 2010 quy định về nghĩa vụ cung cấp
thông tin trong các Điều A3/B3, là những điều nói về ký kết hợp đồng vận tải và bảo
hiểm. Những điều này hiện tại đã được tách khỏi những điều quy định chung trong
phần A10/B10 của các quy tắc Incoterms 200. Ngôn ngữ trong các điều A3/B3 liên
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 9
INCOTERMS

®
2010 2014
quan đến bảo hiểm cũng đã được sửa đổi để làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề
này.
6. Phân bổ các nghĩa vụ tương ứng của các bên trong việc cung cấp hoặc hỗ
trợ để lấy được các chứng từ và thông tin cần thiết nhằm thông qua liên
quan đến an ninh.
Vấn đề an ninh hàng hoá/tàu biển, v.v giờ đây là mối quan tâm hàng đầu của mọi
người khi nói đến thương mại quốc tế. Vì ngày nay hầu hết các nước đều yêu cầu
kiểm tra an ninh nghiêm ngặt, nên các quy tắc thương mại quốc tế cũng yêu cầu cả hai
bên đều phải cung cấp tất cả những thông tin cần thiết (như thông tin về nhũng người
nắm giữ hàng hoá trong quá trình vận chuyển) để làm thủ tục thông qua xuất nhập
khẩu. Các quy tắc cũng phân bổ rõ ràng các chi phí có liên quan.
Trong các quy tắc A2/B2 và A10/B10 của mỗi điều khoản Incoterms, nghĩa vụ
của người bán và người mua về thông tin cần cung cấp cho bên kia, hay sự hỗ trợ để
lấy được thông tin đó cũng được nêu rõ. Các phiên bản INCOTERMS trước đây
không yêu cầu chi tiết về mức độ hợp tác như vậy.
7. Trách nhiệm đối với các khoản phí xếp hàng tại kho cảng được phân bổ rõ
ràng.
Trong trường hợp người bán phải thuê và Thanh toán cho việc vận chuyển hàng
hoá đến một điểm nhất định (CIP, CPT, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP), có thể các
chi phí bốc xếp hàng hoá. Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong một số trường hợp,
người mua vẫn có thể phải thanh toán khoản này cho kho cảng (tức là chịu phí hai
lần).
INCOTERMS
®
2010 đã cốgắng khắc phục tình trạng này bằng cách làm rõ ai sẽ
chịu trách nhiệm thanh toán các chi phí ở kho cảng. Tuy nhiên, vẫn phải chờ thêm một
thời gian nữa để xem liệu quy định của Incoterms có chấm dứt được tình trạng người
mua phải chịu phí hai lần như trước nữa hay không.

8. Bao gồm nghĩa vụ “mua” hàng hóa để phản ánh những thông lệ hiện nay
trong mua bán hàng theo dây chuyền (mua bán hàng đã được xếp lên tàu –
có nghĩa là hàng đã ở trên boong tàu).
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 10
INCOTERMS
®
2010 2014
Trong các hợp đồng mua bán “hàng nguyên liệu” (khác với hàng chế tạo), thường
có trường hợp hàng hóa được bán tiếp một vài lần trong quá trình vận chuyển (tức là
bán dây chuyền, hay bán hàng trong quá trình vận chuyển).
Trong những trường hợp như vậy, người bán ở giữa dây chuyền không phải là
người gửi hàng đi, bởi vì hàng đã được gửi đi bởi người bán ở đầu dây chuyền. Do đó,
nghĩa vụ của người bán ở giữa dây chuyền là mua hàng hóa đã được gửi đi. Bộ
INCOTERMS mới làm rõ điều này bằng cách cho thêm cụm từ “nghĩa vụ mua hàng
hóa đã được gửi đi: như nghĩa vụ thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng. Điều này phù hợp
với các trường hợp thế cho nghĩa vụ hàng. Điều này phù hợp với các trường hợp FAS,
FOB, CFR và CIF, vì về nguyên tắc nó chỉ có thể được thực hiện khi sử dụng vận đơn
hay một chứng từ sở hữu có tính chất tương đương.
9. Lưu ý hướng dẫn
Trong ấn phẩm Incoerm
®
2010, bạn sẽ thấy có một phần Lưu ý hướng dẫn
(Guidance Note) trước mỗi điều khoản. Phần lưu ý này giải thích những nội dung căn
bản của mỗi điều khoản. Các lưu ý hướng dẫn không phải là một phần của các quy tắc
trong Incoterms 2010, mà chỉ nhằm mục đích giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn về
các quy tắc này.
Ví dụ, lưu ý hướng dẫn cho các điều khoản CPT và CIP Incoterms 2010 nhần
mạnh rằng theo những điều khoản này, người bán được coi là hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng, khi giao hàng cho bên vận tải chứ không phải là khi hàng đến điểm đích.
Những quy tắc này có hai điềm then chốt (tới hạn), bởi vì rủi ro và chi phí được

chuyển giao ở các địa điểm khác nhau. Rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ
người bán sang người mua khi hàng được giao cho người vận tải đầu tiên, tuy nhiên
người bán cũng chịu trách nhiệm thuê hay mua hợp đồng vận tải hàng hóa đến điểm
xác định.
Tương tự như vậy với các điều khoản CFR và CIF trong Incoterms 2010, rủi ro và
chi phí được chuyển giao ở những nơi khác nhau.
10. Điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua trong các trường
hợp FOB, CFR và CIF
Các điều khoản FOB, CFR và CIF của Incoterms đều bỏ phần nói đến lan can
tàu như là điểm giao hàng, thay vào đó là nói đến hàng được giao “lên boong” tàu.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 11
INCOTERMS
®
2010 2014
Điều này phản ánh chính xác hơn thực tế thương mại hiện đại, và tránh hình ảnh khá
lỗi thời về rủi ro chuyển dịch qua lại một đường tưởng tượng (là lan can tàu).
11. Sử dụng cụm từ “đóng gói
Đã được đóng gói: Từ này được sử dụng cho các mục đích khác nhau:
• Đóng gói hàng hóa phù hợp các yêu cầu trong hợp đồng mua bán.
• Đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với hàng hóa vận chuyển.
• Việc xếp hàng đã đóng gói trong container hay các phương tiện vận tải khác.
Trong các quy tắc Incoterms 2010, đóng gói có cả hai nghĩa thứ nhất và thứ hai
nêu trên. Các quy tắc Incoterms 2010 không nói đến nghĩa vụ của các bên trong việc
xếp hàng hóa vào container, và do đó các bên liên quan phải thống nhất cụ thể về vấn
đề này trong hợp đồng mua bán. Incoterms 200 không có quy định rõ ràng về vấn đề
này.
IV. CÁC QUY TẮC CHÍNH TRONG SỬ DỤNG CÁC ĐIỀU KIỆN
CỦA INCOTERMS 2010
1. Đưa các quy tắc của Incoterms 2010 vào hợp đồng mua bán.
Muốn áp dụng các quy tắc Incoterms® 2010 vào hợp đồng mua bán hàng hóa thì

phải làm rõ điều đó trong hợp đồng bằng cách dùng các từ ngữ, như: “[Điều kiện được
chọn, tên địa điểm, Incoterms® 2010]”.
2. Lựa chọn quy tắc Incoterms phù hợp.
Điều kiện Incoterms được chọn phải phù hợp với hàng hóa, phương tiện vận tải và
quan trọng hơn cả là phải xem các bên có ý định đặt ra cho người mua hoặc người bán
các nghĩa vụ bổ sung, ví dụ như nghĩa vụ tổ chức vận tải và mua bảo hiểm. Hướng
dẫn sử dụng trong từng điều kiện Incoterms cung cấp những thông tin đặc biệt hữu ích
cho việc lựa chọn các điều kiện. Dù chọn điều kiện Incoterms nào, các bên vẫn cần
biết rằng việc giải thích hợp đồng còn chi phối mạnh mẽ hơn tập quán riêng của từng
cảng hoặc từng địa phương có liên quan
3. Nêu rõ địa điểm/cảnh giao hàng và đích đến càng chính xác càng tốt.
Điều kiện Incoterms được lựa chọn chỉ làm việc tốt khi các bên chỉ định một nơi
hoặc một cảng, và sẽ là tối ưu nếu các bên quy định chính xác nơi hoặc cảng đó.
Chẳng hạn cần quy định như: “FCA 38 Cours Albert 1er, Paris, France Incoterms®
2010”
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 12
INCOTERMS
®
2010 2014
Theo các điều kiện như: Giao tại xưởng (EXW), Giao cho người chuyên chở
(FCA), Giao tại bến (DAT), Giao tại nơi đến (DAP), Giao hàng đã nộp thuế (DDP),
Giao dọc mạn tàu (FAS), Giao lên tàu (FOB), thì nơi được chỉ định là nơi diễn ra việc
giao hàng và là nơi rủi ro chuyển từ người bán sang người mua. Theo các điều kiện:
Cước phí trả tới (CPT), Cước phí và bảo hiểm trả tới (CIP), Tiền hàng và cước phí
(CFR), Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí (CIF), thì địa điểm được chỉ định khác với
nơi giao hàng. Theo bốn điều kiện này, nơi được chỉ định là nơi đến mà cước phí được
trả. Việc ghi nơi hoặc đích đến có thể được cụ thể hóa hơn bằng cách quy định một
địa điểm cụ thể tại nơi hoặc đích đến đó nhằm tránh sự nghi ngờ hoặc tranh chấp.
4. Incoterms 2010 không bao gồm mọi điều kiện trong hợp đồng.
Incoterms đã chỉ rõ bên nào trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ thuê phương

tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và chi
phí nào mỗi bên phải chịu. Song, Incoterms không nói gì tới mức giá phải trả hay
phương thức thanh toán. Đồng thời, Incoterms cũng không đề cập tới sự chuyển giao
quyền sở hữu về hàng hóa và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này
thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong luật điều
chỉnh hợp đồng. Các bên nên biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất
hiệu lực bất kỳ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được chọn.
5. Có thể sử dụng trong thương mại nội địa.
6. Bảo hiểm - Incoterms 2010 - sửa đổi các điều khoản của Institude Cargo
clauses (2009)
7. Chú ý đến THC (chi phí xếp dỡ tại kho cảng) - đó có phải là một phần của
hợp đồng vận tải không?
8. Bán hàng theo chuỗi - người bán ở giữa mua hàng hoá được chuyển đi.
9. Chú ý đến rủi ro sử dụng các biến thể của các quy tắc Incoterms (chi phí và
điểm chuyển giao rủi ro?
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 13
INCOTERMS
®
2010 2014
CHƯƠNG 3: INCOTERMS 2010 VÀ QUAN HỆ VỚI CÁC PHƯƠNG
THỨC THANH TOÁN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. Các chứng từ - sỡ hữu và không sỡ hữu
• Vận đơn • Vận đơn hàng không
• Danh sách bảo đảm • Chứng từ vận tải đường bộ
• Danh mục giao hàng • Chứng từ vận tải bằng tàu hỏa
• Đa phương thức (vận đơn không
kết hơp)
• Các chứng từ vận tải đa phương
thức không bao gồm vận tải đường
biển

Ai cầm chứng từ thì có quyền sở hửu
hàng hóa
Người nhận là người có quyền sở hữu
hàng hóa
Các chứng từ vận tải không sở hữu:
• Hàng hóa gửi đến người mua (người xin mở tín thư tín dụng, người bị ký phá
chứng từ thanh toán).
• Hàng hóa được gửi đi và ngân hàng/công ty giao nhận có quyền giao hàng hóa
đó cho người mua sau khi người mua thanh toán (hoặc chưa thanh toán bằng
cách chấp nhận hối phiếu).
II. Điều khoản giao hàng - điều kiện thanh toán
 NGƯỜI XUẤT KHẨU
- Kiểm soát thực tế đối với hàng hoá, hoặc thông qua:
- Chứng từ sở hữu
- Một người nhận khác theo chỉ định
 NGƯỜI NHẬP KHẨU
- Kiểm soát tiền
- Ra lệnh cho Ngân hàng - lệnh Thanh toán, chấp nhận thanh toán, mở thư tín dụng.
1. Thanh toán trước (Tạm ứng)
 Người xuất khẩu
EXW, FCA, CPT, CIP, DAT, DAP, DDP, FAS, FOB, CFT, CIF
 Người nhập khẩu
Kiểm tra hàng hoá khi nhận hàng theo đúng các điều khoản giao hàng, bảo hiểm.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 14
INCOTERMS
®
2010 2014
2. Thanh toán nhờ thu
NGƯỜI XUẤT KHẨU THANH
TOÁN

KHI
NHẬN
HÀNG
HOẶC
SAU
ĐÓ
NGƯỜI NHẬP KHẨU
• EXW : không sử dụng • D/P
• FCA, FAS, FOB – vấn đề
kiểm soát đối với hàng hóa
• D/A – thanh toán sau
• CFR, CIF – vấn đề kiểm soát
đối với hàng hóa
• Thanh toán qua ngân hàng
• CPT, CIP – vấn đề kiểm soát
đối với hàng hóa
• Trả ngay hoặc trả sau
• DAT, DAP, (DDP)
• “Không nhất quán” với các điều
khoản “D”
• EXW: hóa đơn hàng hóa, hóa
đơn xe tải
• Các vấn đề kiểm tra và bảo hiểm
• FCA, FAS, FOB – vấn đề
kiểm soát đối với hàng hóa
• CFR, CIF – vấn đề kiểm soát
đối với hàng hóa
• CPT, CIP – vấn đề kiểm soát
đối với hàng hóa
• DAT, DAP, (DDP)

3. Thanh toán ghi số
NGƯỜI XUẤT KHẨU NGƯỜI NHẬP KHẨU
EWX Người nhập khẩu ưa thích
hình thức này
FCA, FAS, FOB
CFR, CIF
CPT, CIP
DAT, DAP, DDP
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 15
INCOTERMS
®
2010 2014
4. Các sai sót chủ yếu của người nhập khẩu
• Điều khoản giao hàng không phù hợp
• Không nhất quán giữa các điều khoản giao hàng và các chứng từ cần thiết
• Không nhất quán về logic (phương thức vận chuyển, điều khoản giao hàng,
chứng từ)
5. Các sai sót chủ yếu của người xuất khẩu
• L/C không phù hợp với hợp đồng mua bán - do người nhập khẩu đưa ra yêu
cầu sai cho Ngân hàng.
• L/C không phù hợp với hợp đồng mua bán - sai sót/khác biệt do khâu xử lý
chứng từ của Ngân hàng.
• Người xuất khẩu tin rằng L/C phản ánh đúng hợp đồng mua bán không kiểm
tra kỹ.
• Thường không hiểu hết tầm quan trọng của những chứng từ được yêu cầu.
• Không hiểu rõ các yêu cầu của UCP 600 và thông lệ chuẩn của các Ngân hàng
trong thương mại quốc tế.
• Rủi ro đáng kể về sự khác biệt chủ yếu trong chứng từ do bên thứ ba đưa ra.
• EXW, FCA, FOB, FAS, hợp đồng vận chuyển là giữa người mua và công ty
vận tải - vậy có thể lấy được chứng từ vận tải sẽ thu phí sau hay không?

Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 16
INCOTERMS
®
2010 2014
CHƯƠNG 4: TÌNH HÌNH XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ DỤNG
CÁC ĐIỀU KHOẢN INCOTERMS 2010
I. Hiểu biết và vận dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp trong việc
xuất nhập khẩu tại Việt Nam
1. Tình hình nắm bắt và sử dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu tại Việt Nam
Incoterms 2010 là ấn bản mới nhất do Phòng thương mại thế giới phát hành và
chính thức có hiệu lực từ 1/1/2011. Kể từ khi có hiệu lực đến nay, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu Việt Nam đã và đang làm quen với các điều kiện thương mại mới
cũng như những đổi mới của Incoterms 2010 so với Incoterms 2000. Thực tế cho thấy,
các DN hoạt động trong lĩnh vực XNK ở Việt Nam đang ngày càng phát triển, mở
rộng về quy mô và tầm vóc. Tuy nhiên, càng phát triển và càng hoạt động sâu trong
hoạt động giao thương quốc tế thì càng nảy sinh nhiều vấn đề vướng mắc, tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh XNK. Việc am hiểu và sử dụng hiệu quả Các điều khoản
thương mại quốc tế Incoterms 2010 của ICC sẽ thuận lợi nhiều cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Trước hết, khi Incoterms 2010 có hiệu lực thì các đối tác của doanh nghiệp
Việt Nam sẽ áp dụng bộ quy tắc này. Thứ nữa, bộ quy tắc này được sửa đổi và cập
nhập các quy tắc và tập quán mới trong thương mại quốc tế và trở thành kỹ năng cần
thiết, không thể thiếu của các nhà xuất nhập khẩu, người làm thương mại, giao nhận
vận tải, bộ phận tín dụng thu hồi nợ trong các ngân hàng, các chuyên gia tài chính và
luật sư
Một thực tế cho thấy là dù Incoterms 2010 đã có hiệu lực được 3 tháng, nhưng hầu
hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam vẫn đang quen sử dụng Incoterms
2000 và áp dụng Incoterms 2000 trong các hợp đồng mua bán hàng hóa của mình.
Doanh nghiệp Việt Nam ít chủ động chọn các điều kiện thương mại nên

không giành được quyền ký hợp đồng vận tải hay bảo hiểm.
Theo nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, đa số các doanh nghiệp XNK Việt Nam
thường chọn sử dụng các điều kiện nhóm F như FCA, FOB cho các hợp đồng xuất
khẩu và các điều kiện nhóm C cho các hợp đồng nhập khẩu. Điều này có nghĩa là
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 17
INCOTERMS
®
2010 2014
doanh nghiệp đang chọn các điều kiện cơ sở giao hàng mà theo đó giao quyền ký hợp
đồng thuê phương tiện vận tải và hợp đồng mua bảo hiểm hàng hóa cho đối tác nước
ngoài. Đây là thực trạng khá phổ biến của các doanh nghiệp Việt Nam từ khi chúng ta
tham gia buôn bán trên thị trường thế giới. Phần đông cho rằng, nguyên nhân của thực
trạng này chính là vấn đề lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi cân nhắc
về vấn đề lợi nhuận giữa việc mình là người giành được quyền vận tải và mua bảo
hiểm với việc để cho đối tác làm việc này thì nhận thấy lợi nhuận thu được trong hai
trường hợp trên là tương đương nhau, và điều này làm họ yên tâm hơn trong việc giữ
thói quen mua bán như trước đây là xuất khẩu thì dùng điều kiện FOB, nhập khẩu thì
dùng điều kiện CIF. Chính điều này đã cho thấy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Việt Nam chưa có sự quan tâm đúng mức tới lợi ích của việc giành được quyền vận
tải và ký hợp đồng mua bảo hiểm cho hàng hóa. Chúng ta có thể đưa ra một số lợi ích
mà doanh nghiệp có thể nhận được khi giành được quyền thuê tàu là:
- Nếu giành được quyền thuê tàu, doanh nghiệp sẽ chủ động về thời gian. Đối
với nhà xuất khẩu thì có thể chủ động tập kết hàng tại cảng giao đúng thời hạn, với
nhà nhập khẩu thì có thể tới nhận hàng kịp, tránh trường hợp hàng đã tới mà ta vẫn
chưa ra nhận hàng và có thể bị coi là hàng đã giao cho dù người mua chưa chính thức
nhận được hàng.
- Doanh nghiệp có quyền chỉ định dung sai cho hàng hóa (người được chỉ định
dung sai đối với hàng hóa là người thuê phương tiện vận tải). Doanh nghiệp có thể
điều chỉnh số lượng hàng giao trong trường hợp giá hàng hóa tăng giảm so với giá
thời điểm ký hợp đồng.

- Người ký hợp đồng trực tiếp với hãng vận tải hay hãng bảo hiểm có thể nhận
được những khoản tiền hoa hồng hay chênh lệch.
- Nếu ta là người nhập khẩu và áp dụng Incoterms điều kiện nhóm C, thì khi
hàng hóa được giao tại nước đối tác và chúng ta phải chịu mọi rủi ro đối với hàng hóa.
Nếu giành được quyền ký hợp đồng bảo hiểm thì chúng ta có thể dễ dàng làm việc với
công ty bảo hiểm nếu có rủi ro xảy ra.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 18
INCOTERMS
®
2010 2014
2. Doanh nghiệp Việt Nam ít lựa chọn các hãng vận tải trong nước khi giành
được quyền thuê vận tải và mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu việt
nam, có một hạn chế lớn xảy ra, đó là việc các nhà xuất nhập khẩu trong nước không
đặt niềm tin vào các hãng cung cấp dịch vụ vận tải trong nước. Tức là dù có giành
được quyền vận tải tải và ký hợp đồng bảo hiểm thì cũng ít khi chọn các hãng kinh
doanh dịch vụ này của nước mình. Điều này có thể xuất phát từ tâm lý e sợ trình độ
cũng như cơ sở vật chất còn non kém ở trong nước, không tạo được sự tin tưởng ở
khách hàng, đôi khi ở Việt Nam không có các loại phương tiện có trọng tải phù hợp
với yêu cầu của hàng hóa.
3. Doanh nghiệp XNK Việt Nam còn thiếu hiểu biết đối với thị trường nước
ngoài để có thể sử dụng thành thạo và đa dạng các điều kiện Incoterms
mang tính chủ động.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đang vận dụng Incoterms một cách thụ động và
theo thói quen. Chính vì thiếu hiểu biết thị trường nước ngoài, cho nên mặc nhiên, các
doanh nghiệp chỉ sử dụng các điều kiện vốn trước giờ vẫn hay dùng như xuất FOB
nhập CIF, thậm chí hầu như chưa có doanh nghiệp nào sử dụng các điều kiện nhóm D
và EXW và cho rằng ở trong trường hợp đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình là ít
nhất.
Có thể thấy được từ thực trạng sử dụng Incoterms của doanh nghiệp Việt Nam đã

bộc lộ nhiều hạn chế:
- Doanh nghiệp chưa có sự đa dạng hóa trong việc sử dụng các điều kiện
thương mại quốc tế, đồng nghĩa với việc chúng ta đang bó hẹp mình trong các phương
thức kinh doanh cũ.
- Doanh nghiệp sử dụng Incoterms đa số đều thiếu tính chủ động, khi mà
chúng ta giao hết quyền vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm cho đối tác.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 19
INCOTERMS
®
2010 2014
4. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường ít quan tâm đến vấn đề chi
phí và rủi ro phát sinh giữa người bán – người mua trong quá trình giao
nhận hàng hóa được quy định trong các điều kiện thương mại quốc tế
Incoterms 2010
Trong Incoterms 2010, nhiều nghĩa vụ về chi phí được sửa đổi. Cụ thể là trong các
điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP, DDU, người bán phải tổ chức vận chuyển
hàng hóa đến nơi quy định tức là mọi chi phí vận tải và các chi phí liên quan đều do
người bán chịu.
Vì đây là một trong những nghĩa vụ mới của Incoterms 2010 nên các doanh nghiệp
thường không chú ý đến vấn để này, vì vậy tạo ra những thiệt thòi không đáng có.
5. Không dẫn chiếu đúng đến Incoterms 2010
Các doanh nghiệp trong khi ký kết hợp đồng thương mại nhiều khi chưa nhận thấy
tầm quan trọng của việc dẫn chiếu đúng tới Incoterms 2010. Hiện nay, nhiều doanh
nghiệp khi tiến hành ký kết hợp đồng cho rằng chỉ cần ghi các ký hiệu FOB, CFR,
CIF thì những ký hiệu đó đương nhiên được giải thích theo Incoterms hiện hành. Vì
vậy, trong mọi hợp đồng của mình, doanh nghiệp không dẫn chiếu đến một ấn bản
Incoterms cụ thể nào. Quan niệm đó hết sức sai lầm vì ngoài cách giải thích các điều
kiện thương mại quốc tế của ICC còn có cách giải thích khác theo Bộ luật Thương
mại thống nhất (UCC) và những định nghĩa Ngoại thương của Mỹ (AFTD). So với
cách giải thích của ICC về các điều kiện thương mại thì hai cách giải thích này có rất

nhiều điểm khác biệt. Hơn nữa, các ấn bản khác nhau của Incoterms có giá trị pháp lý
độc lập và thay đổi qua các năm. Việc không dẫn chiếu năm nào sẽ gây ra khó khăn
cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Ví dụ, trong hợp đồng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp chỉ quy định điều khoản về
giá trong hợp đồng là 250USD/MT CIF Haiphong mà không ghi cụ thể Incoterms
2010 vì cho rằng sẽ đương nhiên áp dụng bản Incoterms mới nhất. Điều này sẽ gây
khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp. Nếu đối tác hiểu và áp dụng theo Incoterms 2000,
trong đó chỉ quy định rằng bên bán chỉ phải cung cấp một con tàu đi biển để chở hàng
hóa, thì có thể gây ra thiệt hại lớn cho người mua. Việc cung cấp một con tàu đi biển
không phù hợp với đặc tính của hàng hóa sẽ gây ra thiệt hại lớn cho bên mua vì hàng
hóa đã được chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua khi hàng được đưa lên
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 20
INCOTERMS
®
2010 2014
tàu, mọi thiệt hại hoặc hư hỏng của hàng hóa sẽ cho người mua chịu. Trong khi đó,
trong Incoterms 2010 đã quy định rất cụ thể rằng, người bán phải cung cấp con tàu
thuộc loại thường sử dụng để chở mặt hàng đó.
II.Những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi
sử dụng Incoterms 2010
1. Chưa hiểu rõ các điều khoản trong Incoterms 2010
Incoterms 2010 là ấn bản mới nhất quy định về các điều kiện thương mại quốc tế
của ICC. Incoterms 2010 mới chỉ được phát hành từ tháng 9/2010 và bắt đầu có hiệu
lực từ tháng 1/2011. Vì thời gian có hiệu lực chưa lâu nên các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam không tránh khỏi gặp nhiều bỡ ngỡ trong quá trình sử dụng. Hầu hết
các doanh nghiệp chưa nắm hết được những thay đổi trong Incoterms 2010 và cách sử
dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất. Trong nhiều trường hợp, việc chưa nắm chắc
Incoterms 2010 có thể gây ra nhiều thiệt hại cho chúng ta hoặc làm mất cơ hội lớn
trong thị trường xuất nhập khẩu thế giới.
2. Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu

Áp dụng Incoterms 2010 đòi hỏi chúng ta phải có cơ sở vật chất tốt, hiện đại.
Incoterms 2010 được ra đời xuất pháp từ thực tế vận tải container ngày càng phát
triển. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta cần phải có những bãi container rộng lớn,
thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, những nghĩa vụ mới của
Incoterms 2010 cũng yêu cầu chúng ta phải có hệ thống các phương tiện vận tải hiện
đại mới có thể đáp ứng được.
Hiện nay, tuy việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng các bến cảng, kho bãi
đã được chú trọng, nhưng tốc độ phát triển của các đội tàu còn hạn chế, tỷ trọng vận
chuyển không tăng. Sự phát triển còn chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập khu
vực và quốc tế. Vận tải bằng đường sắt và đường hàng không chưa phát triển, mới chỉ
giới hạn trong các mặt hàng cụ thể. Thực tế này cho thấy, sức cạnh tranh của ngành
vận tải nước ta còn kém so với khu vực và thế giới. Điều này gây ra nhiều thiệt thòi
cho không những các doanh nghiệp kinh doanh vận tải mà còn đến cả các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu khi không thể sử dụng các doanh nghiệp vận tải trong nước mà
phải thuê doanh nghiệp vận tải nước ngoài trong trường hợp dành được quyền vận tải.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 21
INCOTERMS
®
2010 2014
3. Khả năng nắm bắt và cập nhật thông tin còn kém
Kênh thông tin của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ra còn kém. Các doanh
nghiệp luôn gặp khó khăn và chậm trễ trong việc nắm bắt thông tin về thị trường thế
giới. Điều này gây ra trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường mới hay
việc cập nhật các yêu cầu mới của thị trường. Doanh nghiệp không thể có những cải
tiến kịp thời cho sản phảm để có thể đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu của thị trường
nước ngoài, gây ra khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa.
4. Khả năng mở rộng, nghiên cứu thị trường nước ngoài của doanh nghiệp còn
yếu, lo ngại không thực hiện tốt yêu cầu của hợp đồng
Hiện nay ở Việt Nam không có nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu có được các đại
lý giao nhận của mình ở các nước đối tác, bên cạnh đó, doanh nghiệp chúng ta còn

không nắm chắc các vấn đề về tập quán, luật pháp nước đối tác.
Khi trao đổi với phóng viên VnExpress, giám đốc một công ty thủy sản lớn của
An Giang cho biết:“ Nước Mỹ có hơn 1 triệu luật sư đang hoạt động. Các vụ kiện tụng
liên quan đến sản phẩm của chúng tôi xảy ra như cơm bữa. Xuất hàng sang đó, luật
pháp chúng tôi không rành, nếu xảy ra kiện tụng thì rất rắc rối, tốt nhất để người mua
chịu phí bảo hiểm sản phẩm „ Ông còn cho biết thêm, các nhà nhập khẩu Mỹ thường
giành quyền mua bảo hiểm trong nước để khi có vấn đề phát sinh họ giải quyết ở Mỹ
cho dễ dàng.
Qua đó có thể thấy, một khi không nắm được những vấn đề như thế, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam có thể gặp nhiều bất lợi và bị rơi vào thế bị động
trong quá trình ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa.
III. Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong
việc sử dụng các điều khoản Incoterms 2010
1. Các khuyến nghị mang tính vĩ mô:
a/ Khuyến khích doanh nghiệp thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm trong
nước
Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuê phương tiện
vận tải trong nước bằng những quy định cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu sử dụng các điều kiện mà theo đó giành được quyền vận tải và mua
bảo hiểm về mình.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 22
INCOTERMS
®
2010 2014
Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên chuyên chở hàng chính phủ cho đội
tàu trong nước. Với những lô hàng liên quan đến dự án đầu tư, thực hiện hiệp định tài
chính hoặc hợp đồng liên chính phủ, những hàng do chính phủ vay tiền, được cấp tín
dụng hay hàng do chính phủ bảo trợ phải được vận chuyển bằng đội tàu trong nước
nhằm tạo nguồn hàng cho đội tàu Việt Nam, giúp các doanh nghiệp vận tải phát triển.
b/ Chính sách phát triển ngành vận tải và bảo hiểm trong nước

Nhà nước cần đẩy mạnh các biện pháp nhằm quảng bá sản phẩm dịch vụ nói
chung và dịch vụ vận tải và bảo hiểm nói riêng tới các nước trên thế giới, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải bảo hiểm có cơ hội phát triển thị trường
ngoài nước. Chính phủ tăng cường thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ vận tải và bảo hiểm
thông qua các hiệp định song phương và đa phương nhằm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp Việt Nam được đối xử cạnh tran công bằng. Nhà nước còn cần làm tốt công
tác thông tin thị trường để giúp cho các doanh nghiệp nắm được cơ hội do nắm bắt
thông tin sớm, chính xác.
c/ Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở vật chất
Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở vật chất là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Nhà nước ta cần chú trọng công
tác đầu tư phát triển đội tàu nước ta theo hướng “trẻ hóa, chuyên dụng hóa”, cần có
những quy định rõ ràng về tuổi sử dụng của các con tàu, đầu tư những con tàu có
trọng tải lớn, trang thiết bị hiện đại, những con tàu chuyên dụng để đáp ứng nhu cầu
chuyên chở bằng đường biển ngày càng tăng.
Đối với vận tải đường sắt, Nhà nước cần đầu tư xây dựng nhiều tuyến đường sắt,
cải tiến và đưa vào sử dụng những tàu hỏa hiện đại, giúp cho hàng hóa có thể được
vận chuyển một cách thuận tiện nhất. Đầu tư xây dựng và hiện đại hóa các sân bay,
tạo điều kiện thuận lợi nhất để có thể đưa hàng ra vào sân bay một cách dễ dàng.
Bên cạnh đó, nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng cơ sở mặt bằng, xây dựng
nhiều kho cảng, bến bãi, bãi container… để có thể chứa được số lượng hàng lớn, vận
chuyển hàng ra vào thuận tiện.
d/ Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 23
INCOTERMS
®
2010 2014
Trước thực tế hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn
thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành nhằm vừa tạo điều kiện
thuận lợi vừa nâng cao hiệu lực quản lý đối với các hoạt động vận tải.

Quốc hội đã thông qua luật kinh doanh bảo hiểm, cần sớm ban hành các văn bản
hướng dẫn và hoàn thành hệ thống các văn bản pháp quy về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, tạo môi trường kinh doanh ổn định trong ngành bảo hiểm, tạo được lòng tin cho
khách hàng.
e/ Tổ chức các buổi họp mặt, trao đổi, trau dồi kinh nghiệm thực tiễn
Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan tổ chức các buổi họp mặt các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu nhằm hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật mới. Giới
thiệu và tổ chức các khóa học ngắn và dài hạn hướng dẫn cách sử dụng Incoterms
2010 để cho các doanh nghiệp tránh khỏi bỡ ngỡ khi sử dụng trong thực tế.
2. Các khuyến nghị mang tính vi mô
a/ Khuyến nghị cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần quan tâm đến vấn đề đào tạo và bồi dưỡng
nghiệp vụ, ngoại ngữ trong kinh doanh xuất nhập khẩu, vận tải, bảo hiểm cho đội ngũ
cán bộ công nhân viên, để doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả. Song song với
việc đào tạo cơ bản, các doanh nghiệp phải đào tạo các nhân viên về các nghiệp vụ
thuê phương tiện vận tải, mua bảo hiểm… Tăng cường giới thiệu và làm quen với các
điều kiện thương mại mới của Incoterms 2010 để nhân viên hiểu và vận dụng một
cách tối ưu nhất
 Doanh nghiệp Việt Nam nên giành quyền mua bảo hiểm và thuê tàu
Hiện nay, khoảng 80% các thương vụ của doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
thì chọn điều kiện FOB, và khi nhập khẩu thì chọn CIF, CFR. Thật sai lầm khi cho
rằng mua hàng theo điều kiện CIF nghĩa là mọi rủi ro trục trặc trong quá trình thực
hiện hợp đồng cho tới khi hàng về đến cảng Việt Nam đều do người bán chịu.
Theo tinh thần Incoterms, điều kiện giao hàng FOB quy định người mua chịu mọi
phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm,
đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF
cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã được giao lên boong
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 24
INCOTERMS

®
2010 2014
tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp
đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy
ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký và chuyển
giao cho phía nhập khẩu. Như vậy, dù mua hàng theo điều kiện FOB hay CIF thì mọi
rủi ro về hàng hoá sau khi hàng đã được giao lên boong tàu đều do người mua chịu. Ở
đây hợp đồng CIF chỉ khác hợp đồng FOB là người bán thay mặt người mua mua luôn
bảo hiểm (I) và thuê hộ tàu (F). Các chi phí I và F đã được tính đủ vào giá hàng.
Chính vì vậy để tăng phần lợi nhuận trong giá hàng CIF người bán tìm đủ mọi cách hạ
thấp chi phí I và F bằng cách ký các hợp đồng thuê tàu và hợp đồng bảo hiểm theo
những điều kiện lỏng lẻo bất lợi cho người mua sau này.
Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp nhập khẩu yêu cầu đối tác nước ngoài chào
hàng theo điều kiện FOB cũng rất có lợi đối với doanh nghiệp. Họ sẽ phải trả ít tiền
ký quỹ hơn để mở Thư tín dụng (L/C), không phải lo ngay tiền vận chuyển vì khi
hàng cập cảng họ mới có nghĩa vụ phải chi tiền, doanh nghiệp cũng không bị tồn vốn
hoặc không phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền cước tàu, giảm được giá thành
hàng nhập khẩu.
Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên chuyển dần từ điều kiện FOB sang các
điều kiện khác như CIF, CFR, bởi điều kiện FOB theo Incoterms 2010 chứa đựng rất
nhiều rủi ro. Ví dụ, như khi giao hàng lên tàu, mặc dù người bán còn giữ các chứng từ
nhận hàng (Bill Of Lading) nhưng đã mất quyền kiểm soát lô hàng của mình mua vì
người bán không phải người thuê tàu nên không thể ra lệnh cho hãng tàu ngừng giao
hàng cho người. Trong khi đó, nếu áp dụng CIF, CFR, khi đối tác chưa thanh toán đủ
hoặc không thanh toán tiền thì các doanh nghiệp chỉ tốn một ít chi phí chở hàng chứ
không mất cả lô hàng.
 Quy định chi phí nhận hàng tại cảng
Trong Incoterms 2010, các chi phí khi nhận hàng tại cảng đến như lệnh giao hàng
(Deliver Order), phí vận đơn đường biển (Bill Of Lading) và nhất là phí nâng hạ
container (Terminal Handing Charges) được quy định rõ hơn so với Incoterms 2000.

Theo đó, Incoterms 2010 quy định các chi phí trên đều do người bán chịu nhưng các
doanh nghiệp Việt Nam cần ghi rõ trong hợp đồng ai sẽ chịu các chi phí này một cách
rõ ràng, nếu không phần thiệt thòi sẽ nghiêng về các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngô Thị Thanh Tuyền – K124081465 25

×