Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng của hoa cúc đài loan tại phường túc duyên thành phố thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––





NGUYỄN NGỌC TÂN





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
NÂNG CAO NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA
HOA CÚC ĐÀI LOAN TẠI PHƢỜNG TÚC DUYÊN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP





\



Thái Nguyên, năm 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––





NGUYỄN NGỌC TÂN





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
NÂNG CAO NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA
HOA CÚC ĐÀI LOAN TẠI PHƢỜNG TÚC DUYÊN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành: Trồng trọt

Mã số: 60.62.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thuý Hà




Thái Nguyên, năm 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày… tháng… năm 2011
Tác giả




Nguyễn Ngọc Tân





LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi luôn
nhận được sự quan tâm của cơ quan, nhà trường và sự giúp đỡ tận tình của
các Thầy Cô, các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Ban lãnh đạo Trạm khuyến nông thành phố Thái Nguyên đã tạo điều kiện
giúp đỡ cho tôi được tham gia khoá đào tạo này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Thuý Hà, người
hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi thực hiện đề tài và
hoàn thành bản lụân văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thày giáo, cô giáo - Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện, hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để có thể hoàn thành luận
văn này.

Thái Nguyên, ngày… tháng… năm 2011
Tác giả




Nguyễn Ngọc Tân
CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CT
: Công thức
ĐC
: Đối chứng
NL
: Nhắc lại
TGST
: Thời gian sinh trưởng
TLBH
: Tỉ lệ bệnh hại
TLSH
: Tỉ lệ sâu hại
TN
: Thí nghiệm

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.2: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng, phát triển
hoa cúc Đài Loan 35
Bảng 4.3 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái tăng trưởng
chiều cao của hoa cúc Đài Loan 36
Bảng 4 4: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái ra lá của hoa
cúc Đài Loan 38
Bảng: 4.5. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất, chất lượng của
hoa cúc Đài Loan 40
Bảng 4.6a. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tình hình sâu hại của hoa
cúc Đài Loan 43

Bảng 4.6b. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tình hình bệnh hại của hoa
cúc Đài Loan 44
Bảng 4.7 Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế 45
Bảng 4.8 Ảnh hưởng của phân bón lá đến tỷ lệ sống của hoa cúc Đài Loan 47
Bảng 4.9 Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến các giai đoạn sinh
trưởng phát triển của hoa cúc Đài Loan 47
Bảng 4.10 Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến động thái tăng trưởng
chiều cao của hoa cúc Đài Loan 50
Bảng 4.11: Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến động thái ra lá của
hoa cúc Đài Loan 53
Bảng: 4.12. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến năng suất, chất
lượng của hoa cúc Đài Loan 56
Bảng 4.13a. Ảnh hưởng của phân bón lá đến tình hình sâu hại của hoa
cúc Đài Loan 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1



Bảng 4.13b. Ảnh hưởng của phân bón lá đến tình hình bệnh hại của hoa
cúc Đài Loan 61
Bảng 4.14 Sơ bộ hạch toán thu chi phí khi sử dụng phân bón lá cho hoa
cúc Đài Loan 62
Bảng 4.15: Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến tỷ lệ sống
của hoa cúc Đài Loan 63
Bảng 4.16. Ảnh hưởng của kích thích sinh trưởng đến các giai đoạn sinh
trưởng phát triển của hoa cúc Đài Loan 64
Bảng 4.17: Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến động thái

tăng trưởng chiều cao của hoa cúc Đài Loan 66
Bảng 4.18: Ảnh hưởng của các loại chất kích thích sinh trưởng đến động
thái ra lá của hoa cúc Đài Loan 69
Bảng 4.19: Ảnh hưởng của các loại chất kích thích sinh trưởng đến năng
suất, chất lượng của hoa cúc Đài Loan 71
Bảng 4.20a. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến tình hình
sâu hại của hoa cúc Đài Loan 75
Bảng 4.20b. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến tình hình
bệnh hại của hoa cúc Đài Loan 76
Bảng 4.21 Sơ bộ hạch toán thu chi phí khi sử dụng chất kích thích sinh
trưởng cho hoa cúc Đài Loan 77



DANH MỤC CÁC HÌNH

Đồ thị 1: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái tăng trưởng chiều
cao cây của hoa cúc Đài Loan 37
Đồ thị 2: Ảnh hưởng của mật động trồng đến động thái ra lá của hoa
cúc Đài Loan 39
Đồ thị 3: Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của hoa cúc Đài Loan 51
Đồ thị 4: Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến động thái ra lá của
hoa cúc Đài Loan 54
Đồ thị 5: Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến động thái
tăng trưởng chiều cao của hoa cúc Đài Loan 66


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 0
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích yêu cầu của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của đề tài 3
2.1.1. Cơ sở thực tiễn 3
2.1.2. Cơ sở lý luận 4
2.2. Giới thiệu chung về cây hoa cúc 10
2.3. Nguồn gốc, lịch sử phát triển cây hoa cúc 11
2.4. Tóm tắt một số đặc điểm thực vật học chính của cây hoa cúc 12
2.4.1. Rễ 12
2.4.2. Thân 13
2.4.3. Lá 13
2.4.4. Hoa, quả 13
2.5. Yêu cầu nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ và dinh dưỡng cho cây hoa cúc 14
2.5.1. Nhiệt độ 14
2.5.2. Ánh sáng 15
2.5.3. Ẩm độ 16
2.5.4. Đất đai 16
2.5.5. Yêu cầu về dinh dưỡng của cây hoa cúc 16
2.6. Tình hình sản xuất, phát triển hoa cúc trên thế giới và Việt Nam 17
2.6.1. Tình hình sản xuất và phát triển hoa cúc trên thế giới 17
2.6.2. Tình hình sản xuất và phát triển hoa cúc ở Việt Nam 18
2.7. Tình hình nghiên cứu cây hoa cúc trên thế giới và ở Việt Nam 21
2.7.1. Tình hình nghiên cứu cây hoa cúc trên thế giới 21
2.7.2. Tình hình nghiên cứu cây hoa cúc ở Việt Nam 23
Chƣơng 2: VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
3.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
3.1.1. Đối tượng, vật liệu nghiên cứu 28
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu 28

3.1.2. Địa điểm nghiên cứu 28
3.1.3 Thời gian nghiên cứu: từ tháng 7/2010 đến tháng 2 năm 2011 28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1



3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 28
3.2.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng và phát triển hoa cúc
Đài loan 28
3.2.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng và phát triển hoa cúc
Đài loan 29
3.2.3. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến sinh trưởng và phát
triển hoa cúc Đài loan 30
3.3. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 31
3.3.1. Các biện pháp kỹ thuật áp dụng 33
3.3.2 Phân tích và xử lý số liệu 33
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
4.1. Thí Nghiệm mật độ trồng 34
4.1.1 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ sống của hoa cúc Đài Loan 34
4.1.2 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng, phát triển hoa cúc
Đài Loan 34
4.1.3 Ảnh hưởng mật độ trồng đến chiều cao hoa cúc Đài Loan 36
4.1.4. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái ra lá của hoa cúc Đài Loan 38
4.1.5. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất, chất lượng của hoa
cúc Đài Loan 40
4.1.6. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tình hình sâu bệnh hại của hoa
cúc Đài Loan 43

4.1.7. Sơ bộ hạch toán thu chi khi áp dụng biện pháp kỹ thuật mật độ
trồng khác nhau cho hoa cúc Đài Loan 45
4.2. Thí nghiệm phân bón lá 46
4.2.1 Ảnh hưởng của phân bón lá đến tỷ lệ sống của hoa cúc Đài Loan 46
4.2.2 Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến các giai đoạn sinh trưởng phát
triển của hoa cúc Đài Loan 47
4.2.3. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến động thái tăng trưởng chiều
cao của hoa cúc Đài Loan 50
4.2.4. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến động thái ra lá của hoa
cúc Đài Loan 53
4.2.5. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến năng suất, chất lượng của
hoa cúc Đài Loan 55
4.2.6. Ảnh hưởng của phân bón lá đến tình hình sâu, bệnh hại của hoa
cúc Đài Loan 60
4.2.7 Sơ bộ hạch toán thu chi khi sử dụng phân bón lá cho hoa cúc Đài Loan 62


1



4.3 Thí nghiệm chất kích thích sinh trưởng 63
4.3.1 Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng đến tỷ lệ sống của hoa
cúc Đài Loan 63
4.3.2 Ảnh hưởng của kích thích sinh trưởng đến các giai đoạn sinh
trưởng phát triển của hoa cúc Đài Loan 64
4.3.3 Ảnh hưởng của kích thích sinh trưởng đến động thái tăng trưởng
chiều cao của hoa cúc Đài Loan 65
4.3.4 Ảnh hưởng của các loại chất kích thích sinh trưởng đến động thái
ra lá của hoa cúc Đài Loan 68

4.3.5. Ảnh hưởng của các loại chất kích thích sinh trưởng đến năng suất,
chất lượng của hoa cúc Đài Loan 70
4.3.6. Ảnh hưởng của các loại chất kích thích sinh trưởng đến tình hình
sâu bệnh hại của hoa cúc Đài Loan 74
4.3.7. Sơ bộ hạch toán thu chi khi sử dụng chất kích thích sinh trưởng
cho hoa cúc Đài Loan 77
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78
5.1. Kết luận 78
5.2. Đề nghị 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79



1



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoa là một sản phẩm đặc biệt vừa mang giá trị tinh thần vừa mang giá
trị kinh tế. Đã từ lâu, hoa đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống con người.
Xã hội càng phát triển nhu cầu về hoa càng tăng. Ngày nay hầu hết người dân
trên thế giới đều biết đến hoa và sử dụng hoa. Giá trị sản lượng hoa trên toàn
thế giới tính đến năm 1999 đạt gần 40 tỷ USD. Ở một số nước như: Hà Lan,
Mỹ, Trung Quốc ngành kinh doanh hoa được coi là một trong những ngành
quan trọng góp phần đáng kể cho ngân sách Quốc gia. (Theo Nguyễn Mạnh
Khải, Nguyễn Quang Thạch (1999) [11]).
Việt Nam có truyền thống sản xuất hoa từ lâu đời. Với khí hậu đa dạng,
đất đai màu mỡ, phần đông dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp nên rất

thuận lợi cho nghề trồng hoa phát triển, thực tế những năm gần đây diện tích
và sản lượng hoa ở Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng, đã có nhiều nước đến
đặt hàng mua hoa của Việt Nam. Song do chưa được đầu tư đúng mức nên
năng suất hoa ở Việt Nam còn thấp, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng hoa cao cấp trong nước và xuất khẩu.
Trong các loại hoa của Việt Nam, hoa cúc giữ vai trò quan trọng. Diện
tích hoa cúc luôn chiếm tỷ trọng từ 15- 20 % trong cơ cấu chủng loại hoa.
Hoa cúc có ưu điểm là dễ trồng, dễ nhân giống, hoa bền, màu sắc đa dạng, có
thể trồng nhiều thời vụ trong năm rất thuận tiện cho việc đầu tư chăm sóc, có
thể trồng với quy mô lớn phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. (Theo
Nguyễn Thị Kim Lý 2001 [16]).
Trong những năm qua, trước yêu cầu mở rộng sản xuất và thị hiếu của
người tiêu dùng, Việt Nam đã nhập nội và tuyển chọn được nhiều giống cúc
mới có triển vọng, thay thế dần những giống cúc kém chất lượng trước đây.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về kỹ thuật thâm canh tăng năng suất, các
nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh đến thời gian sinh trưởng,


2



năng suất, chất lượng cây hoa cúc… cũng từng bước được triển khai song kết
quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, công tác nghiên cứu giống và kỹ thuật
canh tác mới chỉ dừng lại ở bước chọn lọc và trồng theo kinh nghiệm thông
thường, chưa hoàn thiện được quy trình thâm canh tiên tiến.
Mặt hàng hoa thương mại mang tính đặc thù cao, trong đó chất lượng hoa
quyết định hiệu quả sản xuất. Trong rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất cây hoa cúc thì các yếu tố như: phương
pháp nhân giống, thời vụ, phân bón là những yếu tố quan trọng và dễ điều

chỉnh theo hướng có lợi nhất cho người trồng hoa. Từ quan điểm như vậy, và
để khắc phục những hạn chế nêu trên, góp phần thực hiện mục tiêu mở rộng
diện tích, nâng cao hiệu quả sản xuất hoa cúc trong những năm tới, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng
cao năng suất, chất lượng của hoa cúc Đài loan (Chrysanthemum
morifolium) tại PhườngTúc Duyên thành phố Thái Nguyên.
2. Mục đích yêu cầu của đề tài
* Mục đích
Kết quả của đề tài nhằm cải thiện năng suất, chất lượng, độ bền hoa, hiệu
quả kinh tế đối với giống cúc Đài loan và góp phần hoàn thiện quy trình kỹ
thuật trồng hoa cúc Đài loan tại Thái Nguyên.
* Yêu cầu
- Xác định ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật: Xác định mật độ trồng,
phân bón lá, chất kích thích sinh trưởng phù hợp để nâng cao năng suất và
chất lượng của giống cúc Đài loan.
- Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cúc Đài
Loan đảm bảo tính khả thi cao, khả năng ứng dụng rộng rãi, hiệu quả thiết thực.






3



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Cơ sở thực tiễn
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn
vị diện tích đang là hướng đi trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Hiện nay
một số diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã chuyển đổi
sang mô hình mới như trồng hoa và một số loại cây trồng khác. Tỉnh đã hình
thành một số vùng sản xuất hoa, cây cảnh mang tính chuyên canh như: Vùng
sản xuất hoa hồng tại xã Hùng Thắng (Đại Từ) quy mô gần 5ha, xã Thành
Công (Phổ Yên) quy mô gần 2 ha, vùng sản xuất đào cảnh tại phường Cam
Giá và Gia Sàng (TP Thái Nguyên) quy mô xấp xỉ 7,5 ha, xã Minh Lập (Đồng
Hỷ) quy mô gần 4ha (Theo Đề án phát triển hoa, cây cảnh Tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2007 - 2005, 2007) [14]. Một số chủng loại hoa, cây cảnh
chính đang được trồng nhiều ở Thái Nguyên là hoa cúc, hoa hồng, cây đào.
Một vài năm gần đây có bổ sung một số chủng loại hoa mới như đồng tiền,
cẩm chướng, layơn Thời vụ trồng chủ yếu là vụ xuân hè (tháng 3 đến tháng
5), và hè thu (tháng 6 đến tháng 8) và vụ đông xuân (tháng 9 đến tháng 10).
Tuy nhiên sản xuất hoa của vùng còn gặp một số những khó khăn. Bên
cạnh những yếu tố xã hội như đất đai phân tán nhỏ lẻ, nguồn lao động dồi dào
nhưng số lao động có hiểu hiết về phát triển sản xuất hoa cây cảnh còn ít, cơ
sở hạ tầng yếu kém thì vấn đề kỹ thuật trong sản xuất hoa cây cảnh cũng là
một trong những khó khăn không nhỏ. Người dân vẫn còn lạc hậu, việc sản
xuất chủ yếu là ngoài tự nhiên, áp dụng theo phương pháp truyền thống và
dựa vào kinh nghiệm là chính ít sử dụng các biện pháp kỹ thuật như sử dụng
chất kích thích sinh trưởng, bón phân qua lá nên năng suất, chất lượng hoa


4




thấp mẫu mã hoa chưa đẹp, chủng loại và hình dáng hoa chưa phong phú nên
không đáp ứng dược nhu cầu thị trường.
Theo kết quả điều tra, khảo sát thị trường tiêu thụ hoa, cây cảnh trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua cho thấy. Thị trường tiêu thụ hoa
cây cảnh của tỉnh chủ yếu là nội tỉnh, tại các khu dân cư tập trung đông như
TP Thái Nguyên, các thị xã, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Số lượng hoa, cây cảnh
sản xuất trong tỉnh mới chỉ đáp ứng được 62,3% nhu cầu thị trường, còn lại là
hoa được vận chuyển từ nới khác đến. Chủng loại hoa vận chuyển từ thị
trường khác đến Thái Nguyên chủ yếu là các loại hoa mà người dân địa bàn
tỉnh chưa sản xuất được hoặc sản xuất với số lượng còn hạn chế như: Hoa
lily, hoa hồng, hoa layơn
Theo niên giám thống kê của tỉnh Thái Nguyên năm 2006, dân số thành
thị là 260.000 người, nông thôn là 849.000 người. Như vậy khi đời sống ngày
càng được nâng cao thì nhu cầu thẩm mỹ ngày càng lớn, vì vậy với sự phát
triển về kinh tế của tỉnh, nhu cầu hoa ở đây trong những năm tới sẽ ngày một
tăng cao. Đây sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển, mở
rộng sản xuất hoa, cây cảnh trên địa bàn tỉnh.[15]
2.1.2. Cơ sở lý luận
2.1.2.1. Các nghiên cứu về dinh dưỡng qua lá
Việc sử dụng phân bón thông thường cây hấp thụ nhờ lông hút của bộ
rễ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đất, nước, giống, thời tiết, côn trùng, vi sinh
vật… Mặt khác chi phí phân bón trong nông nghiệp chiếm đến 30 - 50%.
Trong lúc đó, mục đích của người sản xuất không chỉ nhằm đạt năng suất tối
đa mà còn tìm lợi nhuận cao nhất. Cho nên con người phải tìm đến những
biện pháp bón phân đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm nhất, hiệu suất cao nhất.
Phân bón qua lá là biện pháp rất quan trọng trong những biện pháp đó.


5




Theo đề tài nghiên cứu khoa hoc về Nghiên cứu sản xuất phân bón của
nhóm nghiên cứu Nguyễn Huy Phiêu, Đặng Ninh, Lương Quỳnh Chúc, Phạm
Đỗ Thanh Thuỳ, Ngô Văn Nhượng, Quách Thị Phiến, Hoàng Anh Tuấn, Bùi
Đình Dinh, Nguyễn Văn Bộ

tại Viện Thổ nhưỡng nông hoá thì cây cối không
những hấp thụ chất dinh dưỡng qua rễ mà còn hấp thụ qua lá, trong khi diện
tích lá của cây lại gấp hành chục lần diện tích mà rễ cây ăn tới.
Dùng phân bón lá có nhiều ưu điểm:
- Chất dinh dưỡng được cung cấp cho cây nhanh hơn bón gốc
- Hiệu suất sử dụng dinh dưỡng cao hơn
- Chi phí thấp hơn
- Ít ảnh hưởng đến môi trường và đất trồng
Theo số liệu đã được công bố, hiệu suất sử dụng chất dinh dưỡng qua lá
đạt tới 95 % . Ở Philippin dùng phân bón lá cho tăng năng suất lúa 1,5 lần so
với dùng phân bón gốc qua rễ và gấp 3,3 lần khi không bón phân.
Khi dùng phân bón lá cây lúa khoẻ hơn, cứng cáp hơn, chịu được sâu
bệnh, không làm chua đất như khi bón nhiều và liên tục phân bón hoá học vào
đất. Hạt thóc cũng nặng thêm và chắc hơn, tỷ lệ gạo gãy không đáng kể, làm
cho gạo của Philippin phù hợp với thị trường quốc tế.
Dùng phân bón lá, lượng bón chỉ tốn bằng 1/4 so với phân bón qua đất.
Ở nước ta, từ những năn 80, Viện Hoá học Công nghiệp đã tiến hành
tách chiết axit humic từ than bùn để điều chế một số loại Humat dùng làm
chất kích thích sinh trưởng phun cho cây trồng. Kết quả là đã được thị trường
chấp nhận. Tuy nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật ngày một cao, khách hàng
yêu cầu bổ sung thêm các chất dinh đường đa vi lượng, chất lượng của sản
phẩm đưa ra thị trường phải ngày một nâng cao. Nhu cầu đó hoàn toàn phù
hợp với nhũng kết quả nghiên cứu của nhiều nước tiên tiến.



6



Người ta đã xác định thời kỳ cây lớn cần nhiều các nguyên tố Ca, K và
N. Khi tạo hoa, trái, củ lại cần nhiều nguyên tố P, N, nguyên tố trung lượng
và vi lượng.
Những kết quả nghiên cứu tác dụng của humat đã cho thấy hiệu quả về
cải tạo tính chất vật lý của đất, làm thay đổi tính chất hoá học của đất và hiệu
quả sinh học-kích thích sinh trưởng cây trồng.
2.1.2.2. Một số ứng dụng về dinh dưỡng qua lá
Theo nghiên cứu của Nguyễn Anh Kết - GĐ công ty Thanh Hà và cộng
sự đã đưa ra kết luận: Sử dụng phân bón lá hữu cơ sinh học KH giảm được
chi phí cho nhà nông, không độc hại cho người sử dụng và môi trường. Chẳng
hạn, nếu 01 ha bị ngập mặn từ 0,3 - 0,6%, diện tích thu hoạch không đáng kể
hoặc mất trắng thì khi đưa sản phẩm phân bón lá hữu cơ sinh học KH vào
chăm bón khi thu hoạch lợi nhuận tăng bình quân 4050000 - 6750000
đồng/ha. Nếu áp dụng với diện tích lớn hàng ngàn ha sẽ đưa lại một con số
không hề nhỏ. Có thể thấy rằng mặc dù chi phí cho sản xuất ít nhưng đem lại
hiệu quả kinh tế cao đồng thời cây trồng sẽ kịp thời vụ.
Ở những thời điểm thời tiết không thuận, phân bón lá được coi là chất
điều hoà sinh trưởng do có chứa nhiều các chất tăng trưởng, vitamin và một
số vi lượng rất cần thiết cho quá trình sinh trưởng của cây. Phân bón hữu cơ
lỏng Ước mơ nhà nông AGRODREAM được sản xuất từ phế thải tài nguyên
biển như cá, rong biển, tôm, cua, da động vật, phế thải giàu prôtein từ quá
trình sản xuất thực phẩm (thịt, nấm, bã bia, bã đậu tương, cám) theo phương
pháp thuỷ phân bằng enzyme ở nhiệt độ thấp nên các axit amin và vitamin
còn lại trong phân nhiều hơn. Phun phân bón lá thay cho phân bón thúc nhưng

không thay thế phân bón lót và phân bón qua đất. Rễ cây ngoài việc hấp thụ
chất dinh dưỡng từ đất cung cấp cho cây trồng, nó còn có vai trò đặc biệt quan
trong sự hình thành các hóc môn sinh trưởng, quyết định tới sự phát triển của
cây trồng.


7



Theo tác giả Nguyễn Kim Lý và Nguyễn Xuân Linh[26] đã sử dụng kích
phát tố của Công ty Thiên Nông và đi đến kết luận: Việc sử dụng phân bón lá
này với liều lượng 1gr thuốc pha 1lít nước sạch và nhúng phần gốc của cành
xuống 3 phút rồi đem phần dung dịch thuốc còn lại pha thêm 5gr phân bón lá
phun lên cành giâm cứ 5 ngày phun 1 lần, có thể đảm bảo 80 -90% số cây ra
rễ với thời gian rút ngắn. Phương pháp này được áp dụng hiệu quả cao hơn
cho việc nhân giống vào mùa hè.
Sau nhiều năm nghiên cứu, Viện Thổ nhưỡng - Nông hóa (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn) vừa chính thức công bố phân bón qua lá FID,
không chỉ có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng, mà còn có thể bổ sung iốt
cho người thông qua lượng iốt hòa tan trong cây. Theo các nhà nghiên cứu,
chế phẩm phân bón lá FID sẽ giúp con người thông qua cây trồng hấp thụ iốt
nhiều nhất dưới dạng hòa tan. Thêm nữa, việc sử dụng phân bón lá FID cũng
rất đơn giản. Người dùng chỉ cần pha 30-40ml dung dịch FID cho một bình 8-
18 lít nước, liều lượng phun trung bình 2 bình/sào Bắc Bộ.
2.1.2.3. Các nghiên cứu về chất diều hoà sinh trưởng
a. Sự cân bằng hormon trong cây: Ở thực vật bất cứ mọi hoạt động sinh
trưởng và phát triển nào, đặc biệt là các quá trình hình thành cơ quan (rễ,
thân, lá, hoa, quả ) cũng như sự chuyển qua các giai đoạn sinh trưởng phát
triển của cây đều được điều chỉnh đồng thời bởi nhiều loại hoocmon trong

chúng. Chính vì vậy mà sự cân bằng giữa các hormon có một ý nghĩa quyết
định. Nhìn chung có thể phân thành hai loại cân bằng là sự cân bằng chung và
sự cân bằng riêng giữa các hoocmon.
Sự cân bằng chung: Sự cân bằng chung được thiết lập dựa trên cơ sở
hai nhóm phytohoocmon có hoạt tính sinh lý trái ngược nhau: Nhóm chất kích
thích sinh trưởng và nhóm chất ức chế sinh trưởng. Sự cân bằng này được xác
định trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Trong quá trình phát


8



triển cá thể từ khi cây sinh ra cho đến khi cây chết thì sự cân bằng trong
chúng diễn ra theo quy luật là ảnh hưởng các kích thích giảm dần và ảnh
hưởng các ức chế tăng dần.
Sự cân bằng riêng: Trong cây có vô số các quá trình phát sinh hình thái
và hình thành cơ quan khác nhau như rễ, thân, lá, hoa, quả, sự nảy mầm, sự
chín đều được điều chỉnh bởi sự cân bằng của hai hay một vài hoocmon
đặc hiệu. Tái sinh rễ hoặc chồi được điều chỉnh bằng tỷ lệ giữa Auxin và
Xytokinin trong mô. Nếu tỷ lệ này nghiêng về Auxin thì rễ được hình thành
nhanh hơn và ngược lại. Hiện tượng ưu thế ngọn cũng được điều chỉnh
bằng tỷ lệ Auxin/Xytokinin. Auxin làm tăng ưu thế ngọn còn Xytokinin lại
làm giảm ưu thế ngọn
Tại bất cứ một thời điểm nào trong các quá trình đó cũng đều xác định
được một sự cân bằng đặc hiệu giữa các hoocmon đó. Con người có thể điều
chỉnh các quan hệ cân bằng đó theo hướng có lợi cho con người (Hoàng Minh
Tấn, Nguyễn Quang Thạch, 1994) [17].
b.Vai trò sinh lý của các chất điều tiết sinh trưởng
Vai trò sinh lý của Auxin:Auxin là một chất kích thích sinh trưởng,

kích thích sự giãn nở của tế bào theo chiều ngang, điều chỉnh tính hướng của
cây: Với lá - hướng quang, với rễ - hướng địa. Auxin điều chỉnh hiện tượng
ưu thế ngọn, ngoài ra còn kích thích sự hình thành rễ đặc biệt là rễ bất định
trên cành chiết, giâm và trên mô nuôi cấy, đồng thời kìm hãm sự rụng lá, hoa,
quả (Hoàng Minh Tấn- Nguyễn Quang Thạch, 1993)[21].
Vai trò sinh lý của Gibberellin (GA
3
): Gibberellin có tác dụng phá bỏ
sự ngủ nghỉ của hạt, củ, xúc tiến nảy mầm. Nó kích thích sự sinh trưởng kéo
dài thân đối với cây thân gỗ và sự vươn dài của lóng đối với cây hòa thảo,
hiệu quả này có được là do GA
3
kích thích lên sự giãn của tế bào theo chiều
dọc. GA
3
ảnh hưởng rõ rệt đến sự ra hoa của một số thực vật, đến các quá


9



trình trao đổi chất, các quá trình sinh lý xảy ra ở trong cây và có tác dụng rút
ngắn thời gian sinh trưởng dinh dưỡng của cây (Hoàng Minh Tấn - Nguyễn
Quang Thạch, 1993)[21].
c. Vai trò của Xytokinin: Xytokinin kích thích sự phân chia tế bào mạnh
mẽ, sự nảy mầm của hạt, của chồi ngủ, ảnh hưởng rõ rệt lên sự hình thành và
phân hóa cơ quan, đặc biệt là sự phân hóa chồi. Xytokinin tương tác với
Auxin điều chỉnh hiện tượng ưu thế ngọn của cây. Nó kìm hãm sự hóa già của
các cơ quan và toàn cây, ảnh hưởng lên quá trình trao đổi chất, đặc biệt là quá

trình tổng hợp axit nucleic, protein, diệp lục do đó mà ảnh hưởng đến hoạt
động sinh lý của cây (Hoàng Minh Tấn - Nguyễn Quang Thạch, 1993)[21].
d. Ưu điểm của việc sử dụng chất điều tiết sinh trưởng trong sản xuất hoa.
Chất điều tiết sinh trưởng thực vật ngày càng được ứng dụng rộng rãi
trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong nghề trồng hoa nói riêng
Với nghề trồng hoa sử dụng chất điều tiết sinh trưởng có nhiều
thuận lợi, đó là:
- Hoa không phải là thực phẩm cho người và vật nuôi, do đó các ảnh
hưởng độc hại (nếu có) của chất điều tiết sinh trưởng không ảnh hưởng
đến con người và vật nuôi.
- Ở nồng độ rất thấp các chất điều tiết sinh trưởng đã phát huy tác dụng
đối với cây trồng nói chung và với hoa nói riêng nên dư lượng của nó trong
đất, nước là không đáng kể.
- Tác dụng của chất điều tiết sinh trưởng đối với hoa nhanh, rõ rệt.
- Các chất điều tiết sinh trưởng có thể làm thay đổi một số đặc điểm thực
vật học của cây hoa: thay đổi chiều cao cây, màu sắc lá, thời gian sinh trưởng, sự
ra hoa, chất lượng và tuổi thọ của hoa. Những chất có tác dụng kích thích sự sinh
trưởng của cây gọi là chất kích thích sinh trưởng như: Auxin, Gibberellin,
Xytokinin Những chất có tác dụng kìm hãm các quá trình sinh trưởng của cây
gọi là chất kìm hãm sinh trưởng như: Axit abxixic, Etylen


10



e. Nguyên tắc sử dụng các chất điều tiết sinh trưởng
- Việc sử dụng các chất điều tiết sinh trưởng thực vật trong nghề trồng
hoa cũng tuân theo các nguyên tắc chung như khi sử dụng chúng với các cây
trồng khác trong nông nghiệp là:

+ Nồng độ của các chất điều tiết sinh trưởng: Thông thường, ở nhiệt độ
thấp chúng có tác dụng kích thích như xúc tiến nảy mầm, tăng chiều cao, kích
thích nảy mầm, tăng khối lượng ở nồng độ cao (hàng ngàn ppm) chúng ức
chế sinh trưởng ngọn hay toàn cây, gây rụng lá, xúc tiến ra hoa
+ Chất điều tiết sinh trưởng thực vật không phải là chất dinh dưỡng nên
không thể thay thế cho phân bón. Vì vậy muốn đạt hiệu quả cao khi sử dụng
các chất điều tiết sinh trưởng phải phối hợp chúng với phân bón, đặc biệt
trong các trường hợp muốn làm tăng chiều cao và sinh khối của hoa.
+ Mặc dù việc sử dụng chất điều tiết sinh trưởng, thực vật với nghề
trồng hoa có nhiều thuận lợi nhưng ảnh hưởng tiêu cực của chúng đối với đất
đai, nước và sức khoẻ con người không phải là không có, nhất là khi sử dụng
nhiều và thường xuyên các chất điều tiết sinh trưởng. Do đó phải sử dụng
chúng đúng nồng độ, thời điểm và phương pháp (Nguyễn Xuân Linh,
2002)[9].
2.2. Giới thiệu chung về cây hoa cúc
Theo Đặng Văn Đông, Đinh Thế Lộc (2002)[18], Cây hoa cúc có tên
khoa học là (Chrysanthemum sp.) có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản và
một số nước Châu Âu. Hoa cúc đã được trồng ở Trung Quốc cách đây 500
năm trước công nguyên. Ngày nay, cúc đã được trồng hầu khắp các nước trên
thế giới như Hà Lan, ý, Đức, Pháp, Nhật Bản. ở Việt Nam, hoa cúc đã được
trồng từ lâu, người Việt Nam coi hoa cúc là biểu tượng của sự thanh cao, là
một trong 4 loài thảo mộc được xếp vào hàng tứ quý “Tùng, cúc, trúc, mai”
hoặc “Mai, lan, trúc, cúc”.


11



Theo Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1978)[4] trong hệ thống phân

loại thực vật hoa cúc được xếp vào lớp hai lá mầm (Dicotyledonec), phân lớp
cúc (asterydae), bộ cúc (asterales), họ cúc (asteraceae), phân họ giống hoa
cúc (asteroideae), chi Chrysanthemum.[3]. Theo điều tra hiện nay thì chi
Chrysanthemum ở Việt Nam có 75 giống 200 loài và trên thế giới có tới
20.000 loài và trên 1.000 giống. Trong đó có 4 loài thông dụng nhất, được sử
dụng nhiều nhất để chơi hoa, làm cảnh đó là: C. morifolium; C. maximum; C.
coronarium; C.indicum.[10]
2.3. Nguồn gốc, lịch sử phát triển cây hoa cúc
Theo tài liệu cổ Trung Quốc thì hoa cúc có cách đây 3.000 năm. Trong
văn thơ Hán cổ hoa cúc có 30 - 40 tên gọi khác nhau như: Nữ hoa, Cam hoa,
Diên hoa Hoa Cúc có nguồn gốc từ một số loài dã sinh thuộc loại cúc
(Dendran thema), trải qua quá trình trồng trọt lai tạo và chọn lọc từ những
biến dị để có được những giống cúc ngày nay. Tuy không có những ghi chép
về lịch sử trồng trọt bắt đầu từ thời nào nhưng trong Sở từ (Trung Quốc) có
nói đến “Thu Cúc”. Có một bộ sách nổi tiếng về hoa cúc sớm nhất là vào năm
1104 đời Bắc Tống do Lưu Mông viết gọi là cúc Phổ. Sau đời Tống, sách tài
liệu về hoa cúc không dưới 30, 40 quyển, nội dung đề cập đến những vấn đề
giống, phân loại trồng trọt, sâu bệnh đã đóng góp rất lớn trong việc phát
triển hoa cúc ở Trung Quốc nói riêng và của thế giới nói chung. Đặng Văn
Đông (2005)[5]
Tuy nhiên phải từ những năm 1930 việc trồng hoa cúc ở Trung Quốc
mới bắt đầu được coi trọng, bảo hộ và đề cao. Lần đầu tiên vào năm 1982
Trung Quốc tổ chức triển lãm hoa Cúc ở Thượng Hải với trên 1.000 giống,
đánh dấu bước chuyển quan trọng trong sự nghiệp trồng hoa cúc. Các nhà làm
vườn thế giới đã thảo luận rất sôi nổi về việc phân loại hoa cúc và tương đối
thống nhất với cách phân loại của Trung Quốc. Năm 1993 giáo sư Lý Hồng
Triết trong tác phẩm “Hoa Cúc Trung Quốc” đã thu thập và mô tả trên 6.000
mẫu giống hoa cúc sau đó chỉnh lý thành tập sách trên 3.000 giống, ông đã



12



chụp ảnh 3.302 mẫu giống và miêu tả tính trạng từng giống. ở Thượng Hải
(1989), Khai Phong (1992), Vô Tích (1995) và Thành Đô ( 1998) (Trung
Quốc) đều đã có các cuộc triển lãm hoa cúc và có hàng vạn người đến dự. Các
cuộc triển lãm đã nâng cao trình độ nghiên cứu phát triển và kỹ thuật trồng
trọt của nghề trồng cúc.
Theo Đặng Văn Đông, Đinh Thế Lộc (2003)[7], Khi hoa cúc được di
thực từ Trung Quốc sang Nhật Bản, đã được đánh giá rất cao ở nước này và
được mệnh danh là “Hoàng thất quốc hoa”. Năm 1939 Edsmit người Nhật đã
bắt đầu lai tạo thành công nhiều giống Cúc và ông đã đặt tên cho hơn 100
giống của các thế hệ sau đó; một số giống này vẫn còn duy trì và được trồng
đến ngày nay.
Theo Amagasa, Kameya (1989)[27], lịch sử phát triển nghề trồng cúc ở
Châu Âu muộn hơn Trung Quốc. Năm 1843 một nhà thực vật học R. Fortune
(người Anh) đến Trung Quốc khảo sát và mang về giống hoa cúc Chusan
Daisy, giống này chính là giống bố mẹ của giống hoa cúc hình cầu và hình tán
xạ ngày nay. Năm 1889 nước Pháp nhập từ Trung Quốc 3 giống hoa cúc đại
đoá về trồng và đến năm 1827 Bernet (người Pháp) đã thành công trong việc
lai tạo ra một số giống cúc mới, từ đó dẫn đến một sự cải tiến rất mạnh mẽ về
giống cúc ở Châu Âu.
Từ đầu thế kỷ XVIII hoa cúc đã được trồng ở Mỹ, nhưng phải đến
1860 hoa cúc mới trở thành hàng hoá và được trồng trong nhà lưới. Hiện nay
ở Mỹ, hoa cúc là loại hoa rất quan trọng, chủ yếu là để cắt cành, một phần
trồng trong chậu.
2.4. Tóm tắt một số đặc điểm thực vật học chính của cây hoa cúc
2.4.1. Rễ
Theo Nguyễn Xuân Linh (2000) rễ cây hoa cúc thuộc loại rễ chùm, chỉ

khi cây thực sinh còn nhỏ mới có rễ chính thức rõ ràng. Đầu chóp rễ có sức
phân nhánh mạnh, trong điều kiện đất thích hợp thì rất nhanh hình thành bộ
rễ có nhiều nhánh, điều đó có lợi cho sự hút nước và dinh dưỡng. Rễ của các


13



cây nhân từ phương pháp vô tính đều phát sinh từ thân và đều là rễ bất định.
Thân cúc bất kể ở đốt hay giữa lóng đều rất dễ hình thành rễ bất định, vì vậy
cây hoa cúc là một loại cây rất dễ nhân giống từ thể dinh dưỡng.[12]
2.4.2. Thân
Theo Nguyễn Xuân Linh (2002) Cúc là cây thân thảo nhỏ, có nhiều đốt
giòn rễ gẫy, càng lớn càng cứng, cây dạng bò hay đứng. Kích thước thân cao
hay thấp, to hay nhỏ, cứng hay mềm phụ thuộc vào từng giống và thời vụ
trồng. Những giống nhập nội thường to, mập, thẳng và giòn. Những giống cúc
dại hay cổ truyền Việt Nam thì ngược lại thân nhỏ, mảnh và cong. Thân có ống
tiết nhựa mủ trắng, mạch có bản ngăn đơn. Phụ thuộc vào từng giống, thông
thường chiều cao cây đạt từ 30 - 80cm, thậm chí có khi đến 1,5 - 2m. [9]
2.4.3. Lá
Lá cúc xẻ thuỳ có răng cưa, lá đơn mọc so le nhau, mặt dưới bao phủ
một lớp lông tơ, mặt trên nhẵn, gân hình mạng lưới. Từ mỗi nách lá thường
phát sinh ra một mầm nhánh. Phiến lá to nhỏ, dày mỏng, xanh đậm nhạt hay
xanh vàng còn tuỳ theo giống. Bởi vậy, trong sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế
cao thường tỉa bỏ các cành nhánh phụ đối giống cúc đơn và để cây sinh
trưởng phát triển tự nhiên đối với các giống cúc chùm. Từ những đặc điểm về
thân lá cho thấy, những giống cúc có năng suất cao thường có bộ lá gọn, thân
cứng mập và thẳng, khả năng chống đổ tốt.
2.4.4. Hoa, quả

Theo Đặng Văn Đông, (2005)[5], miêu tả hoa cúc là hoa lưỡng tính hoặc
đơn tính với nhiều màu sắc khác nhau, đường kính hoa từ 1,5 -12cm, có thể là
đơn hay kép và thường mọc nhiều hoa trên 1 cành, phát sinh từ các nách lá.
Hoa cúc chính là gồm nhiều hoa nhỏ hợp lại trên một cuống hoa, hình thành
hoa tự đầu trạng mà mỗi cánh thực chất là một bông hoa. Tràng hoa dính vào
bầu như hình cái ống, trên ống đó phát sinh cánh hoa. Những cánh nằm phía


14



ngoài thường có màu sắc đậm hơn và xếp thành nhiều tầng, việc xếp chặt hay
lỏng còn tuỳ giống. Cánh có nhiều hình dạng khác nhau, cong hoặc thẳng, có
loại cánh ngắn đều, có loại dài, xoè ra ngoài hay cuốn vào trong. Hoa cúc có
từ 4 - 5 nhị đực dính vào nhau, bao xung quanh vòi nhuỵ. Vòi nhuỵ mảnh,
hình chẻ đôi. Khi phấn chín, bao phấn nở tung phấn ra ngoài, nhưng lúc này
vòi nhuỵ còn non chưa có khả năng tiếp nhận hạt phấn. Bởi vậy, hoa cúc tuy
lưỡng tính nhưng thường biệt giao, nghĩa là không thể thụ phấn trên cùng hoa,
nếu muốn lấy hạt phấn phải thụ phấn nhân tạo. Nên trong sản xuất, việc cung
cấp cây con chủ yếu thực hiện bằng phương pháp nhân giống vô tính.
Quả thuộc dạng quả bế, chứa một hạt, quả có chùm lông do đài tồn tại để
phát tán hạt, có phôi phẳng mà không có nội nhũ (Đặng Văn Đông, Đinh Thế
Lộc, (2003)[7].
2.5. Yêu cầu nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ và dinh dƣỡng cho cây hoa cúc
2.5.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ: là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự sinh
trưởng, phát triển, nở hoa và chất lượng hoa của cúc, cây hoa cúc có nguồn
gốc ôn đới nên ưa khí hậu mát mẻ, nhiệt độ dao động từ 15 - 20
o

C (thích hợp
cho vụ Thu Đông) bên cạnh đó có một số giống chịu nhiệt độ cao hơn (30 -
35
o
C). Nếu các giống ưa lạnh đem trồng vào thời vụ nóng, cây sẽ phát triển
kém, sinh trưởng yếu, màu sắc hoa nhợt nhạt dẫn đến chất lượng hoa xấu.
Ngược lại cúc chịu nhiệt, trồng vào thời vụ lạnh khi nhiệt độ thấp hơn 15
o
C
cây hầu như ngừng sinh trưởng hoặc sinh trưởng chậm, nhiệt độ thích hợp
cho cúc ra rễ là 16
o
C nên trong điều kiện miền Bắc Việt Nam việc giâm cành
cúc trong mùa hè nóng ẩm là hết sức khó khăn nếu không có biện pháp kỹ
thuật tác động phù hợp như tưới tiêu, bảo vệ thực vật và điều chỉnh hợp lý
một số yếu tố: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm bằng phương pháp nhân tạo (Đặng
Văn Đông, Đinh Thế Lộc, (2003)[7].

×