Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ RƠM TƯƠI LÀM THỨC ĂN CHO BÒ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.79 KB, 6 trang )

CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ RƠM TƢƠI
LÀM THỨC ĂN CHO TRÂU BÒ
Ths. Nguyễn Thị Hoa
GV khoa Nông – Lâm - Ngƣ

1. Đặt vấn đề
Cây lương thực chủ yếu trồng ở nước
ta là cây lúa. Hàng năm nước ta có khoảng 25
triệu tấn rơm (0,8 rơm/1 lúa). Rơm có hàm
lượng xơ cao (32 - 35%VCK), nghèo protein (3-
5%). Chất xơ của rơm khó tiêu hoá vì bị lignin
hoá. Tuy giá trị dinh dưỡng của rơm thấp
nhưng lại là nguồn thức ăn rẻ tiền và nông
dân có tập quán sử dụng lâu đời. Trong
thực tế, người nông dân bảo quản rơm làm
thức ăn cho trâu bò bằng cách phơi khô rồi
chất thành đống. Quá trình phơi khô đó
làm giảm giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Mặt khác phơi rơm cần phải có diện tích
đủ rộng và cần phải có công đảo thường
xuyên thì rơm phơi mới có thể đảm bảo
chất lượng. Một yếu tố đặc biệt quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
rơm đó là thời tiết và thời gian sau thu
hoạch, thời tiết không thuận lợi rơm tươi
không được phơi ngay sẽ ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng thậm chí rơm có thể
thối, hỏng nếu như để kéo dài thời gian.
Trên cơ sở những nhận thức trên, để nâng
cao hiệu quả sử dụng của gia súc nhai lại
với nguồn thức ăn này chúng tôi tiến hành


nghiên cứu đề tài “Các phương pháp xử lý
rơm tươi làm thức ăn cho trâu bò”
2. Đối tƣợng và phƣơng pháp tiến hành
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Rơm tươi sau khi thu hoạch
- Rỉ mật, Urê
2.2. Phương pháp tiến hành
2.2.1. Phương pháp ủ rơm
Rơm tươi sau khi thu hoạch dược ủ
chua (nhằm bảo quản lâu dài) và ủ kiềm
hóa (nhằm bảo quản và làm tăng giá trị
dinh dưỡng) được bố trí theo các công
thức:
Lôđối
chứ
ng
Lô thí nghiệm
Ủ chua
Kiềm hóa
CT1
CT2
CT3
CT4
CT5
CT6
RT
RT+1%
RM
RT+2%R
M

RT+3%
RM
RT+1%
UR
RT+1,5%
UR
RT+2%
UR
Ghi chú: RT (rơm tươi), RM (rỉ mật), UR (urê)

Trước khi ủ, rơm tươi được băm nhỏ tới
kích thước từ 20 - 30 cm rồi trộn đều với
các chất bổ sung (tùy theo công thức) theo
đúng tỷ lệ. Sau đó cho 10 kg hỗn hợp đã
được trộn vào các túi ni lon nén thật chặt,
bịt kín và bảo quản ở nhiệt độ phòng (23 -
32
0
C). Rơm không xử lý được dùng làm
đối chứng.

2.2.2. Đánh giá chất lượng rơm
* Đánh giá trực quan: Sau khi ủ rơm được
30, 60 ngày các mẫu đại diện được lấy
theo TCVN - 86 (Tiêu chuẩn Việt Nam
- Thức ăn chăn nuôi, tổng cục đo lượng
chất lượng 1986)
* Phương pháp xác định độ pH
Cân 5g mẫu đã ủ cắt nhỏ. Sau đó
đem trộn với 100ml nước cất, khuấy đều

và để trong 15 phút, chắt nước rồi đem đo
pH.
2.3. Chỉ tiêu theo dõi
- Màu sắc, mùi vị, độ mốc
- Độ pH
3. Địa điểm và thời gian tiến hành
3.1. Địa điểm tiến hành
Tại xã Công Thành, huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An
3.2. Thời gian tiến hành
Từ tháng 4 đến thàng 6 năm 2011
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Đánh giá chất lượng rơm tươi sau
xử lý bằng phương pháp trực quan
Kết quả theo dõi về màu sắc, mùi
và mốc của rơm tươi sau xử lý được trình
bày ở bảng 1
Bảng 1: Một số tính chất của rơm tươi qua các thời gian xử lý
Phƣơng
pháp xử lý
Màu sắc
Mùi
Độ mốc
30 ngày
60 ngày
30 ngày
60 ngày
30 ngày
60 ngày
Đối chứng

Vàng sẫm
Nâu đen
Hơi chua
Hôi mốc
+ + +
++ +
CT 1
Vàng tươi
Vàng tươi
Hơi chua
Thơm
+
+
CT 2
Vàng tươi
Vàng tươi
Thơm chua
Thơm chua
+
+
CT 3
Vàng tươi
Vàng xanh
Thơm chua
Thơm chua
+
+
CT 4
Vàng tươi
Nâu đen

Amoniac nhẹ
Amoniac nhẹ
-
-
CT 5
Vàng sẫm
Nâu đen
Amoniac hắc
Amoniac nhẹ
-
-
CT 6
Vàng sẫm
Nâu đen
Amoniac hắc
Amoniac hắc
-
-
Ghi chú: - : Không mốc, + : Mốc nhẹ, + + + : Mốc nặng
Màu sắc của rơm ở các lô thí
nghiệm này không hoàn toàn là đồng nhất
giống nhau nhưng nhìn chung màu sắc
rơm tươi sau ủ chua có màu vàng tươi đặc
trưng. Màu sắc của rơm tươi sau xử lý bổ
sung urê bị biến đổi thành màu sẫm hơn so
với các công thức ủ chua. Màu sắc của
rơm tươi được xử lý biến đổi theo thời
gian bảo quản. Ở các mẫu ủ urê bảo quản
30 ngày có màu vàng sẫm, sau 60 ngày ủ
có màu nâu đen. Qua đó chúng tôi nhận

thấy rằng thời gian bảo quản càng lâu thì
màu sắc của rơm tươi càng bị biến đổi trở
nên đen hơn. Có thể nói trong giai đoạn từ
30 đến 60 ngày của quá trình ủ làm mất
dần màu vàng. Kết quả này của chúng tôi
cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Xuân Trạch và Cù Xuân Dần
(1999a)[4] đã phân tích một số nhân tố
(mức urê, độ ẩm, thời gian xử lý) ảnh
hưởng tới thành phần hoá học của rơm.
Mùi mẫu rơm ủ, các mẫu thí
nghiệm rơm lúa tươi có mùi thơm chua dễ
chịu, nhất là các mẫu ủ cùng 2% rỉ mật,
3% rỉ mật. Điều này được giải thích là do
trong quá trình ủ chua, nhờ sự hoạt động
của các VSV lên men tạo ra axit đã làm
giảm pH, môi trường pH toan tính ức chế
nấm mốc không cho chúng phát triển. Mẫu
khi mở ra có mùi thơm chua của axit. Các
mẫu rơm lúa tươi xử lý với urê thì có mùi
hắc của amoniac, nồng độ của mùi
amoniac này phụ thuộc vào lượng urê bổ
sung trong mẫu thí nghiệm. Trong công
thức bổ sung 2% urê nồng độ mùi amoniac
nặng hơn mẫu bổ sung 1,5% urê và mẫu
bổ sung 1% urê.
Riêng đối với mẫu ủ đối chứng
không bổ sung thì có mùi ẩm mốc khó
chịu. Sau thời gian bảo quản 60 ngày. Độ
mốc là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng thức ăn, nấm mốc làm giảm giá
trị dinh dưỡng của thức ăn và sản sinh độc
tố gây hại cho tình trạng sức khoẻ của gia
súc. Độ mốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như nguyên liệu ủ, nhiệt độ, độ ẩm …Với
các công thức ủ khác nhau, chúng tôi thấy
rằng ủ đối chứng không bổ sung có độ
mốc nặng nhất +++, tiếp đó là công thức ủ
chua có bổ sung 1% rỉ mật, 2% rỉ mật và
3% rỉ mật có độ mốc giảm dần. Điều đặc
biệt là rơm ủ với urê ở các tỷ lệ khác nhau
đều khô và không xuất hiện mốc. Điều này
có thể được giải thích như sau: rơm lúa
tươi có hàm lượng đường hoà tan thấp, các
VSV lên men tạo axit chỉ sử dụng được
đường ở dạng tự do. Do đó mẫu đối chứng
không bổ sung có tỷ lệ nấm mốc nặng
nhất. Với những mẫu rơm xử lý urê không
có mốc xuất hiện. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Xuân Trạch và
Cù Xuân Dần,(1999b)[5] đã tiến hành
nghiên cứu sự biến đổi thành phần hoá học
của rơm lúa khi sử dụng bằng urê. Kết quả
cho thấy rơm xử lý bằng 2% và 4% urê
làm hàm lượng nitơ tăng lên rõ rệt, khoảng
90 - 92% N được giữ lại trong rơm sau khi
mở túi, đồng thời rơm xử lý cao (3% và
6%) không ảnh hưởng gì đến hàm lượng
nitơ mà sự phát triển của nấm mốc sẽ bị ức

chế do amoniac sinh ra.
4.2. Ảnh hưởng của công thức ủ đến độ
toan kiềm của rơm tươi (pH)
Để đánh giá ảnh hưởng của các công
thức ủ, các công thức xử lý khác nhau trong
các thời gian bảo quản khác nhau ảnh
hưởng thế nào tới độ toan kiềm của rơm
tươi, chúng tôi tiến hành xác định độ pH
của rơm ở các công thức ủ vào các thời
điểm khác nhau (30, 60 ngày) kết quả
được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2 Ảnh hưởng của ủ chua và xử lý kiềm hoá đến độ toan/kiềm của rơm lúa tươi
Phƣơng pháp xử lý
pH
30 ngày
60 ngày
Rơm lúa tươi trước xử lý
6,08
e

ủ chua
+ Đối chứng
4,93
g
± 0,06
4,92
g
± 0,06
+ 1% rỉ mật
4,73

g
± 0,05
4,69
g
± 0,07
+ 2 % rỉ mật
4,28
h
± 0,03
4,32
h
± 0,05
+ 3% rỉ mật
4,11
k
± 0,03
4,18
k
± 0,04
Xử lý urê
+ 1% urê
8,01
c
± 0,08
8,09
c
± 0,07
b

+ 1.5 % urê

8,26
a
± 0,06
8,50
a
± 0,05
+2% urê
8,50
b
± 0,07
8,67
b
± 0,08
Ghi chú: a, b, c, d, e, g, h, h, k các giá trị trong từng cột không mang chữ giống
nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê.
Độ pH của rơm tươi ủ chua với thời
gian bảo quản 30 ngày biến động từ 4,11 -
4,93 trong đó cao nhất ở rơm tươi ủ và thấp
nhất ở công thức rơm tươi ủ 3% rỉ mật, ở thời
gian bảo quản này độ pH của các công thức ủ
chua có sự sai khác rõ rệt với (P < 0,05). Độ
pH ở tất cả các công thức ủ chua đều giảm
nhiều so với rơm lúa tươi trước khi xử lý có
độ pH là 6,08.
Với các công thức xử lý urê pH dao
động trong khoảng từ 8,01 - 8,67 trong đó
thấp nhất ở công thức rơm tươi xử lý 1% urê
và cao nhất ở công thức xử lý 2% urê. Sự sai
khác này là rất rõ rệt với (P< 0,05). Đối với
các công thức xử lý thì sự khác biệt về pH so

với mẫu đối chứng là rất lớn với (P< 0,05).
Tại thời điểm 60 ngày đối với các
công thức ủ chua pH dao động trong khoảng
từ 4,18 - 4,92 trong đó công thức rơm lúa tươi
ủ cùng 3% rỉ mật có pH thấp hơn cả pH =
4,18. Đối với các công thức xử lý urê pH dao
động trong khoảng từ 8,01 - 8,67 trong đó
công thức xử lý 2% urê pH cao nhất còn công
thức xử lý 1% urê có pH thấp nhất. Sự sai
khác này giữa các công thức xử lý mang tính
thống kê (P < 0,05) còn đối với mẫu đối
chứng sự sai khác là rất rõ ( P< 0,05).
Với thời gian ủ mẫu khác nhau độ pH
ở các mẫu ở thời điểm khác nhau cũng có
những biến đổi nhỏ nhưng nhìn chung sự thay
đổi này không mang ý nghĩa thống kê ( P>
0,05). Điều này cho thấy rằng việc bảo quản
dự trữ rơm lúa tươi cho trâu bò dưới hình thức
bảo quản là ủ chua trong một thời gian dài là
rất tốt. Kết quả này của chúng tôi cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Trọng Tiến, (1991)[2]; Nguyễn Xuân Bả,
(1997)[1] đã thực hiện nghiên cứu xử lý rơm
với các mức urê (0,3,4) với thời gian ủ (30,
60, 90 ngày) .
Một điều đặc biệt là tại cả 2 thời điểm
mở mẫu khác nhau công thức ủ chua với 3%
rỉ mật có kết quả tốt nhất, giá trị pH nằm trong
khoảng từ (4,11 - 4,18) điều đó nói lên rằng
thức ăn ủ chua ứng với những công thức này

có chất lượng tốt. Riêng đối với công thức ủ
chua không bổ sung dùng làm đối chứng có
pH khá cao tại 2 thời điểm mở mẫu pH dao
động từ 4,52 - 4,93. Các công thức bổ sung
2% rỉ mật và 3% rỉ mật đã tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động lên men của VSV ức chế sự
phát triển của nấm mốc. Đối với công thức
đối chứng có pH khá cao không ức chế được
sự phát triển của nấm mốc, do đó hàm lượng
chất dinh dưỡng trong rơm bị tổn thất lớn
nhất. Như vậy trong quá trình ủ chua rất cần
thiết phải bổ sung thêm các chất giàu đường
dễ hoà tan để tạo điều kiện thuận lợi cho vi
khuẩn lactic lên men, nhanh chóng hạ pH
xuống đủ thấp điều đó sẽ làm giảm tổn thất
giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Đối với các công thức xử lý urê (1%,
1,5%, 2%) ảnh hưởng đến độ pH của rơm là
rõ rệt, so với pH của rơm lúa tươi được ủ làm
đối chứng sự sai khác này có (P < 0,001). Hầu
hết độ pH của các công thức rơm lúa tươi xử
lý urê đều cao hơn rất nhiều so với rơm lúa
tươi trước khi xử lý tương ứng là: tại thời
điểm 30 ngày mở mẫu, 1,93 (CT4), 2,18
(CT5 ), 2,42 (CT6), tại thời điểm 60 ngày mở
mẫu, 2,01 (CT4), 2,42 (CT5), 2,60 (CT6). Kết
quả này của chúng tôi cũng phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Trạch và
Trần Thị Uyên, 1997[3] độ pH của rơm tươi
được xử lý bằng 2% urê, 3% urê, 3% urê +

5% Ca0 và rơm không xử lý tương đương ở
thời điểm 30 ngày mở mẫu là 8,52; 8,70; 8,82
và ; 4,18, 4,23; 4,53, 4,86. Như vậy, qua thí
nghiệm trên cho thấy độ pH đạt cao nhất đối
với công thức xử lý 2% urê ở tại 2 thời điểm
mở mẫu.
5. Kết luận
Nhìn chung các công thức ủ chua và
xử lý rơm trên đều tạo ra môi trường pH có
lợi cho việc bảo quản và dự trữ thức ăn. Các
công thức ủ chua tạo ra môi trường pH thấp
có tác dụng ức chế hoạt động của các vi
khuẩn gây hại, giúp cho thức ăn được bảo
quản lâu hơn, tránh tổn thất về dinh dưỡng
của thức ăn đem ủ. Các công thức xử lý rơm
lúa tươi bằng urê tạo ra môi trường pH cao có
tác dụng làm cho thức ăn mềm hơn, ngăn
chặn quá trình phát triển của nấm mốc. Thức
ăn xử lý urê làm tăng tỷ lệ tiêu hoá do phá vỡ
mối liên kết giữa lignin với các thành phần
khác của tế bào thực vật. Điều này rất tốt cho
việc phân giải của vi khuẩn dạ cỏ. Trong
chuyên đề sau chúng tôi sẽ gửi đến bạn đọc
hiệu quả của rơm tươi sau khi xử lý đối với
chăn nuôi trâu bò.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Bả (1997), "Sử dụng rơm xử
lý urê làm thức ăn cho gia súc”. Tuyển tập
những công trình nghiên cứu khoa học nông
nghiệp và kinh tế nông nghiệp 1997, ĐH

Nông lâm Huế, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
Nguyễn Trọng Tiến cùng cộng sự (1991).
Giáo trình chăn nuôi trâu bò ĐHNNI, Hà Nội
2. Nguyễn Xuân Trạch và Trần Thị Uyên
(1997) “Một số yếu tố ảnh hưởng đến thành
phần hóa học của rơm khi xử lý bằng urê”,
Tập chí thông tin khoa học và kỹ thuật nông
nghiệp số 2 – 29, Trường ĐHNNI, Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Trạch, Cù Xuân Dần
(1999a), “Ảnh hưởng của một số công thức
kiềm hóa đến tính chất và thành phần hóa học
của rơm”. Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ
thuật khoa chăn nuôi thú y, 1996 – 1998, Nxb
Nông nghiệp Hà Nội
4. Nguyễn Xuân Trạch, Cù Xuân Dần
(1999b), “Ảnh hưởng thành phần hóa học của
rơm lúa khi xử lý bằng urê và vôi”. Kết quả
nghiên cứu khoa học kỹ thuật khoa chăn nuôi
thú y, 1996 – 1998, Nxb Nông nghiệp Hà Nội
5. Nguyễn Xuân Trạch (2003), “Ảnh hưởng
Của kiềm hóa đến giá trị dinh dưỡng của rơm
và sinh trưởng của bê ”. Tạp chí chăn nuôi,
Số 8/2003i



×