TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI: Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để giảm bớt thâm hụt
ngân sách.Lấy số liệu nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm trở lại đây làm ví dụ minh họa
Giáo viên hướng dẫn:
Bộ môn: Kinh tế vĩ mô
Nhóm sinh viên thực hiện:
Nhóm 8- 46K
HÀ NỘI
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để
giảm bớt thâm hụt ngân sách.Lấy số liệu nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm trở lại đây
làm ví dụ minh họa
Danh sách nhóm 8 lớp kinh tế vĩ mô
Lớp học phần:
● Trần Thị Mai
● Trần Đức Mậu
● Nguyễn Thị Minh
● Nguyễn Văn Minh
● Nguyễn Thị My ( nhóm trưởng )
● Nguyễn Thị Hà My ( thư kí )
● Đinh Văn Nam
● Lê Thị Nam
● Đoàn Thị Nga
Mục lục:
Lời mở đầu
● Phần một: Cơ sở lí thuyết tìm hiểu thâm hụt ngân sách.
● Phần hai: Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay.
○ Diễn biến thâm hụt ngân sách
○ Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách
● Phần ba: Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
○ Các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để giảm bớt thâm hụt
ngân sách
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nếu tình trạng
thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh
hưởng tiêu cực. Việc Xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó
không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia đều có những biện pháp thích hợp nhằm
khắc phục thâm hụt ngân sách đưa thâm hụt đến một mức nhất định. Chính phủ Việt Nam
cũng không phải là một ngoại lệ. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến
động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều
nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt
Nam. Vậy xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện
hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và
kiềm chế lạm phát hiện nay? Các giải pháp khắc phục thâm hụt ngân sách nhà nước Việt
Nam hiên nay là gì?
Qua các số liệu cụ thể, các tài liệu tham khảo, và sự hướng dẫn của thầy giáo, nhóm
chúng tôi đã hoàn thành xong bài thảo luận. Trong quá trình làm thảo luận, mặc dù đã cố
gắng hết sức nhưng không thể tránh khỏi những sai sót.
Rất mong được sự giúp đỡ chân thành của thầy cô và các bạn!
Nhóm 8
Phần Một: Cơ sở lí thuyết
Tìm hiểu thâm hụt ngân sách.
1. Khái niệm ngân sách nhà nước:
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của quốc gia trong dự toán đã được cơ
quan chính phủ có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính phủ.
2. Khái niệm thâm hụt ngân sách nhà nước:
2.1. Thu ngân sách nhà nước: Chính phủ dùng quyền lực của mình để tập trung
một bộ phận của tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của quốc gia
làm nguồn để thực hiện nhiệm vụ của mình. Các nguồn thu chính:
Thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước: Thu từ sản xuất, thu từ lưu
thông - phân phối hàng hóa, thu từ hoạt động dịch vụ
Thu từ nguồn thu ngoài nước: thu từ vay nợ và viện trợ của ngoại quốc
2.2. Khái niệm:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn
trả" của ngân sách nhà nước.
3. Phân loại thâm hụt ngân sách nhà nước:
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và
thâm hụt chu kỳ.
Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy
biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu
cho giáo dục, quốc phòng,
Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế,
nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh
tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi
chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Phần hai: Thực trạng thâm hụt ngân sách
nhà nước Việt Nam hiện nay.
1.Diễn biến thâm hụt ngân sách
Chỉ tiêu
năm 2007
năm 2008
Năm2009
Tổng thu cân đối NSNN
281900
323000
389900
Thu kết chuyển từ năm trước sang
19000
9080
14100
Tổng chi cân đối ngân sách nhà
nước
357400
398980
481300
Bội chi ngân sách nhà nước
56500
66900
873090
Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP
5%
5%
4,82%
Thực tế trong những năm qua chúng ta đã kiểm soát được mức độ chi ngân sách nhà nước ở
mức giới hạn cho phép ( không quá 5% GDP trên năm) và nguồn vay chủ yếu là chi cho đầu tư
phát triển. Ngoài ra chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí, chi đầu
tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lí cân đối
ngân sách nhà nước cũng như kiểm soát vấn đề bội chi ngân sách nhà nước.
Dưới đây chúng tôi xin đưa các số liệu về cân đối dự toán ngân sách nhà nước trong những
năm gần đây (từ năm 2007 đến 2009)
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2007
Đơn vị tính: tỷ đồng.
STT
CHỈ TIÊU
DỰ TOÁN
A
TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
281.900
1
THU NỘI ĐỊA (KHÔNG KỂ THU TỪ DẦU
THÔ)
151.800
2
THU TỪ DẦU THÔ
71.700
3
THU CÂN ĐỐI TỪ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU, NHẬP KHẨU
55.400
4
THU VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
3.000
B
THU KẾT CHUYỂN TỪ NĂM TRƯỚC SANG
19.000
C
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
357.400
1
CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
99.450
2
CHI TRẢ NỢ VÀ VIỆN TRỢ
49.160
3
CHI PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP KINH TẾ - XÃ
HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC, ĐẢNG, ĐOÀN
THỂ (1)
174.550
4
CHI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LAO
ĐỘNG DÔI DƯ
500
5
CHI CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG (2)
24.600
6
CHI BỔ SUNG QUỸ DỰ TRỮ TÀI CHÍNH
100
7
DỰ PHÒNG
9.040
D
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
56.500
TỶ LỆ BỘI CHI SO GDP
5%
NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
1
VAY TRONG NƯỚC
43.000
2
VAY NGOÀI NƯỚC
13.500
Dự toán thu ngân sách nhà nước quốc hội quyết định là 281900 tỉ đồng; phấn đấu cả năm ước
đạt 287900 tỉ đổng, vượt 2,1% (6000 tỉ đồng). So với dự toán, tăng 11,6% so với thực hiện năm
2006. Trong điều kiện dự toán năm 2007 được xây dựng ở mức cao, quá trình điều hành phát sinh
nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách như sản lượng dầu thô, thanh toán giảm
lớn so với dự toán, thực hiện điều chỉnh giảm thuế để bình ổn giá cả thị trường… thì kết quả thu
như vậy là tích cực. Dự toán chi quốc hội quyết định là 357400 tỉ đồng, bao gồm cả nhiệm vụ chi
từ số thu kết chuyển năm 2006 sang năm 2007 (19000 tỉ đồng); ước cả năm đạt 368340 tỉ đồng,
tăng 3,1% (10940 tỉ đồng) so với dự toán bằng 32,3% tăng 14,6% so với thực hiện năm 2006.
Bộ chi ngân sách năm 2007 được quốc hội quyết định là 56500 tỉ đồng ước cả năm là 56500 tỉ
đồng, chiếm 4,95% GDP (tính theo thống kê tài chính CP-GFS là 1,7% GDP bằng mức quốc hội
quyết định, được đảm bảo bằng các nguồn vay bù đắp bộ chi đúng với dự toán năm.)
Thực hiện nghị quyết của quốc hội trong chỉ đạo điều hành ngân sách nhà nước năm 2007 dự
kiến sẽ dành 9080 tỉ đồng (ngân sách trung ương 7000 tỉ đồng, ngân sách địa phương 2080 tỉ
đồng) kết chuyển sang năm 2008 để thực hiện cải cách tiền lương. Đến 31/12/2007 dư nợ chính
phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ) bằng 35,9% GDP dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng
30,4% GDP, trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô.
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2008
Đơn vị tính:tỷ đồng.
Stt
Chỉ tiêu
Dự toán
A
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
323,000
1
Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô)
189,300
2
Thu dầu thô
65,600
3
Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
64,500
4
Thu viện trợ không hoàn lại
3,600
B
Thu kết chuyển từ năm trước sang
9,080
C
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước
398,980
1
Chi đầu tư phát triển
99,730
2
Chi trả nợ và viện trợ
51,200
3
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng,
đoàn thể
208,850
4
Chi cải cách tiền lương
28,400
5
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
100
6
Dự phòng
10,700
D
Bội chi ngân sách nhà nước
66,900
Tỷ lệ bội chi so GDP
5%
Nguồn bù đắp bội chi
1
Vay trong nước
51,900
2
Vay ngoài nước
15,000
Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 là 323000 tỉ đồng phấn đấu cả năm đạt
399000 tỉ đồng, vượt 23,5% (76000 tỉ đồng so với dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm
2007, đạt tỉ lệ động viên 26,8% GDP, trong đó từ thuế và phí đạt 24,9% GDP, ;loại trừ yếu tố tăng
thu do tăng giá dầu thô thì đạt tỉ lệ động viên 23,5% GDP (thuế và phí đạt 21,6% GDP) chính phủ
tập trung chỉ đạo tăng cường công tác quản lý thu ngân sách năm 2008.
Dự toán chi cân đối ngân sách nhà nước quốc hội quyết định là 398900 tỉ đồng ước thực hiện
cả năm đạt 474280 tỉ đồng vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007.
Bộ chi ngân sách nhà nước năm 2008 quốc hội quyết định là 66900 tỉ đồng. Ước cả năm bộ chi
ngân sách thực hiện là 66200 tỉ đồng bằng 4,95% GDP khi xây dựng kiểm toán. Đến ngày
31/12/2008 dư nợ chính phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ) bằng 33,5% GDP dư nợ ngoài
nước của quốc gia bằng 27,2% GDP trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và ổn định
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Công tác tài chính ngân sách năm 2008 còn những khó khăn tồn tại.
Thu ngân sách tăng nhưng chưa vững chắc chủ yếu là do giá dầu thô và thuế xuất nhập khẩu.
Thu ngân sách những tháng cuối năm có chiều hướng giảm do sản xuất kinh doanh gặp khó khăn.
Các bộ, ngành, địa phương đã bám sát điều hành dự toán ngân sách nhà nước được giao nhưng
triển khai vốn đầu tư xây dựng cơ bản cả từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn trái phiếu chính
phủ còn chậm.
Quản lý chi tiêu ngân sách đã được tăng cường nhưng vẫn còn tình trạng lãng phí, kém hiệu
quả, một số nơi chưa thật sự quán triệt để tiết kiệm chi ngân sách nhà nước.
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2009
Đơn vị tính: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
Dự toán
A
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
389,900
1
Thu nội địa
233,000
2
Thu từ dầu thô
63,700
3
Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu
88,200
4
Thu viện trợ không hoàn lại
5,000
B
Thu kết chuyển từ năm trước sang
14,100
C
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước
491,300
1
Chi đầu tư phát triển
112,800
2
Chi trả nợ và viện trợ
58,800
3
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính
269,300
4
Chi cải cách tiền lương
36,600
5
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
100
6
Dự phòng
13,700
D
Bội chi ngân sách nhà nước
87,300
Tỷ lệ bội chi so GDP
4.82%
E
Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước
87,300
1
Vay trong nước
71,300
2
Vay ngoài nước
16,000
Dự toán thu ngân sách nhà nước: dự toán tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2009 là
389900 tỉ đồng,đạt tỷ lệ động viên 23%GDP trong đó từ thuế phí và lệ phí là 21,5% GDP là mức
động viên tích cực.
Về cơ cấu thu năm 2009 dự toán thu nội địa chiếm 59,8% tổng thu ngân sách nhà nước, thu dầu
thô chiếm 16,3%, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 22,6% tông thu cân đối ngân
sách nhà nước.
Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2009 được xây dựng trên cơ sở cơ cấu lại chi ngân sách
mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát ổn định vĩ mô, đảm bảo các nguyên tắc:
-Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội và
điêu chỉnh tiền lương, các khoản tăng chi theo tiền lương.
- Bố trí tăng chi dự phòng, dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực và chủ động phòng
chống khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, bố trí đảm bảo chi trả nợ theo đúng cam kết.
- Bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục -đào tạo -dạy nghề y tế, khoa học -công nghệ,văn
hoá thông tin, bảo vệ môi trường, nông nghiệp nông thôn …theo nghị quyết của đảng, quốc hội.
-Đáp ứng nhu cầu chi cho các nhiệm vụ khác trên tinh thần triệt để tiết kiệm, tiếp tục rà soát thắt
chặt chi xây dựng, bố trí dự toán chi thường xuyên cho các bộ các cơ quan trung ương và các địa
phương cơ bản không tăng so với năm 2008, giảm mức bội chi ngân sách nhà nước dưới 5%GDP.
Dự toán chi ngân sách năm 2009 là 491300 tỉ đồng, tăng 23,1% so với dự toán năm 2008: số
tăng chi này tập trung cho các nhiệm vụ chính.
Về chi ngân sách nhà nước đã bố trí theo hướng cơ cấu lại các khoản chi tập trung chi cho an
sinh xã hội, đầu tư phát triển con người thông qua giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, đồng thời
thực hiện điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn so với lộ trình đã được duyệt.
Được xây dựng trong bối cảnh cơ sở dự báo tình hình kinh tế vãn còn khó khăn, diễn biến thất
thường của thị trường và các biện pháp kiềm chế lạm phát vẫn tiếp tục thực hiện, việc điều chỉnh
chính sách thuế tạo thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh nhưng bước đầu làm giảm thu ngân
sách nhà nước.
Về cân đối ngân sách nhà nước:
Bội chi ngân sách nhà nước ở mức 4,82% GDP (giảm 3700 tỉ đồng so với tính bội chi ở mức
5%) để góp phần kiềm chế lạm phát.
Những vấn đề cần có giải pháp khắc phục trong tổ chức thực hiện:
Về thu ngân sách nhà nước: dự toán xây dựng vẫn còn chứa đựng các yếu tố rủi ro, chưa lường
hết, trong đó: thu nội địa từ hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào khả năng kiểm soát
lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô và phát triển sản xuất kinh doanh. thu dầu thô phụ thuộc vào yếu
tố sản lượng và đặc biệt là yếu tố giá dâng có biến động khó lường.
Dự toán chi ngân sách nhà nước da thực hiện cơ cấu lại để tăng cường an sinh xã hội, nhưng
vẫn còn khó khăn: dự toán chi đầu tư phát triển NSTW bố trí tăng 10,1% so với dự toán năm
2008, nhưng vẫn còn thấp so với nhu cầu, đòi hỏi phải rà soát, lựa chọn công trình, dự án quan
trọng để triển khai thực hiện. Đồng thời phải tăng cường huy động nguồn lực đầu vào tư từ các
thành phần kinh tế khác để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
● Một số nhu cầu chi chưa có khả năng bố trí đủ theo yêu cầu, như chi bù chênh lệch lãi suất
tín dụng ưu đãi, chi thu hồi vốn ứng theo kế hoạch …trong quá trình điều hành, trường hợp
có tăng thêm thu NSTW sẽ bổ sung nguồn xử lý.
● Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, đã bố trí giảm thâm hụt ngân sách nhà nước,
nhưng mức giảm chưa nhiều do nhu cầu an sinh xã hội và đầu tư phát triển còn lớn. Nếu
giảm tiếp mức bội chi ngân sách thì sẽ phải giảm chi đầu tư phát triển, hiện đang rất khó
khăn.
● Dự toán chi thường xuyên bố trí cho các bộ, cơ quan trung ương, các địa phương ngoài các
khoản tăng chi theo chính sách, chế độ và nhiệm vụ mới phát sinh, các khoản chi còn lại
không tăng so với dự toán năm 2008 trong khi giá cả tăng là khó khăn lớn, đòi hỏi các bộ, cơ
quan trung ương phải tiếp tục thực hiện triệt để các biện pháp sử dụng hiệu quả kinh phí và
tiết kiệm chi.
Dự phòng ngân sách nhà nước bố trí đạt 2,8% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó dự
phòng NSĐP bằng 3,5%, đảm bảo dự phòng của các địa phương ở mức 3-4%, dự phòng NSTW
2,4% tổng chi NSTW, mức bố trí này là rất mỏng so với yêu cầu chủ động phòng chống thiên tai
dịch bệnh và xử lý các nhiệm vụ đột xuất khác phát sinh trong năm.
2. Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách.
Dựa vào hai loại thâm hụt trên ta có 2 nguyên nhân cơ bản gây thâm hụt ngân sách nhà
nước:
Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước.
Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng
mức thâm hụt NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà
nước thì mức thâm hụt NSNN sẽ giảm bớt. Mức thâm hụt do tác động của chính sách cơ
cấu thu chi gây ra được gọi là thâm hụt cơ cấu.
Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho
thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó
khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức thâm hụt NSNN tăng lên. Ở giai
đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng
tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt NSNN. Mức thâm hụt do tác động của chu
kỳ kinh doanh gây ra được gọi là thâm hụt chu kỳ.
Phần ba: Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để giảm bớt thâm hụt ngân sách
1.Biện pháp phát hành tiền
a. Giới thiệu phương pháp
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt của mình
bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tế đất
nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng thì việc tài trợ số
thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện
những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế tiến
đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát.
Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn mức
sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của mình bằng cách
tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng
thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm năng,hậu quả là làm tăng lạm phát.
b. Thực trạng phát hành tiền bù đắp thâm hụt ở nước ta
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta vô cùng yếu kém, thu không
đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao quá mức, chi
tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Tuy nhiên, mức
thâm hụt quá lớn khiến việc bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài
nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách
1984
0,4
1985
9,3
1986
22,9
1987
89,1
1988
450
1989
1.655
1990
1.200
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt của Ngân sách nhà nước
được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Trong bối cảnh mà tỷ lệ
tích lũy nội bộ của nền kinh tế còn rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ
ăn, tỷ lệ chi đầu tư phát triển lại quá lớn và nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách lại chủ yếu
do phát hành tiền như trên chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm
phát phi mã trong giai đoạn 1986-1990.
c. Ưu nhược điểm
- Ưu điểm:
Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách nhanh
chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
- Nhược điểm:
Tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng sẽ tạo ra một tổng
cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh.
Như vậy, biện pháp này có nhược điểm lớn là chứa đựng nguy cơ lạm phát,gây tác
động tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.
Kinh nghiệm chua xót về việc phát hành tiền quá dễ dãi để bù đắp thâm hụt ngân
sách gây ra lạm phát cao trong thập kỷ 80 đã cho chúng ta những bài học quý giá.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên
tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm
1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Ngày 1/4/1990 thành lập hệ thống kho bạc nhà nước trực thuộc bộ tài chính (chịu
trách nhiệm về thâm hụt ngân sách nhà nước ) độc lập với ngân hàng nhà nước ( chịu
trách nhiệm phát hành tiền vào lưu thông ). Đây là một cuộc cách mạng về cơ cấu nhằm
tách chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước ra khỏi chức năng phát hành tiền, tránh
tình trạng tiền túi nọ bỏ vào túi kia. Cơ chế đó đã đóng góp có kết quả vào việc kiềm chế
bội chi và lạm phát trong thập kỷ vừa qua.Từ năm 1991 nhà nước đã tiến hành vay nợ để
bù đắp thâm hụt ngân sách.
2. Biện pháp vay nợ
a,Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái,
trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại
chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế
- xã hội và các ngân hàng.
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái
phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Số tiền vay trong nước để bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước
Số bội chi
2010
98.700
119.700
2009
88.520
115.900
2008
51.200
66.200
2007
43.000
56.500
2006
36.000
48.500
2005
32.420
40.746
2004
27.450
34.703
2003
22.895
29.936
2002
18.382
25.597
Ưu điểm:
- Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà
không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được
coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
- Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được nguy cơ
khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.
Hạn chế :
Thứ nhất, chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của nền kinh tế.
Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như phát hành trái
phiếu, tín phiếu, công trái Đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp để tăng mức độ
hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập ngoài ra còn
phải triển khai các biện pháp khác, kể cả tuyên truyền, vận động để huy động tối đa
nguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định.
Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính phủ
vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy động được
nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở
khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng tiền huy
động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh nghiệp và dân cư đó sẽ
mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các
biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng
tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống
tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh.
Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứa đựng nguy cơ
kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng kinh tế
của chính phủ thông qua con đường phát hành trái phiếu, tín phiếu bị chính bản thân
giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh các biện
pháp có nguy cơ làm giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành phần kinh tế, kể cả doanh
nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và các tầng lớp dân cư. Biện pháp tài trợ thâm hụt
ngân sách này chỉ nên thực hiện trong trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài
trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công
dân trách nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu đấy.
Thứ hai, việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi
những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư
có sức sinh lời).
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá
trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn.
Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế
phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến
uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó
khăn hơn vào các năm sau.
Tuy nhiên điều này chưa xảy ra ở Việt Nam.
Ngược lại, tức thực tế hiện nay, lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn không đáp ứng
được lãi suất kỳ vọng của thị trường nên phát hành trái phiếu luôn bị thất bại. Hậu quả có
khi cũng tệ không kém, thị trường gần như không có thanh khoản.
b, Vay nợ nước ngoài
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông
qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước
ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc
tế
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các
chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển
chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng
ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
Năm
Số tiền vay nước ngoài để bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
Số bội chi
2010
21.000
119.700
2009
27.380
115.900
2008
15.000
66.200
2007
13.500
56.500
2006
12.500
48.500
2005
8.326
40.746
2004
7.253
34.703
2003
7.041
29.936
2002
7.125
25.597
Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp
được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là
một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm:
Thứ nhất, việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ
tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ.
Thứ hai, dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí,
nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về
chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
Vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho vay và thường phải chịu những điều kiện
ngặt nghèo về lãi suất và thời hạn vay trả. Hình thức vay thường qua các hiệp định song
phương,nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay trên thị trường tài chính quốc
tế. Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thường cho vay với các điều kiện ưu đãi, nhưng
ngày càng hiếm hoi và do vậy có sự cạnh tranh gay gắt. Dù thế nào, thì vay nước ngoài
cũng chịu sự ràng buộc của nhiều điều kiện vay áp đặt từ nước cho vay.
Ví dụ, Quỹ MIYAZWA của Nhật Bản quy định :Trong tống số vốn được cho vay
tài trợ, phải có ít nhất 50% được sử dụng để mua hàng của Nhật hoặc các công ty Nhật
đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các điều kiện, thủ tục không thành văn khác
như phải qua khâu trung gian là Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) hoặc các
trung gian tài chính khác của Nhật thì mới có thể vay được tiền từ MIYAZAWA
Như vậy nếu ta vay được của Nhật 1 tỷ ta đã góp phần trực tiếp chấn hưng nền kinh
tế Nhật tới trên 500 triệu, chưa kể các áp lực về thủ tục đấu thầu,giá cả,công nghệ
Tính đến cuối năm 2000, mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 12,8 tỷ
USD, chiếm 40-45% so với GDP và vẫn còn nằm trong “giới hạn an toàn”. ( ngưỡng an
toàn là 50% GDP).
Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40%
GDP và năm 2010 khoảng 44% GDP.
3.Biện pháp tăng giảm thu chi.
a. Tăng thu (Tăng thuế)
Nhà kinh tế học Mỹ-Laffer (thập kỷ 70 ) đã đồ thị hoá hai tác động trái ngược nhau
của việc tăng thuế thu nhập tuỳ theo mức thuế suất áp dụng.
Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân sách từ
thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế suất cho phép tăng
thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế
suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm ý của đường cong Laffer là khi thuế suất đang
ở mức cao, thì giảm thuế suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến
khích khu vực tư nhân hăng hái đầu tư.
- Ưu điểm: Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu nhập
sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các đối tượng mở
mang các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp ngân sách nhà nước,còn
lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng thuế thu nhập có tác dụng kích thích
tăng trưởng kinh tế.
- Nhược điểm: Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất trực
thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và thúc đẩy trốn thuế ,lậu
thuế.
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng thuế có
khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu
quả làm việc của hệ thống thu,phụ thuộc vào hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ
kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà
còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của
các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm
giảm nguồn thu ngân sách.
Ở Việt Nam, năm 2009 Chính phủ đã giải quyết thâm hụt ngân sách bằng cách:
Tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản. Liên quan tới các ưu đãi về thuế
TNDN: Từ 1-1-2009 thuế suất thu hẹp lại chỉ còn 10% và 20%, bỏ thuế suất ưu đãi 15%.
Các ưu đãi miễn giảm thuế thu hẹp lại, không mặc nhiên áp dụng cho các DN mới
thành lập hay đang đầu tư mở rộng nữa. Chỉ ưu đãi với các dự án đầu tư vào lĩnh vực
mang tính chất nhà nước đặc biệt khuyến khích.
Ví dụ: lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư
hạ tầng quan trọng, sản xuất phần mềm, các dự án đầu tư vào các khu kinh tế Mức để
miễn giảm thuế tối đa là miễn 4 năm giảm 9 năm.
Các doanh nghiệp đã thành lập trước ngày 1-1-2009 và đang được hưởng các ưu đãi
đầu tư theo quy định hiện hành sẽ tiếp tục được áp dụng thời gian ưu đãi như cũ.
Luật mới cũng khống chế cách xác định thời gian bắt đầu tính thuế ưu đãi: tính từ
năm có thu nhập chịu thuế. Nếu doanh nghiệp nào lỗ trên 3 năm, thì năm đầu tiên tính ưu
đãi là năm thứ 4.
Thay đổi về thuế GTGT: Thu hẹp nhóm hàng hoá dịch vụ có thuế suất 5%. Đây là
bước chuyển tiếp để tiến đến chỉ duy trì hai mức thuế suất là 0% và phổ thông 10%.
Ví dụ: hiện nay qui định sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất là 5% còn phục vụ tiêu
dùng là 10%, tuy nhiên rất khó phân biệt hai loại này nên sẽ chuyển hết sang 10%; sản
phẩm luyện cán kéo kim loại cũng chuyển hết sang thuế suất 10%; hóa chất cơ bản, thông
thường được chuyển qua nhóm 10%; máy xử lý tự động; than đá, đất đá sỏi, bốc xếp trục
vớt cứu hộ…cũng vậy.
b. Giảm chi.
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi
quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu
tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra
những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không
hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết
kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước
cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm tổng chi nhằm
giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp ‘tiêu cực’.
Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương, chi mua sắm trang
thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư phát
triển.
Đương nhiên, ở đây cần phân biệt tính hiệu quả, tiết kiệm trong mỗi khoản chi
ngân sách với khái niệm cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước,cần phân biệt khái niệm
lãng phí và phạm trù kích cầu. Nếu như công việc trung gian gián tiếp kích thích hoạt
động kinh tế thì đó không phải là lãng phí mà là những việc cần làm ngay giúp cho nền
kinh tế phục hồi.Dù trước mắt ,ngân sách có thiếu hụt cũng phải tạo nguồn để chi cho
khoản đó nhằm chấn hưng nền kinh tế và nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai.
Chẳng hạn ở Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của ta, cần tăng
khả năng lưu thông,muốn tăng khả năng lưu thông cần giảm chi phí vận chuyển,muốn
giảm chi phí vận chuyển nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cải
tạo, hoàn thiện và xây mới các tuyến đường
Kết luận.
Có thể nói, thâm hụt ngân sách có tác động không nhỏ đến nền kinh vĩ mô. Do đó, Chính
phủ ta hiện nay đã đưa ra nhiều biện pháp để giảm thâm hụt ngân sách.Mỗi biện pháp này
đều có tác động tích cực cũng như tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô, đòi hỏi Chính phủ phải
linh hoạt điều chỉnh sao cho phù hợp với nền kinh tế nước ta. Đây không chỉ là vấn đề
của riêng Việt Nam mà ngay cả các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc,…
cũng đang gặp phải. Nếu giải quyết tốt vấn đề này nhà nước sẽ đem lại sự ổn định kinh tế
vĩ mô, phát triển kinh tế và tăng an sinh xã hội.
Tài liệu tham khảo.
/> />
/> />Chính sách tài khoá : Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Sách chuyên khảo / Nguyễn
Văn Dần
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
***
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 1 )
Môn: Kinh tế vĩ mô 1.3
Nhóm: 08
LHP: 1119MAEC0111
Thời gian họp: Lúc 9h 30
Địa điểm: Trước nhà H1
Thành viên trong nhóm 9 người
Có mặt: 9 Vắng: 0
Lý do vắng mặt: 0
NỘI DUNG:
Đề Tài: Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để giảm bớt thâm hụt
ngân sách.Lấy số liệu nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm trở lại đây làm ví dụ minh họa
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2011
Thư ký Nhóm trưởng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
***
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 2 )
Môn: Kinh tế vĩ mô 1.3
Nhóm: 08
LHP: 1119MAEC0111
Thời gian họp: Lúc 9h 30
Địa điểm: Trước nhà H1
Thành viên trong nhóm 9 người
Có mặt: 9 Vắng: 0
Lý do vắng mặt: 0
NỘI DUNG:
Phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm và gia hạn một tuần sau nộp bài
cho nhóm trưởng.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2011.
Thư ký Nhóm trưởng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
***
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 3 )
Môn: Kinh tế vĩ mô 1.3
Nhóm: 08
LHP: 1119MAEC0111
Thời gian họp: Lúc 3h 00
Địa điểm: Trước nhà H1
Thành viên trong nhóm 4 người.
NỘI DUNG:
Cả nhóm họp để chỉnh sửa và bổ sung cho bài thảo luận và slide.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2011