Bài tiểu luận
"Kinh tế Việt Nam
toàn cầu hóa"
MỤC LỤC
- Phần mở đầu
- PHẦN NỘI DUNG
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài.
1. Nguyên tắc phương pháp luận của qui luật lượng- chất.
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- kết quả.
II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt
Nam trước xu thế toàn cầu hoá.
III- Những giải pháp và kiến nghị.
- PHẦN KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nó
chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy,
lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, môi
trường Do có vai trò quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành
kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và gần đây hiệp
định thương mại Việt - Mỹ đã được thông qua tạo thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh
tế ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách thức lớn đối với nền kinh tế còn đang
trong giai đoạn phát triển như nước ta ,vì hiện nay có thể nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn
đi chậm hơn so với thế giới và chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất,
quản lý , đầu tư đúng hướng
Bài tiểu luận này đã giúp em học hỏi được rất nhiều trong việc rèn luyện cách viết, cách
diễn giải một vấn đề và trau dồi khả năng tư duy. Song do đây là bài tiểu luận đầu tiên cho
nên không thể tránh khỏi những sai sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy
cô giáo sửa chữa và góp ý để tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.
EM XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN !
PHẦN NỘI DUNG
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài
1 - Q uy luật lượng- chất
Muốn hiểu thấu đáo qui luật lượng- chất thì trước hết phải tìm hiểu xem thế nào là lượng,
thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái niệm về chất và lượng được dịnh
nghiã như sau:” chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ
không phải cái khác”. Còn”lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự
vật biểu thị số lượng, qui mô,trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như của các thuộc tính của nó”.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát
triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra
độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kì sự
thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự
vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự
vật đó. Vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được
gọi là độ. “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự
vật .”
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự vật được
gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống nhất giữa
lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể hình dung sự phát
triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói cách
khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự
vật do những thay đổi về chất trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi ra đời,
chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô
tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Bởi vì chất và lượng là hai mạt đối lập vốn có trong lòng sự vật hiện tượng. Chất thì tương
đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự thay đổi của lượng đến một lúc nào đó
thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó đòi hỏi phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để
mở đường cho lượng thay đổi. Khi chất cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự
thống nhất giữa chất và lượng.
Quy luật lượng chất được phát biểu như sau: “Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa
chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn
bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi
của lượng.
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải
quan tâm đến quá trình tích luỹ về lượng bởi vì không có quá trình này thì không có sự thay
đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay
thế.
Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về lượng cho phù
hợp, không được thoả mãn dừng lại.
Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan điểm coi thường
tích luỹ về lượng. Còn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã chín muồi cần phải có sự thay đổi
về chất lại không dám thực hiện bước thay đôỉ về chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm
sai lầm.
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn
kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện Song không phải mọi sự
việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng đều là biều hiện của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả thông thường
không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Khi các
nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng, cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên
ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình thành kết quả và ngược lại.
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, không có hiện tượng nào được coi là
nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong
mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là nguyên nhân thì trong sự việc khác, nó lại được
coi là kết quả và ngược lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ
động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân theo hai chiều hướng hoặc
tích cực hoặc tiêu cực.
Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại mà
không có nguyên nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải khám phá ra nguyên
nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta mới có thể định hướng cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi nguyên nhân có vị trí khác
nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân loại các nguyên nhân đồng thời
phải nắm được những nguyên nhân phát triển cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn
chế những nguyên nhân ngược chiều.
Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác động trở lại
nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết quả đã đạt được để nâng
cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.
II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt
Nam trước xu thế toàn cầu hoá.
Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế Quốc tế. Giáo sư về
kinh tế học quốc tế thuộc đại học Tổng hợp Giôn Hốp- kin, Oa- sinh- tơn D.C, Giêm Ri- đen
đã định nghĩa: “Hội nhập là tự do thương mại, không phải chỉ đơn giản là bản thân thương
mại”. Về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng của kinh tế đơn thuần,
mà luôn gắn với một hệ thống của chính trị là nền tảng của tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn,
rõ ràng ở quốc gia nào cũng vậy , người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi
ích của quốc gia đó được bảo đảm- Các lợi ích này không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế. Nó
luôn được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia. Cho nên, bất cứ hiệp định song
phương giữa hai quốc gia nào cũng luôn có điều khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh
quốc gia mỗi nước. Với cách tiếp cận trên, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế, của nước ta
hiện nay không chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được thể hiện
trong bản thân hệ thống chính các thương mại, chính sách phát triển kinh tế đã và đang được
Đảng, Nhà nước định hướng.
Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại
công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, sự mở
rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính biệt lập, khép kín trong
phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động của các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho
quá trình tích luỹ về lượng để chuẩn bị cho sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó(độ) thì
dẫn đến một bước nhảy về kinh tế là xu thế toàn cầu hoá ra đời.
Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn tới sự hình thành và phát triển xu thế toàn cầu hoá kinh
tế, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu là:
-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế trước hết bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế chịu sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Sự phát triển của các công nghệ cao( công nghệ sinh học,
công nghệ viễn thông ) đã làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất của loài người, đã đưa
loài người từ văn minh công nghiệp lên văn minh tin học, đã tạo thành kinh tế tri thức, kĩ
thuật số, hình thành mạng máy tính toàn cầu( Internet), phá vỡ hàng rào ngăn cách về không
gian và thời gian giữa các quốc gia trên thế giới và thúc đẩy các nước quan hệ, hợp tác với
nhau.
- Sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia,lực lượng
chi phối toàn cầu hoá.
Chính những nguyên nhân trên đã đặt các quốc gia, phát triển cũng như đang phát triển,
đứng trước thách thức về tụt hậu. Do đó các quốc gia đều đặt ưu tiên cho phát triển kinh tế.
Trong đó, yêu cầu về mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác ngày nay đã trở thành một nhiệm
vụ chủ yếu.
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam được bắt đầu từ cuối những năm 80 khi Đảng và
Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế. Đại Hội VII của Đảng (1991)
đã thông qua định hướng nền kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế “Nghị
quyết đại hội VIII của Đảng (1996) đã quyết định : “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới” Nghị quyết hội nghị Trung Ương lần thứ 4 khoá VIII (12-1997) chỉ rõ
nguyên tắc hội nhập là : “ trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
thu hút các nguồn lực từ bên ngoài”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp
định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO”, có “ kế hoạch cụ thể để chủ động thực
hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế các quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá
thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng
- Tự do hoá thương mại