Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế International Monetary Fund Fonds Monétaire International

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.9 KB, 18 trang )

Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
( International Monetary Fund - Fonds Monétaire International )
Trong những tin tức hằng ngày, thỉnh thoảng các phương tiện thông tin có
nói đến Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế qua những cuộc hội nghị thường niên của cơ
quan này hay khi cơ quan này quyết định giúp các nước gặp khó khăn
trầm trọng về mặt tài chánh hay kinh tế, như cuộc khủng hoảng kinh tế
của các nước Đông Á Châu năm 1997 hay của Nga năm 1998. Danh từ viết
tắt IMF của Anh ngữ hay FMI của Pháp ngữ thường được xử dụng. IMF là
cơ quan quốc tế làm việc với các nước hội viên ở cấp bậc chính phủ lãnh
đạo cho nên người dân ít biết về nó. Nhiều ngườøi cho rằng đó là một loại
ngân hàng quốc tế rất lớn có thể cho các nước vay mượn như bất cứ một
ngân hàng nào, hoặc IMF như một cơ quan kiểm soát quốc tế có khả năng
can thiệp vào nội bộ của các nước hội viên, hoặc vai trò không còn thích
hợp của IMF trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay. Những chỉ trích hoặc
phán đoán này không phản ảnh trung thực vai trò và hoạt động của cơ
quan quốc tế này. Bài viết không nhằm gì khác hơn là giới thiệu những nét
tổng quát về mục đích, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan IMF.
Những từ ngữ chuyên môn bằng Anh và Pháp ngữ dùng trong bài này là
những từ ngữ quốc tế phổ quát chúng ta cần nên biết.
Bối cảnh lịch sử và mục đích của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Những mậu dịch thương mại và tài chánh thế giới phát triển mạnh mẽ là
nhờ có một hệ thống tiền tệ quốc tế bảo đảm sự cân đối giữa giá trị của
các đồng tiền quốc gia. Tính cách có thể trao đổi (convertibility -
convertibilité) của mỗi đồng tiền so với các đồng tiền khác là yếu tố nền
tảng của hệ thống tiền tệ quốc tế. Một đồng tiền quốc gia mà không có
yếu tố này sẽ chỉ có giá trị nội địa. Lịch sử kinh tế thế giới cho thấy một
quốc gia khó có thể phát triển nếu chỉ muốn đi theo chiều hướng tự túc tự
cường, đóng chặt cửa quan. Nhưng nếu muốn tham gia vào những trao
đổi kinh tế thế giới và để cho người dân có quyền tự do di chuyển ra nước
ngoài với một đồng tiền không có giá trị ngoại địa là đường lối chỉ đưa đến
những bế tắc kinh tế và là nguồn gốc gây ra những thị trường chợ đen, đắt


đỏ và phức tạp cho những doanh nghiệp hoặc người dân cần ngoại tệ
trong tương quan với các nước khác.
Điều gì có thể bảo đảm cho giá trị của đồng tiền quốc gia ? Ngay một đồng
tiền thường được xử dụng như tiền dollar Mỹ, 100 dollars chẳng hạn, cũng
chỉ là một miếng giấy in mặc dù với những kỹ thuật khó bắt chước để
tránh giả tạo !
Cho tới năm 1914, những thanh toán trong trao đổi thương mại và tài
chánh giữa các cường quốc kinh tế dựa trên Hệ Thống Tiền Tệ Vàng (Gold
standard - Etalon or) mà tiêu biểu nhất là hệ thống tiền tệ của Anh quốc.
Ngân Hàng Quốc Gia Anh (England Bank - Banque d Angleterre) là ngân �
hàng trung ương đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ 17 với mục đích
nhằm trao đổi những kim khí quí như vàng hay bạc của dân lấy tiền đúc
kim khí và tiền giấy. Tiền giấy cầm trong tay có thể đổi ra vàng hay bạc
như họ muốn. Tính cách có thể trao đổi này làm tiền giấy có giá trị và
được dân Anh xử dụng trong những trao đổi thương mại, bởi vì nó tiện lợi
hơn là dùng vàng hay bạc một cách trực tiếp. Mặt khác, sự tin tưởng vào
tiền giấy của người dân với thời gian cho thấy ít ai cần đổi tiền giấy ra
vàng. Ngân Hàng Quốc Gia Anh dựa trên những thống kê để xác định một
phần trăm nào đó sự kiện có thể có người muốn đổi tiền giấy ra vàng, nhất
là từ những người ngoại quốc qua những trao đổi thương mại. Từ đó Ngân
Hàng Quốc Gia Anh có thể in thêm tiền giấy ở một số lượng vượt trên khối
vàng và bạc dự trữ mà không làm hệ thống tiền tệ bị suy yếu mất tin
tưởng. Các cường quốc khác cũng có những hệ thống tiền tệ tương tự.
Nhưng những trao đổi thương mại quốc tế thời đó dựa trên tiền Pound
Anh, bởi vì đó là hệ thống tiền tệ đáng tin tưởng nhất và vì Anh quốc cho
tới đầu thế kỷ 20 là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất (1918), cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm
lung chuyển Hệ Thống Tiền Tệ Vàng. Sản xuất kỹ nghệ và nông nghiệp
giảm sút khắp nơi trên thế giới. Nhiều ngân hàng bị phá sản làm những
người gửi tiền tiết kiệm cũng mất hết. Tiền giấy không còn được tin tưởng

thúc đẩy người dân đổi tiền giấy ra vàng bạc. Các ngân hàng trung ương
bắt buộc phải huỷ bỏ tính cách có thể trao đổi. Ngay Ngân Hàng Quốc Gia
Anh, nổi tiếng đáng tin tưởng nhất, cũng không thể làm gì khác hơn là
phải huỷ bỏ tương quan này. Từ đó mỗi nước tự quyết định giá trị tiền
nước mình theo chiều hướng mất giá để có thể cạnh tranh với các nước
khác trên thị trường quốc tế. Sự khủng hoảng tiền tệ càng làm khủng
hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Các nước kỹ nghệ mạnh như Mỹ, Anh,
Pháp. đã tìm nhiều cách lập ra một hệ thống tiền tệ mới ít nhiều dựa trên
yếu tố chính là vàng. Cuối cùng vào tháng bẩy năm 1944, sau nhiều
thương lượng giữa các nước đồng minh, 29 nước họp tại Bretton Wood,
tiểu bang New Hampshire bên Mỹ, đã đồng ý thiết lập một hệ thống tiền tệ
mới và thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhằm mục đích kiểm soát và tạo
điều kiện để hệ thống tiền tệ này có thể hoạt động.
Hệ thống này gọi là Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar (Gold exchange
standard - Etalon or de change) mà trong đó dollar Mỹ giữ vai trò trung
tâm. Tiền dollar Mỹ được định giá bằng một số lượng vàng (một ounce
vàng = 35 USD) và mỗi đồng tiền quốc gia được định giá nhất định so với
tiền dollar Mỹ; giá trị nhất định giữa các tiền khác với nhau được suy ra từ
giá trị so với tiền dollar Mỹ. Thí dụ 1 USD = 5 FRF và 1 USD = 2.5 DEM, từ
đó suy ra 1 DEM = 2 FRF. Trong hệ thống này chỉ có dollar Mỹ có tính cách
có thể trao đổi trực tiếp với vàng, những tiền khác muốn đổi ra vàng phải
đổi ra dollar Mỹ trước.
Làm sao có thể quản trị một hệ thống phức tạp như vậy ? IMF ra đời để
đáp ứng nhu cầu này. Theo quy chế được phê chuẩn, IMF được thành lập
để khuyến khích sự cộng tác tiền tệ thế giới giữa các nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự bành trướng và tăng triển thương mại thế giới, đề cao sự
vững chắc của hệ thống tiền tệ và sự thanh toán dễ dàng giữa các đồng
tiền của các nước hội viên. IMF giúp đỡ về mặt tài chánh các nước hội viên
gặp khó khăn về cán cân chi tiêu với ngoại địa (balance of payment -
balance des paiements) để tìm lại được mức thăng bằng trong những chi

thu với các nước khác. IMF là một cơ quan quốc tế tổ chức dưới hình thức
một tổ chức tổ hợp (cooperative system - système coopérative) mà mỗi
nước tham dự là một hội viên. Trách nhiệm của cơ quan có tính chất thuần
tuý tài chánh nhằm giúp các nước hội viên tôn trọng hiệp định ký kết. Nó
không có quyền can thiệp vào nội bộ chính trị của các nước hội viên. IMF
có thể giúp một nước hội viên tìm lại được mức thăng bằng của cán cân
thương mại ngoại địa, nhưng nó không thể bắt một nước hội viên phải xử
dụng quỹ ngân sách quốc gia trong lãnh vực giáo dục, xã hội hoặc hạ tầng
cơ sở kinh tế thay vì mua vũ khí và các thứ máy móc chiến tranh. Mục đích
chính của IMF là bảo đảm làm sao cho Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar có
thể hoạt động không trở ngại. Để hệ thống có thể được tin tưởng, giá trị
mỗi đồng tiền không được thay đổi quá 1% lên xuống so với dollar Mỹ.
Nếu giá trị chính thức của một đồng tiền như đã được qui định với IMF
không còn phản ảnh thực sự nguồn sản xuất quốc gia, một nước hội viên
có thể giảm tỷ giá hối đoái nếu IMF đồng ý ; một cách gián tiếp, điều này
có nghĩa là các nước hội viên khác cùng chấp nhận sự xuống giá này. Kinh
nghiệm cho thấy là sự giảm giá chính thức của một đồng tiền thường đưa
đến những xáo trộn kinh tế nội địa rất nghiêm trọng.
Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar, dưới sự kiểm soát và điều hành của IMF, đã
hoạt động trong những thập niên sau Thế Chiến Thứ Hai, cho tới năm
1971 khi chính phủ Mỹ quyết định huỷ bỏ tính cách có thể trao đổi của tiền
dollar ra vàng. Yếu tố nền tảng của hệ thống biến mất, hệ thống không
còn lý do để tồn tại. Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar thực ra có một khuyết
điểm lớn là vai trò trung tâm của tiền dollar Mỹ so với các tiền khác. Đó là
một hệ thống không quân bình (asymetric system - système asymétrique)
do tầm quan trọng quá đáng của tiền dollar Mỹ. Hệ thống tiền tệ này lúc
đầu hoạt động không có trở ngại là nhờ sức mạnh kinh tế và chính trị của
Mỹ ngay sau Thế Chiến Thứ Hai. Lúc đó các nước tây phương và Nhật bị
tàn phá vì chiến tranh và cần nhiều viện trợ Mỹ để xây dựng lại đất nước.
Những nguồn tài chánh của các cơ quan công và tư Mỹ được đầu tư vào

các nền kinh tế Tây Âu và Nhật và trở lại Mỹ qua việc mua những sản
phẩm kỹ nghệ, nông nghiệp sản xuất tại Mỹ và những trả nợ tiền muợn.
Điều này làm cán cân chi tiêu của Mỹ không bị mất thăng bằng, do đó tiền
dollar được các nước khác tin tưởng và Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar có
thể hoạt động. Nhưng càng ngày các nước khác, nhất là Tây Âu và Nhật
càng phát triển mạnh về kinh tế, thương mại đối ngoại càng ngày càng gia
tăng và do đó cán cân chi tiêu có nhiều thặng dư. Điều này biểu lộ về mặt
tài chánh bằng nguồn dự trữ dollar càng ngày càng lớn trong những ngân
hàng trung ương quốc gia. Mặt khác những chính sách chính trị và kinh tế
của Mỹ trong thập niên 60, nhất là trong chiến tranh Việt Nam, đã mang
đến hậu quả là có quá nhiều dollar lưu hành trên thế giới. Các nước có
nhiều dự trữ dollar bắt đầu đặt nghi vấn về giá trị của đồng tiền này và
quyết định đổi ra vàng như hệ thống cho phép. Lúc đầu chính phủ Mỹ phải
tôn trọng quy ước đã ký kết, nhưng nguồn dự trữ vàng càng ngày càng
xuống. Tháng 8 năm 1971, chính phủ Nixon quyết định xoá bỏ tương quan
trao đổi giữa dollar và vàng để tránh tình trạng mất vàng và phải đối đầu
với một số lượng dollar quá thặng dư trên lãnh thổ. Từ đó tiền dollar tự do
thay đổi lên xuống so với các tiền khác theo luật cung cầu. Hệ thống tiền
tệ quốc tế bước qua một giai đoạn mới với vai trò quan trọng của thị
trường tự do. Hệ thống này được gọi là Hệ Thống Tiền Tệ Tự Do (Floating
rate exchange system - Système de change flexible) và là hệ thống hiện
hành trong những trao đổi kinh tế thế giới hiện nay. Trong thực tế, chỉ có
những đồng tiền của các nước kỹ nghệ lớn mới tự do thay đổi so với dollar
Mỹ, những nước khác không ít thì nhiều đều lấy những đồng tiền thường
được dùng trên thị trường quốc tế làm tiêu chuẩn để xác định giá trị tiền
nước mình ; chẳng hạn như dollar Mỹ là tiêu chuẩn cho nhiều đồng tiền Á
Châu và Mỹ châu ; franc Pháp là tiêu chuẩn cho nhiều đồng tiền của các
nước Phi châu ; hoặc có nước chọn ba hay bốn đồng tiền làm tiêu chuẩn
để xác định tỷ giá hối đoái tiền nước mình.
Trước những thay đổi này, nhiều người cho rằng IMF không còn lý do tồn

tại. Thực ra cơ quan này vẫn hoạt động, nhưng thời gian sau năm 1971 là
giai đoạn cần thích nghi để xác định đường hướng mới. Từ nhiệm vụ lúc
mới ra đời là giúp các nước hội viên một cách tạm thời để tìm lại được sự
thăng bằng của cán cân chi tiêu với ngoại địa và do đó có thể tôn trọng tỷ
giá hối đoái đã được phê chuẩn, IMF phải đối đầu với những nguy hiểm
của một hệ thống tiền tệ tự do mà trong đó vai trò của thị trường có thể
đưa đến những khủng hoảng tài chánh trầm trọng.

Tổ chức hành chánh
IMF là một tổ chức tổ hợp tài chánh qui tụ 183 nước hội viên hiện nay,
nước Nam Tư mới xin gia nhập sau khi đất nước đã tìm lại được một chế
độ dân chủ hơn. Đứng đầu trong tổ chức hành chánh là Ban Lãnh Đạo
những Thống Đốc (Board of Governors - Conseil des Gouverneurs). Mỗi
nước hội viên cử một người nước mình làm thống đốc đại diện cho nước.
Họ thường là những bộ trưởng tài chánh hay giám đốc của ngân hàng
trung ương và quyền quyết định của họ phản ảnh đường lối của chính phủ
nước họ. Mỗi năm các thống đốc dự cuộc họp thường niên tại trụ sở chính
nằm ở thủ đô Washington hoặc ở một nước hội viên để quyết định đường
hướng và hoạt động của cơ quan IMF.
Việc điều hành thường trực của cơ quan được đảm nhận bởi Ban điều hành
(Executive board - Conseil d administration) gồm có 24 giám đốc �
(executive directors - Administrateurs). Hiện nay 8 nước có mỗi nước một
giám đốc trong Ban điều hành : Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Nga, Trung
Quốc và Saudi Arabia. Những nước hội viên khác được chia ra làm 16
nhóm, mỗi nhóm cử một giám đốc. Ban điều hành cử một giám đốc chính
(managing director - directeur général) để điều hành toàn bộ cơ quan IMF
và áp dụng những chính sách đã được Ban Lãnh Đạo những Thống Đốc
quyết định. Vị giám đốc chính cũng là người đứng đầu trong ban điều hành
(Chairman of the Executive Board - Président du Conseil
d Administration). Giám đốc chính hiện nay là ông Horst Kohler người �

Đức mới được bầu thay thế ông Michel Camdessus người Pháp tại chức từ
năm 1987.
Nhân viên làm việc cho cơ quan IMF hiện nay có khoảng 2600 người, đến
từ các nước hội viên. Phần lớn họ là những chuyên viên về kinh tế, thống
kê, tài chánh quốc gia, thuế vụ, hệ thống tài chánh và ngân hàng trung
ương. Đa số làm việc tại trụ sở chính ở thủ đô Washington, số còn lại làm
việc tại các văn phòng của cơ quan tại Paris, Geneva, Tokyo, New York.
hoặc được cử đi làm việc trực tiếp ở một số quốc gia. Nhân viên của IMF là
công chức của cơ quan này và làm việc theo lợi ích của cơ quan này chứ
không theo lợi ích riêng tư của chính nước họ.
Những nguồn tài chánh của IMF
Tổ chức của IMF có tính cách tổ hợp tương trợ tài chánh, nghĩa là mỗi hội
viên đóng góp một số tiền được hội quy định. Nguồn tài chánh này được
dùng để giúp các nước hội viên trong trường hợp cần thiết. Nhưng Quỹ
cũng có những phương cách phụ thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu
cầu của các nước hội viên.
Phần đóng góp (quotas - quotes-parts)
Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chánh chính của Quỹ ngay từ khi
được thành lập. IMF không vay mượn trên thị trường tài chánh quốc tế.
Điều này giải thích tại sao IMF không phải là một ngân hàng quốc tế dù
hoạt động chính của nó liên quan đến lãnh vực tài chánh. Phần đóng góp
không những đóng vai trò của nguồn tài chánh, nó còn là tiêu chuẩn để
xác định số tiền mà một nước hội viên có thể vay mượn, để phân chia SDR
và số phiếu bầu của mỗi nước.
Phần đóng góp được xác định theo nhiều tiêu chuẩn như tổng sản lượng
quốc gia, dự trữ vàng và dollar Mỹ, số lượng xuất khẩu và nhập khẩu.
Nước nào càng giầu thì đóng góp càng cao. Số đóng góp lúc đầu (1946) trị
giá 7.6 triệu dollar Mỹ. Số đóng góp tính tới năm 1998 là 193 tỷ dollar Mỹ.
Năm 1999, đề nghị của IMF tăng 45% những phần đóng góp đã được các
nước hội viên phê chuẩn, nguồn tài chánh của cơ quan do đó trị giá quãng

300 tỷ dollar Mỹ.
Nguồn tài chánh của cơ quan tăng nhiều vì hai lý do. Một mặt các nước gia
nhập tổ chức ngày càng nhiều, từ 35 nước lúc đầu đến nay lên tới 183
nước hội viên, Việt Nam là hội viên từ năm 1956. Mặt khác những phần
đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống (chưa bao giờ có) mỗi thời gian
5 năm theo quyết định của những thống đốc với ít nhất 85% số phiếu
thuận. Những phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ (18.25%),
Nhật (5.67%), Đức (5.67%), Pháp (5.10%) và Anh (5.10%). Phần đóng
góp của Mỹ trị giá quãng 35 tỷ dollar Mỹ. Phần đóng góp càng nhiều thì
ảnh hưởng trong cơ quan IMF càng mạnh về đường hướng và những quyết
định quan trọng. Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít, quãng 50
nước có phần đóng góp dưới 65 triệu dollar Mỹ. 52 nước Phi Châu có phần
đóng góp tương đương với phần đóng góp của Đức hay Nhật. Phần đóng
góp của Mỹ cao hơn hai lần những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ
La Tinh.
Cách thức xác định tiền đóng góp của mỗi hội viên rất đặc biệt. Theo quy
chế của Quỹ, mỗi nước thanh toán phần đóng góp 25% bằng vàng và 75%
bằng tiền nước mình. Số vàng được dự trữ trong bốn ngân hàng trung
ương lớn nhất, 75% tiền mỗi nước được giữ dưới hình thức một trương
mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi nước. Trong thực tế các nước
thanh toán bằng vàng ít hơn là 25% như quy định. Từ năm 1971, khi Hệ
Thống Tiền Tệ Vàng Dollar hết hoạt động, 25% được thanh toán bằng SDR
hay những đồng tiền lớn thường được xử dụng trên thị trường quốc tế.
Quyền SDR / DTS (special drawing right - droits de tirage
spéciaux)
Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại
thương là vàng và các tiền lớn như dollar Mỹ, yen Nhật, pound Anh và mới
đây là tiền euro thay thế cho những tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Âu
Châu như mark Đức, franc Pháp. Từ năm 1969, IMF quyết định phân chia
cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt gọi là SDR viết tắt của

Anh ngữ hay DTS viết tắt của Pháp ngữ. Quyền này được coi như một loại
tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân hàng trung ương mỗi nước. Lúc
đầu ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và dự trù nó sẽ trở
thành đồng tiền quốc tế thay tiền dollar Mỹ. Thực tế không như Quỹ mong
đợi, bởi vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền
lợi chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện
trong thực tế. Lúc ban đầu, SDR được phân chia cho mỗi nước hội viên
theo phần đóng góp đã trình bầy ở trên, do đó các nước nhỏ ít đóng góp
không được nhiều SDR. Trong những lần phân chia sau này, Quỹ có
khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này.
Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương với 1/35 oune vàng,
do đó 1 SDR = 1 USD. Sau năm 1971, tiền dollar Mỹ không còn được đổi
ra vàng, giá trị của SDR được xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16
nước có hoạt động xuất khẩu cao nhất và thay đổi theo giá thị trường của
những đồng tiền này. Từ năm 1980, để đơn giản hoá cách tính, giá trị
được xác định dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng của mỗi đồng
tiền : dollar Mỹ (39%), mark Đức (21%), yen Nhật (18%), pound Anh
(11%) và franc Pháp (11%). Từ khi đồng euro ra đời (01/01/1999), mức
quan trọng được xác định như sau : dollar Mỹ (45%), euro (29%), yen
Nhật (15%), pound Anh (11%). Thí dụ ngày 8/8/2000, 1 SDR = 1.30904
USD. Kể từ ngày 01/01/2001, Quỹ quyết định là giá trị một SDR bằng tổng
số những tiền như sau : 0.577 USD + 0.426 EUR + 21 JPY + 0.0984 GBP.
Tỷ số phân lãi của SDR cũng được xác định một cách tương tự. Số SDR
phân chia cho các nước hội viên hiện nay trị giá quãng 29 tỷ dollar Mỹ.
Mượn tiền
IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giầu như các nước kỹ nghệ
lớn hay có nhiều dầu hoả trong trường hợp cần thiếát. Năm 1962, 11 nước
kỹ nghệ hội viên ký giao kèo GAB (general arrangements to borrow -
accords généraux d emprunt) cho Quỹ vay 23 tỷ dollar Mỹ. Năm 1997, 25�
nước kỹ nghệ hội viên thoả thuận qua giao kèo NAB (new arrangements to

borrow - nouveaux accords d emprunt) cho quỹ mượn 47 tỷ dollar Mỹ. �
Saudi Arabia là nước dầu hoả cho Quỹ mượn nhiều nhất. Từ năm 1981,
nước này đã cho mượn trên 10 tỷ dollar Mỹ, hiện nay saün sàng cho mượn
2 tỷ dollar Mỹ. Điều này giải thích tại sao Saudi Arabia có một giám đốc
trong ban diều hành IMF.
Bán vàng
Tính tới ngày 30/04/2000, số lượng vàng dự trữ của IMF có vào khoảng
103 triệu ounces (3.217 tấn) và được định theo giá thị trường vào khoảng
30 tỷ dollar Mỹ. Số vàng này có do các hội viên đóng góp như đã đề cập ở
trên, hoặc do các nước hội viên trả tiền lời, hoặc do Quỹ mua của các nước
hội viên. Vai trò của vàng trong Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar là yếu tố
nền tảng gây tin tưởng vào giá trị tiền của các nước hội viên. Trái lại, vàng
không còn đóng một vai trò nào trong hệ thống tiền tệ hiện nay. Nhưng
Quỹ vẫn giữ và coi vàng một mặt như bảo chứng cho giá trị của chính cơ
quan mình và mặt khác để đề phòng những trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên, trong thời gian 1976 - 1980, Quỹ đã thoả thuận với các nước
hội viên để giảm bớt số vàng dự trữ. Quỹ đã bán quãng 50 triệu ounces
vàng. Một nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR,
nửa còn lại được bán theo giá thị trường và là nguồn tài chánh dành để
giúp các nước hội viên nghèo.
Hoạt động của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Mục đích được xác định từ đầu của IMF là bảo đảm cho một hệ thống tiền
tệ quốc tế có thể hoạt động hữu hiệu vẫn không thay đổi mặc dù hệ thống
tiền tệ quốc tế hiện nay không còn như khi Quỹ được thành lập. Tương trợ
tài chánh khi các nước hội viên cần được giúp đỡ vẫn là hoạt động chính
của Quỹ. Nhưng cách thức kiểm soát, đề phòng và nhìn trước những khó
khăn của các nước hội viên là yếu tố quan trọng trong bối cảnh một nền
kinh tế thế giới ngày càng liên quan mật thiết với nhau (globalization -
mondialisation).
Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên

Để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế quân bình và tạo điều kiện cho
những trao đổi thương mại thế giới phát triển, hiện nay Quỹ có một hoạt
động nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách
tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn một
nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ. Trong
những tài liệu làm việc của Quỹ, một phần quan trọng liên quan đến
những dữ kiện kinh tế và tài chánh của mỗi nước hội viên, bởi vì giá trị của
đồng tiền quốc gia tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế này.
Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc
nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình
trạng khó khăn kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được
cử tới thủ đô mỗi nước quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện
kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền như những thống kê về xuất
nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ số phân lãi, số lượng tiền
quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc gia. và đối thoại
với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính sách kinh
tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao
đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên
viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban
điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân
trong những lãnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ
bản để IMF quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết.
Thí dụ cụ thể trường hợp Việt Nam. Cuộc tham khảo mới nhất của Quỹ với
những đại diện của chính phủ Việt Nam theo phương cách trình bầy trên
đã được công khai xuất bản trên website của Quỹ ngày 4/8/2000, với sự
thoả thuận của chính phủ Việt Nam (tựa đề là IMF concludes Article IV
consultation with Vietnam). Nội dung của tài liệu này mô tả những biến cố
kinh tế và tài chánh tổng quát gần đây của Việt Nam và những nhận định
gợi ý của ban lãnh đạo IMF đối với chính quyền Việt Nam :
• Nhận định về tình hình kinh tế Việt Nam :

• Sức phát triển kinh tế của Việt Nam bị giảm sút rất nhiều từ cuối
năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á châu
và những yếu điểm của nền kinh tế nội bộ. Tổng sản lượng quốc gia
tăng trên 10% từ những năm đầu thập niên 1990 xuống tới 3.5%
năm 1998. Nhiều lý do giải thích sự giảm sút này : đầu tư ngoại quốc
(foreign direct investment) giảm sút, những khó khăn của các doanh
nghiệp quốc doanh và hệ thống ngân hàng.
Trong thập niên 90, đầu tư ngoại quốc là động cơ chính của sự
phát triển kinh tế. Từ cuối năm 1997, số đầu tư này giảm thiểu
vì không có môi trường thích hợp cho hoạt động kinh tế : luật
lệ không rõ ràng, hạ tầng kinh tế vẫn còn thô sơ, cản trở hành
chánh.
Yếu điểm chính của nền kinh tế Việt Nam là vấn đề không hữu
hiệu kinh tế của hệ thống doanh nghiệp quốc doanh và hệ
thống ngân hàng quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh
không có năng suất cao hoặc thua lỗ nhiều. Hệ thống ngân
hàng quốc doanh do đó gặp khó khăn vì số tiền cho các doanh
nghiệp này vay không được trả lại hết. Các doanh nghiệp tư
doanh còn quá ít và còn quá nhiều luật lệ kiểm soát và do đó
giới hạn sự phát triển trong lãnh vực này. Mặt khác, kinh tế
Việt Nam dựa trên hàng nhập khẩu rất nhiều.
• Kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng lên lại từ giữa năm 1999. Tổng sản
lượng quốc gia tăng 4.25% trong năm 1999 nhờ xuất khẩu dầu và
gạo, nhưng đầu tư ngoại quốc và tiêu thụ nội địa vẫn không gia
tăng. Lạm phát ở mức thấp quãng 2.5%. Dự trữ ngoại tệ lên tới 2.7
tỷ dollar Mỹ. Tỷ lệ phân lãi giảm xuống tới 12%, nhưng vì tỷ lệ phân
lãi dollar Mỹ cao nên có nhiều chuyển động tiền tệ qua những trương
mục ngoại tệ.
• Những tiến bộ về cải cách hạ tầng (structural reforms - réformes
structurelles) trong năm 1999 và đầu năm 2000 đã được thực hiện

mặc dù khoảng cách giữa dự định và thực hiện vẫn còn lớn. Bộ luật
thương mại mới nhằm tạo nên một môi trường thích hợp hơn cho sự
phát triển của các tư doanh nội địa. Một số sửa đổi của luật đầu tư
quốc tế đã được thực hiện để khuyến khích đầu tư ngoại quốc, nhất
là giảm nhẹ điều kiện bắt các doanh nghiệp ngoại quốc phải dùng
ngoại tệ trực tiếp trong những chi tiêu. Về tình trạng các doanh
nghiệp quốc doanh, một dự định cải cách mới đã được công bố trong
tháng 5 năm 2000. Trái lại, nghành ngân hàng quốc doanh còn rất ít
cải cách.
o Nhận định gợi ý của Quỹ đối với chính phủ Việt Nam :
• Quỹ chúc mừng những dấu hiệu cho thấy sức khoẻ kinh tế đã được
hồi phục nhờ xuất khẩu và những chính sách hạ tầng kinh tế mới. Từ
giữa năm 1999, nạn lạm phát không gia tăng và nguồn ngoại tệ
chính thức gia tăng. Tuy nhiên Quỹ lo ngại là việc đầu tư vẫn không
gia tăng và nhấn mạnh sự kiện là sức mạnh kinh tế hồi phục chỉ có
thể tồn tại nếu Việt Nam có những chính sách hạ tầng mới để lôi
cuốn đầu tư ngoại quốc.
• Về hệ thống ngân hàng quốc doanh, Quỹ gợi ý là tiền cho các doanh
nghiệp quốc doanh vay cần phải được theo dõi kỹ kàng hơn để tránh
tình trạng tiền cho mượn không được trả do nhiều khó khăn của các
doanh nghiệp này. Hệ thống xác định tỷ lệ phân lãi cần phải được
sửa đổi và để cho thị trường đóng vai trò quan trọng. Cách quản trị
cần phải rõ ràng và hữu hiệu hơn : chấp nhận việc kiểm soát độc lập
(external audit - audit externe), dùng những kỹ thuật bảo hiểm tiền
cho mượn, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế để xác định giá trị thực sự
của tiền cho vay.
• Về doanh nghiệp quốc doanh, những dự định cải cách lâu dài các
doanh nghiệp này cần phải được cụ thể hoá bằng những phương
thức giải quyết vấn đề nhân công bị sa thải, số nợ nần của hãng, vấn
đề đóng cửa những doanh nghiệp không có năng xuất kinh tế.

• Quỹ chúc mừng sự kiện kinh tế Việt Nam mở rộng hơn với cạnh
tranh quốc tế, đặc biệt việc giảm bớt những hạn chế về số lượng của
nhiều loại hàng hoá và việc ký giao kèo thương mại với Mỹ.
• Quỹ gợi ý sự cải thiện việc thâu thập những dữ kiện thống kê kinh
tế, kế toán quốc gia và cán cân chi thu. Việc cải thiện này giúp Quỹ
kiểm soát dễ dàng hơn và là dấu chỉ sự hữu hiệu của những chương
trình cải cách của chính quyền Việt Nam.
• Quỹ nhận định là có rất nhiều tiến triển trong chương trình cải cách
rộng lớn của Việt Nam. Đường lối này có thể dẫn IMF đến quyết định
giúp Việt Nam trong chương trình cho mượn PRGF dành cho các
nước hội viên nghèo.
Giúp đỡ tài chánh
IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán
trong cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu
không đủ để thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Nguồn ngoại tệ của
một nước có là do từ những xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, từ những chi
tiệu tại chỗ của những du khách ngoại quốc, từ những đầu tư của các
hãng xưởng ngoại quốc, từ những giúp đỡ tài chánh của các nước giầu cho
những nước nghèo.
Như việc ăn tiêu của một cá nhân, một nước có thể tiêu xài nhiều hơn là
điều mình có, do đó phải vay mượn để có tiền trả. Nhưng nếu tình trạng
kéo dài nước đó sẽ phải đối đầu với lúc đến hạn của tiền mượn. Không ai,
không nước nào cho vay mượn thường xuyên một nước thích ăn tiêu hơn
những gì mình có. Do đó chỉ còn cách � thắt lưng buộc bụng giảm tiêu�
xài trong nước : bớt nhập khẩu, giảm chi tiêu quốc gia. để tìm lại được
mức thăng bằng của giá trị đồng tiền và cán cân chi tiêu ngoại địa. IMF
cho mượn tiền trong mục đích này.
Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã
đóng góp trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có
thể cho vay một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm

ba lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng
góp (reserve tranche - tranche de réserve) thì 75% sau là tiền Quỹ cho
mượn (credit tranche - tranche de crédit). Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều
này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước hội viên khác có nền
kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần trợ giúp. Nước
mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có
thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền
tảng và cũng là điều giải thích tại sao, mặc dù như đã nói Quỹ có khoảng
300 tỷ dollar Mỹ tiền các nước hội viên đóng góp, nhưng 75% là tiền quốc
gia của các nước hội viên cho nên Quỹ không thể cho vay một lúc cả 300
tỷ dollar.
Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại :
• Giúp đỡ ngắn hạn (Stand-by Arrangements - Accords de
Confirmation) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu tạm
thời. Thời gian mượn kéo dài từ 12 tháng đến 18 tháng. Mỗi tam cá
nguyệt nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả kéo dài từ 3 đến 5
năm.
• Giúp đỡ dài hạn (Extended Fund Facility - Mécanisme Élargi de
Crédit) nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà nguồn
gốc xuất phát từ những vấn đề liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế
của nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm.
Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút
sau Quỹ đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe. IMF chỉ cho mượn với điều kiện
là nước hội viên phải có một chương trình chi tiết về tài chánh và kinh tế
để giải quyết những khó khăn về cán cân chi tiêu ngoại địa. Quỹ chia tiền
cho mượn ra làm nhiều phần cốt ý để kiểm soát sự hữu hiệu của những
biện pháp phải thực hiện. Đó là nguyên tắc thận trọng để tránh việc một
nước mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu hiệu.
IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những

chính sách của ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân
hàng trong nước. Số lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến
khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay
của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn phải thực hiện.
IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu
và để phần xuất khẩu gia tăng, vì sự cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn do giá rẻ
hơn.
Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách
quốc gia : ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các
doanh nghiệp quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ
những hạn chế về giá cả. và ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn
tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều cản trở và hoang phí cho sự phát
triển kinh tế.
Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần
thiết. Quỹ không đòi hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này.
Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ định một nước có sức
mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ. Khi nước gặp
khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn
sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán
trực tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà
không cần sự can thiệp của Quỹ.
Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số
phương thức cho vay tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài
chánh mà các nước hội viên có thể phải đối đầu.
• Để giúp nước Mexico năm 1995 và các nước Đông Á Châu năm 1997,
Quỹ thiết lập một loại cho vay thêm (SRF : supplemental reserve
facility - FRS : facilité de réserve supplémentaire) hạn trả từ 1 đến 2
năm.
• Từ năm 1999, để phòng bị trường hợp một hay nhiều nước hội viên
gặp khó khăn trầm trọng có thể gây ảnh hưởng giây chuyền tạo ra

khủng hoảng kinh tế thế giới, Quỹ thiết lập một loại cho vay phụ
khác (CCL : contingent credit lines - LCP : lignes de crédit
préventives), hạn trả cũng tương tự như loại cho vay trên.
• Cán cân chi tiêu ngoại địa có thể bị hao hụt đột ngột bởi thiên tai
như động đất, ngập lụt, hạn hán hay chiến tranh. Sự giúp đỡ của
Quỹ đi song song với những cứu trợ của những cơ quan quốc tế
khác, của các nước phát triển. Nhưng mục đích của Quỹ luôn nhắm
tới sự tái thiết hạ tầng kinh tế, đặc biệt trong lãnh vực tổ chức hành
chánh quốc gia.
Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ
được Quỹ dùng gọi là commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước
hội viên mà Quỹ đã chỉ định đóng góp tiền cho vay và để cho cơ quan
hành chánh của Quỹ có thể hoạt động.
Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội
viên nghèo. Mục đích và tổ chức của IMF dành một chỗ đứng ít quan trọng
cho các nước đang phát triển ; hoặc vì phần đóng góp của các nước này
rất ít trong các nguồn tài chánh của Quỹ như đã đề cập ở trên ; hoặc vì
ảnh hưởng của các nước này trong những trao đổi thương mại, tài chánh
quốc tế ít tầm quan trọng.
Cho tới cuối thập niên 70, chính sách cho vay của Quỹ kèm theo những
điều kiện đòi nước gặp khó khăn phải thực hiện nhấn mạnh đến khía cạnh
giảm tiêu thụ trong nước để tìm lại được mức thăng bằng của cán cân chi
tiêu với ngoại địa. Rất nhiều chỉ trích chính sách này, không những từ
những nước nghèo đã phải thực hiện chính sách � thắt lưng buộc
bụng , mà còn từ nhiều chuyên viên kinh tế, xã hội thế giới về hậu quả �
xã hội nhiều khi rất trầm trọng của chính sách này. Giảm thiểu ngân sách
quốc gia thường đồng nghĩa với giảm thiểu những chi tiêu xã hội liên quan
đến phần đông những người nghèo trong nước trong các lãnh vực như
giáo dục, giao thông, sức khoẻ, sản phẩm lương thực cần thiết cho mọi
người.

Từ thập niên 80, dưới sự thúc đẩy của ông giám đốc chính Jacques de
Larosière, chính sách của IMF đối với các nước hội viên nghèo nhấn mạnh
hơn đến những yếu tố làm cho kinh tế nội địa phát triển như các nghành
có thể dễ dàng xuất khẩu, những nghành có thể thay thế nhập khẩu. Để
thực hiện chính sách này, Quỹ đặt ra loại cho vay dành riêng cho các nước
hội viên nghèo gọi là ESAF - FASR (enhanced structural adjustment facility
- facilité d ajustement structurel renforcée). Theo thống kê của Quỹ, �
chương trình này đã đóng góp hữu hiệu vào việc nâng cao mức sống của
người dân trong những nước hội viên này, đặc biệt trong lãnh vực sức
khoẻ và giáo dục.
Năm 1999, việc chống lại nạn nghèo trong các nước hội viên nghèo trở
thành một trong những mục tiêu chính thức của IMF. Hiện nay Quỹ công
nhận có 80 nước hội viên nghèo. Phần lớn nằm ở Phi châu, Mỹ châu La
Tinh và Á châu. Trong vùng Đông và Đông Nam Á châu có Cam bốt, Lào,
Việt Nam và Trung Quốc. Quỹ thay thế loại vay kể trên bằng một loại vay
mới gọi là PRGF - FRPC (poverty reduction and growth facility - facilité pour
la réduction de la pauvreté et la croissance), hạn trả từ 5 năm đến 10 năm
với phân lời rất thấp (0.5%). Để được Quỹ cho mượn, nước muốn được trợ
giúp phải thiết lập một chương trình chống nạn nghèo chi tiết với sự tham
gia không những của những cơ quan chính phủ, mà còn cả những cơ quan
xã hội độc lập hoạt động giúp những người nghèo. Tính cách hữu hiệu và
cụ thể của những chính sách đề nghị là yếu tố nền tảng để Quỹ quyết định
giúp. IMF cộng tác với Ngân Hàng Phát Triển Thế Giới (World Bank -
Banque Mondiale) trong lãnh vực này.
Với những hoạt động tài chánh kể trên, tổng số tiền IMF cho các nước hội
viên mượn tăng rất nhanh. Năm 1965 quãng 4 tỷ SDR, năm 1980 quãng
12 tỷ SDR, năm 1985 gần 40 tỷ SDR và năm 1998 hơn 55 tỷ SDR. Từ khi
Quỹ được thành lập, những nước hội viên mượn nhiều nhất là Mexico 17 tỷ
SDR, Nga hơn 14 tỷ SDR, Nam Hàn hơn 14 tỷ SDR, Argentina 10 tỷ SDR,
Ấn Độ gần 10 tỷ SDR, Anh gần 10 tỷ SDR, Brazil 5 tỷ SDR, Nam Dương 4.5

tỷ SDR, Phi Luật Tân hơn 4 tỷ SDR và Pakistan 4 tỷ SDR.
Để có một ý niệm cụ thể, sau đây là một số dữ kiện tài chánh vào tháng
tám năm 2000 của một số nước miền Đông và Đông Nam Á châu trong
tương quan tài chánh với IMF :
• Nhật
hội viên từ năm 1952
phần đóng góp : 13312 triệu SDR
SDR : 891 triệu
những vay mượn mới đây : không có
• Trung Quốc
hội viên từ năm 1945
phần đóng góp : 4687 triệu SDR
SDR : 237 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp
nhận
Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
Stand-by 12/11/1986 11/11/1987 598 598
Stand-by 02/03/1981 31/12/1981 450 450
Kỳ hạn phải trả : đã trả hết
• Nam Hàn
hội viên từ năm 1955
phần đóng góp : 1633 triệu SDR
SDR : 73 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp
nhận
Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
Stand-by 04/12/1997 03/12/2000 15500 14412
Stand-by 12/07/1985 10/03/1987 280 160

Stand-by 08/07/1983 31/03/1985 576 576
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 0 2050 2141 181 91
Tiền lời 64 220 106 17 5
• Nam Dương
hội viên từ năm 1967
phần đóng góp : 2079 triệu SDR
SDR : 239 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp
nhận
Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
EFF 04/02/2000 31/12/2002 3638 851
EFF 25/08/1998 04/02/2000 5383 3798
Stand-by 05/11/1997 25/08/1998 8338 3669
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 0 1376 1835 979 678
Tiền lời 0 469 375 284 239
• Mã Lai
hội viên từ năm 1958
phần đóng góp : 1487 triệu SDR
SDR : 139 triệu
những vay mượn mới đây : không có
• Thái Lan
hội viên từ năm 1949
phần đóng góp : 1082 triệu SDR
SDR : 85 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp
nhận

Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
Stand-by 20/08/1997 19/06/2000 2900 2500
Stand-by 14/06/1985 30/12/1986 400 260
Stand-by 17/11/1982 31/12/1983 271 271
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 150 1012 1050 237 50
Tiền lời 35 116 56 12 1
• Philippines
hội viên từ năm 1945
phần đóng góp : 880 triệu SDR
SDR : 117 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
nhận
Stand-by 01/04/1998 31/12/2000 1021 783
EFF 24/06/1994 31/03/1998 791 791
Stand-by 20/02/1991 31/03/1993 334 334
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 3 6 313 434 319
Tiền lời 26 93 87 67 43
• Việt Nam
hội viên từ năm 1956
phần đóng góp : 329 triệu SDR
SDR : 48 triệu
những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại mượn Ngày chấp
nhận
Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
ESAF 11/11/1994 10/11/1997 362 242
Stand-by 06/10/1993 11/11/1994 145 109

Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 8 34 52 52 49
Tiền lời 1.4 4 3.6 3 3

Những dữ kiện trên cho thấy nước Nhật mặc dù đóng góp rất nhiều trong
Quỹ, nhưng ít nhờ Quỹ trợ giúp. Kinh tế Nhật đứng hàng thứ hai trên thế
giới và mặc dù từ hậu bán thập niên 90 đã và đang trải qua một thời kỳ
đình trệ kinh tế, vẫn đủ sức mạnh tài chánh của mình để giải quyết những
khó khăn nội địa và giữ giá trị tiền yen ở mức độ quân bình. Trái lại, Nam
Hàn, Nam Dương, Philippines và Thái Lan đã được Quỹ trợ giúp rất nhiều
để đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 1997. Trung
Quốc và Mã Lai gần đây ít nhờ Quỹ giúp, lý do không phải vì sức mạnh
kinh tế như Nhật, nhưng có lẽ vì tự ái quốc gia không muốn một cơ quan
quốc tế can thiệp vào nội bộ của nước mình. Riêng Việt Nam, Quỹ đã cho
mượn trong chương trình giúp các nước hội viên nghèo nhiều hơn là cách
mượn bình thường.
Giúp đỡ về mặt kỹ thuật
Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã
nhờ IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng
trung ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng
được mở rộng không những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong
chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách
tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc
gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực
này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lãnh vực tài chánh từ hơn 50 năm nay, với
những chuyên viên kinh tế, tài chánh, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin
tưởng quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát
triển trong lãnh vực này có thể đóng góp tài chánh và để Quỹ tổ chức cách
giúp đỡ.

Kết luận
Nhìn theo lịch sử phát triển của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế từ hơn 50 năm qua,
người ta có thể thấy là hoạt động của Quỹ ngày hôm nay không còn như
lúc ban đầu khi mới được thành lập. Từ vai trò một cơ quan quốc tế kiểm
soát một hệ thống tiền tệ quốc tế cố định, Quỹ đã phải xác định lại đường
hướng hoạt động trong hệ thống tiền tệ tự do. Nếu trong thập niên 70, khi
hệ thống tiền tệ tự do bắt đầu hoạt động, nhiều chỉ trích và đòi hỏi phải
trở lại một hệ thống tiền tệ dựa trên vàng còn nhiều tiếng vang, thì ngày
nay vai trò của thị trường như yếu tố làm cho hệ thống tiền tệ trở thành
hữu hiệu dường như được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên kinh nghiệm
cho thấy thị trường có thể có những phản ứng cực đoan vô lý. Điều quan
tâm của Quỹ là nhìn ra những yếu tố kinh tế và tài chánh có thể gây ra
những trở ngại cho một nước và nhất là gây ảnh hưởng giây chuyền đưa
đến tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới. Địa phương hoá hệ thống tiền
tệ như các nước trong Cộng Đồng Tiền Tệ Âu Châu đã làm với đồng euro
là một phương cách để phòng ngừa khía cạnh cực đoan của thị trường.
Đây có lẽ là khuynh hướng sẽ phát triển trong tương lai để bảo đảm một
hệ thống tiền tệ quốc tế vững chắc hơn. Trong viễn tượng này, đường
hướng hoạt động của IMF có thể sẽ thay đổi với vai trò giúp đỡ các nước
hội viên nghèo trở thành quan trọng hơn. Tuy nhiên, nếu vai trò rất tích
cực của IMF trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay là điều đáng ca ngợi,
thì đó chỉ là một trong những yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển
kinh tế của một nước hội viên. Một nền kinh tế quốc gia có phát triển hay
không trước hết là do chính nước phải tự mình đảm nhiệm. Đối với một
nước đang phát triển, IMF như một chuyên viên có thể giúp đỡ về phương
diện kinh tế, tài chánh và kỹ thuật là điều phải biết tận dụng. Quỹ chỉ giúp
nước hội viên nào có thiện chí muốn xây dựng một nền kinh tế phồn thịnh
cho nước và cho dân mình và góp phần vào những trao đổi kinh tế thế
giới. Trong thực tế thế giới ngày hôm nay, vai trò của sự phát triển kinh tế
trong xã hội cũng như những yếu tố hạ tầng cần thiết cho sự phát triển

này vẫn còn được đánh giá rất khác nhau trong những nước chậm tiến qua
những lựa chọn chính trị và đường lối điều hành đất nước.

Paris Ðông 2001
Nguyễn Văn Thành
Tài liệu tham khảo :
• Website IMF : www.imf.org. Đây là trang internet chính thức của IMF
và là kho tài liệu liên quan không những đến tổ chức, hoạt động,
nghiên cứu, dữ kiện kinh tế và tài chánh thu thập từ các nước hội
viên ; mà còn liên quan đến những nghiên cứu và phân tích về tình
hình kinh tế thế giới, đặt biệt trong lãnh vực tiền tệ, tài chánh quốc
tế. Hầu hết những dữ kiện dùng trong bài viết được trích ra từ nguồn
tài liệu này.
• Le Fonds Monétaire International của Michel Lelart, nhà xuất bản
Presses Universitaires de France, năm 1995.
• Economie internationale của Christian Aubin và Philippe Norel, nhà
xuất bản Editions du Seuil, năm 2000.
/>

×