Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Định hướng phát triển chủ nghĩa xã hội ở việt nam sau khi liên xô và các nước đông âu sụp đổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.14 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
…… o0o
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
(Đào tạo Cao học)
Đề tài:
“Định hướng xử lý tình huống thực tiễn thiếu điều kiện khách
quan
trong bài toán: Phát triển Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam sau
khi Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ”
Họ và tên: Nguyễn Thị
Quỳnh Linh
Lớp: Cao học Kế toán
22C
Khóa: 22 (D2 - 203 lớp
buổi tối)
Mã sinh viên: CH220086
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Dựa trên những thành tựu
khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tìm thấy nguồn gốc của
vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các
mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng. Mâu thuẫn biện chứng cũng
nằm trong quá trình phát triển do các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động
qua lại, quy định lẫn nhau tạo thành. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách
quan và phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy.
Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản của hai khuynh hướng
trái ngược nhau. Sự khác nhau không ngừng phát triển và đi đến sự đối lập. Khi
hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, mâu thuẫn được giải quyết và
mâu thuẫn mới hình thành. Sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Các Mác viết:
“Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại


của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt
ấy thành một phạm trù mới”. Khi chúng ta giải quyết một bài toán hay mô hình
nào đó nhưng không đủ điều kiện, thiếu điều kiện khách quan thì tất yếu mâu
thuẫn sẽ hình thành. Mẫu thuẫn này ngày càng lớn mạnh chỉ được giải quyết có có
cái mới xuất hiện, chúng ta có thể thấy rõ điều này khi áp dụng vào thực tiễn ở
Việt Nam từ những năm cuối của thập niên 90, phát triển theo định hướng XHCN
ở Việt Nam nhất thiết cần có hai điều kiện: Liên minh công nông và sự giúp đỡ
của các nước XHCN trên thế giới. Sau khi Liên Xô – Đông Âu sụp đổ thì mất đi
một trong hai điều kiện tiên quyết nhất, lúc này hình thành hai xu hướng, hai tư
tưởng khác nhau về con đường phát triển, một là phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa, hai là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn biện chứng trong
tư duy hình thành dẫn đễn mâu thuẫn biện chứng trong xã hội, xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ xuất hiện các thành phần cản trở chống phá chủ nghĩa xã hội. Vậy,
Việt Nam đã phát triển theo định hướng xã hội chủ nghia khi không được sự giúp
đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bằng cách nào?
Để biết được cách giải quyết mâu thuẫn trong trường hợp này cũng như các tình
huống nan giải nói chung trên thực tiễn khi thiếu một hay một vài điều kiện khách
quan, trước tiên ta cần nắm rõ được bản chất của các mặt đối lập và mối quan hệ,
quy luật vận động giữa chúng. Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu từ cơ sở lý luận
chung đến thực tiễn để giải quyết vấn đề đặt ra trong đề tài “Định hướng xử lý
tình huống thực tiễn thiếu điều kiện khách quan trong bài toán: Phát triển
Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ”
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. QUAN HỆ GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. Khái niệm mặt đối lập
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới đều có cấu trúc bao gồm những mặt,
những yếu tố, thuộc tính khác nhau và đối lập nhau. Mặt đối lập là phạm trù dùng
để chỉ những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Tính thống nhất của các mặt đối lập.

Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với
nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi phải có
nhau của các mặt đối lập; sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối
lập, bởi vì các mặt đối lập bao giờ cũng có nhân tố giống nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự "tác động ngang nhau” của
chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn
phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
3. Sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Tính đa dạng của hình thức đấu
tranh của các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập, của mối liên
hệ qua lại giữa chúng, vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh của các mặt
đối lập. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức
đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện,
tạm thời, tương đối, sự đấu tranh của các mặt đối lập, cũng như sự phát triển sự
vận động là tuyệt đối.
II. MÂU THUẪN LÀ NGUỒN GỐC CỦA SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
Mâu thuẩn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập bên trong
một sự vật, một hiện tượng. Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn
tại trong sự thống nhất với nhau.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “ Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập”. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu
thuẫn) vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập (giải
quyết mâu thuẫn) là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Nếu không
có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn
biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn

định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính
ổn định và tính thay đổi của sự vật. Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn mới lại được triển
khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay
thế sự vật cũ. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không
chuyển hóa) thì không có sự phát triển.
Tuy nhiên không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một
trình độ nhất định, hội tụ đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hóa,
bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hóa các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Như vậy, đấu tranh đưa đến sự chuyển hóa làm các mặt đối lập thay đổi dẫn đến
sự vận động. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của sự vận
động, xuyên qua quá trình vận động mà thể hiện xu hướng tiến lên. Có thể khẳng
định đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
III. PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nhận thức sự vật, cũng có nghĩa là nhận thức mâu thuẫn của sự vật, nhận
thức được các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn, và do đó biết được nguồn gốc của
sự vận động và phát triển của sự vật.
Hồ Chí Minh từng nói “Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết tức
là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn
là vấn đề gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ
ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu
thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết”. Như vậy, khi phân tích mâu thuẫn, phải
tìm hiểu thật kỹ càng, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá trình
phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng
giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện cần cho sự biến đổi, đánh giá đúng vai trò của
từng mặt và của cả mâu thuẫn, xem mâu thuẫn đó có gì giống và khác các

mâu thuẫn khác.
Hoạt động thực tiễn là nhằm giải quyết mâu thuẫn tạo ra sự biến đổi của sự vật.
Dó đó, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mâu
thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh của các mặt đối lập. Đối với mâu
thuẫn khác nhau có phương pháp giải quyết khác nhau và đặc thù đối với dưới
trường hợp cụ thể. Như ở đề tài này, chúng ta sẽ áp dụng phương pháp luận biện
chứng để giải quyết mẫu thuẫn trong trường hợp: Định hướng phát triển xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
PHẦN II: PHÂN TÍCH ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
THIẾU ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN TRONG BÀI TOÁN PHÁT TRIỂN
THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Chủ nghĩa xã hội là gì?
Như chúng ta biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ
nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã
hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế
giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề
cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời
đại ngày nay.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử
Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ
trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân
lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa". Vào những
năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ
một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội
chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết

tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
2. Nền tảng phát triển của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, muốn phát triển theo con đường Xã hội Chủ nghĩa
thì cần có hai điều kiện cơ bản, tiên quyết là liên minh công-nông (chưa trải qua
công nghiệp hóa) và sự giúp đỡ của các nước Xã hội Chủ nghĩa ở điều kiện phát
triển hơn.
Đối với Việt Nam, liên minh công nông là nền tảng của cách mạng, là sản phẩm
của một quá trình tổ chức có kế hoạch và lâu dài. Tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò vô cùng quan trọng của lien minh công nông. Hồ Chí Minh nhiều lần
nhắc nhở: Liên minh công nông là tiêu chí, là mục đích lâu dài của cách mạng.
Khi chưa có chính quyền, liên minh công nông là động lực của cách mạng, khi đã
có chính quyền liên minh công nông là điều kiện để thực hiện quá trình đổi mới.
Tất nhiên, liên minh công nông là điều kiện cần của quá trình đổi mới – muốn có
được thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải có vai trò
của Đảng, sự đóng góp đắc lực của đội ngũ trí thức, …
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to
lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá
trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức
độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động
can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh
tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những
nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những
thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào

hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới nhiều hình thức: lương thực, vũ khí, quân
trang, ruân dụng…Trong thời kỳ hòa bình, Liên Xô vừa viện trợ vừa giúp đỡ Việt
Nam phát triển kinh tế, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng (nhà máy thủy điện, công
trình giao thông…), đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ… đây chính là điều
kiện căn bản để phát triển kinh tế và nâng cao trình độ văn hóa, đời sống của
người dân Việt Nam thời bấy giờ.
Từ những lập luận nêu trên, ta nhận thấy rằng Việt Nam phát triển lên Chủ nghĩa
xã hội cần có liên minh công nông dựa trên sự lãnh đạo của chính đảng của giai
cấp công nhân – Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự giúp đã của Liên xô và các nước
xã hội chủ nghĩa phát triển trên thế giới
II. MÂU THUẪN GIỮA HAI LUỒNG TƯ TƯỞNG XHCN-TBCN Ở VIỆT NAM
Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản
xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các
điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ
phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, nó không thể khắc phục được
những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Khủng hoảng kinh tế - tài chính, tiếp đến
là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái đang đặt ra những thách thức vô
cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá
trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm
hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi
ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của
phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang
diễn ra một lần nữa chứng minh tính chất phản tiến bộ, phản nhân văn và không
bền vững cả về kinh tế, xã hội và sinh thái của nó; như Mác đã từng nói, chủ nghĩa

tư bản đang huỷ hoại chính ngay những nhân tố làm nên sự giàu có của nó là lao
động và tài nguyên. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng
hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, cần sự
phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng - thua vì lợi ích vị kỷ của cá nhân và các
phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo
đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không
phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và hủy hoại
môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho
một thiểu số giàu có. Phải chăng đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa
xã hội?
Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn
đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta là tất yếu, nó mặc nhiên coi như đã
được khẳng định. Nhưng từ sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ
ở nhiều nước, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã
hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh
luận gay gắt. Công cuộc công nghiệp hóa ở Việt Nam dở dang, lúc này xuất hiện
hai luồng tư tưởng trái ngược theo hai chiều hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa.
Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để
xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao
động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên
nhân tan rã của Liên Xô và các nước Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải
đi con đường khác. Có người phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài

bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn
sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ
nghĩa.
Ở nước ta hồi đó, có người đã phù họa với những luận điểm trên đây của các thế
lực thù địch. Họ kêu gọi Đảng ta từ bỏ con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cho rằng điều đó trái với quy luật phát triển của xã hội loài người, là ảo tưởng và
khẳng định đất nước phải phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ mỉa
mai : "Chủ nghĩa tư bản đâu có chết mà chỉ thấy chủ nghĩa xã hội đã chết mà
thôi" Mỗi lần chuẩn bị Đại hội Đảng, thu thập ý kiến đóng góp vào dự thảo nghị
quyết hay trước những khó khăn nào đó của công cuộc xây dựng đất nước, những
điều phản bác và khẳng định trên đây lại xuất hiện và có kẻ còn cho rằng : "xây
dựng chủ nghĩa xã hội gì mà lại thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị
trường, chính sách mở cửa và phải dựa vào chủ nghĩa tư bản" và họ khẳng định
"không có con đường phát triển nào khác ngoài con đường tư bản chủ nghĩa"
Mặt khác, nhiều người vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng của mình, vẫn tin theo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế
lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Nhất là vào lúc
này, khi Việt Nam không còn được sự trợ giúp của Liên Xô và các nước Đông Âu
nữa.
III. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý
luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết
luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải
quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm
no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Vậy, làm thế nào
để phát triển lên Chủ nghĩa xã hội khi thiếu mất một trong hai điều kiện khách
quan tất yếu? Việt Nam làm thế nào để đi lên Chủ nghĩa xã hội sau khi Liên xô và

Đông Âu sụp đổ?
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, xã hội ngày càng phát triển, đời sống
của người dân ngày một được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng lên cao, lịch sử
biến đổi và trải qua các giai đoạn phát triển, lại xuất hiện cơ hội mới cho đất nước
chúng ta, Việt Nam gia nhập kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua.
Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ. Vấn đề
đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, biết
cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, làm
cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong
sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Xu thế của thời đại là hội nhập và phát triển. Ngày nay không thể có một nước nào
đứng ngoài xu thế đó mà có thể nhanh chóng xây dựng đất nước thành công. Việt
Nam thực hiện chính sách mở cửa (chính thức áp dụng từ Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986). Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN,
năm 1996 gia nhập APEC và năm 2007 gia nhập WTO. Đổi mới về kinh tế được
thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực
hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa
Có thể thấy, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng
cách tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế
so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Như vậy vấn đề
đặt ra đối với Việt Nam không còn là “hội nhập” hay “không hội nhập” mà phải là
hội nhập như thế nào để tận dụng tốt cơ hội, giảm thách thức trong quá trình phát
triển của mình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động khó có thể dự đoán
trước được.
Như vậy, việc hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực, hình thành các
dạng liên kết kinh tế quốc tế luôn đưa lại cho Việt Nam những thuận lợi và những
khó khăn, những lợi ích kinh tế khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần tính toán cân
nhắc, lựa chọn để đưa ra những quyết định thích hợp trong quá trình hội nhập

nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao
Việc chúng ta hội nhập, thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác song phương, đa
phương là để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý để
xây dựng đất nước. Đó là con đường để đổi mới công nghệ, chuyển từ công nghệ
lạc hậu, năng suất lao động thấp lên công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao,
làm cho khoa học và công nghệ trở thành yếu tố bên trong của sản xuất, thành
động lực của nền kinh tế.
Dĩ nhiên hội nhập nhưng không hòa nhập, hợp tác nhưng không từ bỏ đấu tranh.
Chúng ta chỉ có thể tranh thủ được nguồn lực bên ngoài một khi biết phát huy cao
độ nguồn lực bên trong, đồng thời phải luôn luôn cảnh giác với kẻ thù đang thực
hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", sử dụng sức mạnh kinh tế để lũng đoạn sự
nghiệp chúng ta. Chúng ta càng không ảo tưởng, quá trông chờ vào bên ngoài, vì
chủ nghĩa đế quốc không bao giờ có thiện chí giúp chúng ta xây dựng chủ nghĩa
xã hội mà trước hết là vì lợi nhuận, vì sự tồn tại và phát triển của bản thân họ.
Như vậy, có thể thấy rằng, sự biến đổi của lịch sử khiến cái cũ mất đi, cái mới lại
xuất hiện. Chủ nghĩa xã hội ở Liên xô – Đông Âu sụp đổ, mẫu thuẫn lên đến đỉnh
cao giữa hai chiều hướng tư tưởng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, cùng với
sự biến đổi của lịch sử, cơ hội mới lại xuất hiện, Việt Nam mở cửa hợp tác quốc
tế, phát triển kinh tế, củng cố đời sống văn hóa xã hội để từng bước đi lên xã hội
chủ nghĩa.
PHẦN 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG XÃ
HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cần vạch ra
định hướng cụ thể xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối
ngoại…
I. KINH TẾ
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nướcgắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ

công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế;
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng
cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển
hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
II. CON NGƯỜI
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích
của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và
con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của
xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công
dân được học tập suốt đời.
III. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học
và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng
bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân
trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng

tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

KẾT LUẬN
Quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, phụ
thuộc vào quy luật khách quan độc lập với ý muốn của con người. Nhưng con
người lại hoàn toàn không bất lực trước quy luật. Con người có thể nhận thức
được quy luật khách quan và tạo ra điều kiện để quy luật phát huy tác dụng có lợi
cho mình. Đó là tính năng động chủ quan của ý thức xã hội của con người.
Vấn đề đặt ra ở đây là để kiến lập được chủ nghĩa xã hội phải nhận thức được bản
chất của chế độ, xác định đúng đắn mô hình mục tiêu, đánh giá đúng đắn những gì
xã hội ta đã có, những gì nay cần sáng tạo để đáp ứng yêu cầu của sự hình thành
xã hội mới, biết lựa chọn bước đi, hình thức, và phương pháp xây dựng thì sự
nghiệp sẽ thành công.
Thời đại ngày nay cho phép các nước kém phát triển đã hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, nhưng không cho phép bỏ qua việc xây dựng những tiền đề kinh tế, kỹ
thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó.
Chúng ta không tạo ra những tiền đề đó bằng con đường phát triển tư bản chủ
nghĩa thì phải tạo ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta hoàn toàn
có khả năng làm việc đó vì chúng ta có những yếu tố cơ bản bên trong của cách
mạng Việt Nam và những yếu tố bên ngoài của thời đại.

Chúng ta có Đảng lãnh đạo, có chính quyền của dân, do dân và vì dân, có mặt trận
đoàn kết toàn dân, có nhân dân anh hùng, có tài nguyên đa dạng và phong phú, có
nguồn lao động dồi dào, có đội ngũ tri thức ngày càng đông đảo, đất nước có vị trí
địa lý thuận lợi cho giao lưu.
Thời đại đang đưa lại cho chúng ta những thuận lợi mới. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đang phát triển như vũ bão và đã quốc tế hóa đời sống kinh tế
thế giới, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Khi chúng ta có chính
sách đúng đắn, biết phát huy nguồn lực bên trong làm cơ sở cho khai thác nguồn
lực bên ngoài thì có thể tranh thủ vốn, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý
của các nước phát triển để xây dựng đất nước, mặc dù đây không phải là việc làm
dễ dàng.
Với cách nhìn duy vật biện chứng, lịch sử luôn luôn biến đổi, nó có thể lấy đi cơ
hội của chúng ta nhưng cũng tạo cho chúng ta những cơ hội mới để phát triển.
Như vậy, chúng ta có thể giải quyết được mâu thuẫn ở Việt Nam khi phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin - Bộ giáo dục và đào tạo
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
3. Hồ Chí Minh (2002), Tuyển tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Các website:







/>

×