Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

QUẢN LÝ HÀNG TỒN KHO TRONG CHUỖI CUNG ỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.3 KB, 33 trang )

BÀI TẬP NHÓM 6
QUẢN LÝ CHUỖI CUNG CẤP TOÀN CẦU
Giáo viên giảng dạy: TS. Nguyễn Văn Nghiễn
Danh sách học viên nhóm 6:
Bùi Xuân Tiệp
Nguyễn Thị Hoàng Trang
Phạm Thanh Tình
Vũ Mạnh Triều
Hoàng Văn Trình
Nguyễn Thị Thương
1
CHƯƠNG 6
QUẢN LÝ HÀNG TỒN KHO TRONG CHUỖI CUNG ỨNG
MỤC TIÊU
 Hiểu được tầm quan trọng của sự phối hợp hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng.
 Đánh giá được vai trò và tầm quan trọng của hàng tồn kho trong nền kinh tế.
 Hiểu được những lý do chính về việc dự trữ hàng tồn kho.
 Thảo luận các loại chi phí liên quan đến hàng tồn kho và mối quan hệ của chúng đến
việc ra quyết định về dự trữ hàng tồn kho của doanh nghiệp.
 Hiểu được cách phân loại các danh mục hàng tồn kho.
 Thảo luận, đánh giá hiệu quả các doanh nghiệp trong việc quản lý hàng tồn kho của
họ.
TÌNH HUỐNG CỦA MICROS AND MORE
"HTK, HTK, HTK, Tôi phát ốm và mệt mỏi khi suốt ngày phải nghe những lời phàn
nàn về mức độ hàng tồn kho và những khoản chi phí liên quan đến việc dự trữ hàng tồn kho"
Jim Gatto càu nhàu, giám đốc điều hành và là người đồng sáng lập Micros and More. "Tôi
phải làm gì đây?". Chúng ta cần HTK để cho việc lắp ráp máy tính và chúng ta cần HTK để
đáp ứng yêu cầu dịch vụ khách hàng của chúng tôi. Tôi biết rằng, có quá nhiều HTK sẽ làm
tăng giá hàng hóa khi bán ra, điều này có nghĩa là giá cả sẽ cao hơn hay lợi nhuận biên thấp
hơn. Kể từ đó, các bài báo về máy tính Dell được xuất bản trên tờ Business Week chỉ ra rằng,
họ quay vòng hàng tồn kho 15 lần 1 năm và họ mong đợi sẽ đạt đến 75 vòng, một số người


xung quanh đây có cái nhìn chê bai định hướng của tôi. Tôi không thể dùng cây đũa thần để
biến hết hàng tồn kho đi rồi lại làm chúng xuất hiện khi tôi cần được. Lần đầu tiên chúng tôi
thiếu các linh kiện cho một trong những máy tính mà chúng tôi lắp ráp trong nhà máy hay
chúng tôi cũng không thể giao các linh kiện để sửa chữa những máy tính mà chúng tôi đã bán
cho Penn State hay Raytheon, tôi như bất động trong hình nộm. Dường như tôi trở lên bất
lực Trong những ngày này, tôi cảm thấy như là vật tế thần của tất cả mọi người.
Jim Gatto ở trong văn phòng một mình, bởi vậy không ai nghe được cuộc độc thoại của
anh. Jim quá nhạy cảm về những lời nhận xét được đưa ra trong cuộc họp Ban giám đốc, khi
kế toán trưởng của Miros và More,Terry Edwards xem xét những dữ liệu tài chính hiện tại.
Lớn giọng nhất là Dr Roy Buck, một giáo sư đã về hưu từ Penn State và cũng là cổ đông
chính. Ông ấy là người đã phân phát báo Business Week trong nhiều tháng nay và nói đi nói
lại về vấn đề dư thừa HTK. Vấn đề ở đây là rất nhiều thành viên trong Ban giám đốc, đặc biệt
là Tiến sĩ Buck không hiểu được vai trò của HTK trong 1 doanh nghiệp. Đối với họ, HTK là
một chi phí mà làm tăng giá bán của hàng hóa bán ra. Nó nên để ở mức tối thiểu và loại bỏ
nếu Micros and More tiếp tục tăng trưởng và có lợi nhuận.
Doanh nghiệp cổ phần hóa vào năm 1995 và bán cổ phiếu thông qua các doanh nghiệp
môi giới địa phương. Nó trở thành cổ phiếu hấp dẫn và đã thu hút khá nhiều nhà đầu tư. Hội
đồng của họ bao gồm các cổ đông lớn như Tiến sĩ Buck và cả những giám đốc doanh nghiệp
địa phương như chủ tịch khu vực của ngân hàng Mellon Ralph papa và nhà phát triển bất
động sản Ed Friedman
Bối cảnh hiện tại
2
Micros and More đã đa dạng hóa dòng sản phẩm và mở rộng đối tương khách hàng để
tiếp tục gia tăng thị phần. Sản lượng bán hàng đã đạt được ngưỡng 10 tỷ đô la trong năm
2000. Điều này đã luân chuyển vốn từ một khoản vay lớn ở ngân hàng Mellon thành đầu tư
xây dựng nhà máy và nhà kho mới ở Clearfield, Pennsylvania, với hy vọng để bán máy tính tới
Walmart, nơi mà có 1 nhà kho lớn gần Clearfield. Đây là tầm nhìn phát triển kinh doanh bước
sang một nấc thang mới.
Bối cảnh doanh nghiệp
Micros and More được thành lập năm 1985 ở Houtzadle, Pennsyl Vania bởi 2 người

bạn có những kinh nghiệm bổ sung cho nhau và có những sở thích tương đồng trong kinh
doanh. Jim Gatto đã hoàn thành một khóa học về khoa học máy tính năm 1982 ở Penn State
và đã làm việc ở FishKill, New York, Doanh nghiệp máy điện toán IBM của Hoa Kỳ. Terry
Edwards từng học chuyên ngành tài chính ở Đại học Clarion và đã từng làm việc cho ngân
hàng Mellon ở Pittsburgh trong nhiều năm nơi mà anh chuyên về hỗ trợ các doanh nghiệp địa
phương nhỏ với nghiệp vụ ngân hàng và các vấn đề tài chính liên quan.
Jim và Terry đã có cuộc đối đầu nhau trong trận đấu bóng đá và đấu vật ở trường
trung học và họ trở thành bạn của nhau từ đó. Họ làm việc cùng nhau trong suốt hè cho một
doanh nghiệp xây dựng đường quốc lộ sau khi tốt nghiệp trung học. Họ duy trì liên lạc trong
suốt thời gian học đại học và những công việc đầu tiên của mình. Trong kỳ nghỉ Giáng sinh
năm 1984, họ đã đi uống bia cùng nhau và bàn về việc muốn làm việc cho chính họ. Cả 2 đều
đam mê với công nghệ máy tính và họ muốn bắt đầu với doanh nghiệp máy tính riêng của
mình tại trung tâm Pennsylvania. Họ góp vốn, vay mượn từ nhiều nguồn khác nhau và bắt đầu
hoạt động tại một nhà máy dệt may cũ ở Houtzdale, Pennsylvinia. Tầm nhìn kinh doanh của
họ là cung cấp máy tính theo yêu cầu cho sinh viên các trường đại học và các doanh nghiệp
nhỏ, cung cấp phần mềm đáp ứng nhu cầu của những khách hàng lẻ, cung cấp dịch vụ khách
hàng, mà họ xác định rằng nó vượt quá sự mong đợi của bất kỳ ai.
Với sự may mắn và làm việc chăm chỉ, doanh nghiệp đã phát triển và thành đạt với con
số đáng kể từ năm 1985 đến năm 1995. Nhà máy ở Houtsdale đã được mở rộng và có gần 200
nhân công ở đây. Họ đã chuyển trụ sở chính của họ đến trường đại học State Pennsylvinia bởi
vì gần Penn State và sự mọc lên của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực lân cận. Penn
State đã thiết lập một khu nghiên cứu để bảo trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ. Research
Park chính là nơi mà Micros and More đặt những văn phòng đầu tiên ở đó.
Sự suy thoái năm 2000 là một bước ngoặt cho Micros and More. Ngành công nghệ máy
tính cũng bị cuốn vào dòng xoáy này. Sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất lớn hơn về quy mô
và tài chính càng trở lên khắc nghiệt. Máy tính đã trở thành hàng hóa và được chào bán.
Doanh nghiệp máy tính đang đối mặt với khả năng lợi nhuận biên giảm. Và một nhu cầu thiết
thực là cắt giảm chi phí để duy trì sản lượng bán ở mức giá cạnh tranh.
Jim Gatto nhận ra rằng, là một giám đốc điều hành, ông ấy đóng một vai trò quan
trọng cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Hàng tồn kho chắc chắn là một trong những mục tiêu

trọng tâm cần xem xét không chỉ là vấn đề quản lý kiểm soát hàng tồn kho mà còn mối quan
hệ của chúng với những yếu tố khác và khách hàng trong toàn bộ chuỗi cung ứng của doanh
nghiệp. Khi bạn đọc chương này, bạn hãy cân nhắc đến những thách thức của Jim Gatto. Giả
sử bạn phải giúp ông ta hiểu được vai trò cũng như tầm quan trọng của HTK. Ông ấy cũng
cần có sự hiểu biết sâu sắc về các khoản chi phí liên quan đến HTK.
3
LỜI GIỚI THIỆU
Tầm quan trọng của hàng tồn kho
Như đã trình bày trong chương 1, việc quản lý hiệu quả hàng tồn kho trong chuỗi cung
ứng là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến thành công, trong chương 2 một trong
những định nghĩa đề cập đến quản lý hậu cần là “quản lý hàng tồn kho là sự vận động hay là
ngừng nghỉ”. Hàng tồn kho là một tài sản trên bảng cân đối của doanh nghiệp, đảm nhận vai
trò quan trọng bởi vì chiến lược của các hãng là giảm đầu tư vào TSCĐ như nhà xưởng, nhà
kho, nhà văn phòng và các máy móc thiết bị Việc giảm đầu tư vào các tài sản cố định thông
qua thuê từ đó làm ảnh hưởng đến việc gia tăng các chi phí. Kết quả cuối cùng là các khoản
mục tài sản trên bảng cân đối kế toán giữ một vị trí khá quan trọng, đặc biệt là hàng tồn kho.
Tác động đến tài sản
Sự thay đổi hàng tồn kho ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA). Tỷ
suất lợi nhuận ròng trên tài sản là một chỉ số tài chính quan trọng từ trong và ngoài. Giảm
hàng tồn kho thường cải thiện tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản, là một con số tích cực về
hiệu suất cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Sự đối ngược này hiển nhiên đúng khi đầu
tư hàng tồn kho tăng lên nếu không bù đắp được sự gia tăng doanh thu. Ngay từ phần đầu
chương, Jim Gatto của Micros and More cũng đang phải đối mặt với vấn đề này. Khi lượng
bán suy giảm, hàng tồn kho tăng lên, là một con dao hai lưỡi vào lợi nhuận, có nghĩa là doanh
số bán hàng thấp hơn và chi phí nhiều hơn, nhưng nó cũng có một tác động tiêu cực vào tỷ
suất lợi nhuận ròng ROA - hay nói cách khác, ROA giảm.
Cân bằng cung - cầu
Thách thức nữa đối với vấn đề quản lý hàng tồn kho là cân đối giữa cung hàng tồn kho
và cầu đối với hàng tồn kho. Nói cách khác doanh nghiệp cũng muốn có đủ hàng tồn kho để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhưng lại không muốn có quá nhiều hàng tồn kho vì liên

quan đến chi phí cho nó, đủ nhưng không quá nhiều đó là mục tiêu của doanh nghiệp. Chương
này và chương sau sẽ thảo luận về bản chất và vai trò của hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng
chỉ ra được những thách thức gặp phải trong vấn đề cung ứng và quản lý chuỗi cung ứng.
Trọng tâm chính của chương này đó là vấn đề quản lý hàng tồn kho hiệu quả, các khoản chi
phí liên quan đến hàng tồn kho cũng như vấn đề phân loại chúng.
HÀNG TỒN KHO TRONG NỀN KINH TẾ
Hàng tồn kho liên quan đến GDP
Trong suốt 2 thập kỷ qua (1980 và 1990) hàng tồn kho là tâm điểm chú ý của các doanh
nghiệp. Phải thừa nhận rằng, các doanh nghiệp dự trữ quá nhiều hàng tồn kho và kết quả là chi
phí cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ đã tăng lên. Như thực tế hàng tồn kho của các Doanh
nghiệp của Nhật được công khai hóa rất tốt. Đầu những năm 1970, doanh nghiệp ô tô Ford
ước tính, họ đang dự trữ nhiều hơn khoảng 15 lần hàng tồn kho so với tồn kho của Toyota, đây
là một bất lợi trong cạnh tranh. Trong suốt những năm 1990, Định hướng quản lý chuỗi cung
ứng đã chú ý đến tầm quan trọng của việc giảm thiểu hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng để
giảm các chi phí ở cuối chuỗi cung ứng.
Những kết quả của việc "tấn công" vào chi phí hàng tồn kho có thể được chứng minh từ
thông tin cung cấp trong bảng 6-1, cho thấy chi phí hàng tồn kho liên quan với tổng sản phẩm
quốc dân từ năm 1985 đến 2000. Như bạn chờ đợi, mức độ và giá trị hàng tồn kho tăng lên
cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, được đo lường bởi tổng sản phảm quốc dân
(GDP). Tuy nhiên vấn đề quan trọng là liệu tổng chi phí hàng tồn kho trong nền kinh tế có
4
tăng với tỷ lệ tương ứng với sự tăng trưởng nền kinh tế. Tỉ lệ tăng thấp rõ ràng chỉ ra sự cái
tiến tích cực rong việc giảm cấp độ hàng tồn kho. Cột 2 cho thấy tổng giá trị của hàng tồn kho
ở doanh nghiệp mỗi năm từ 1985 đến 2000. Cột 3 cho thấy tỷ lệ chi phí dự trữ hàng tồn kho
mỗi năm, phản ánh tỷ lệ lãi suất và các nhân tố khác đã được thảo luận. Cột 4 là kết quả của
cột 2 nhân với cột 3. Cột 5 là tổng sản phẩm quốc dân GDP. Cột 6 là chi phí dự trữ hàng tồn
kho cũng như % GDP.
Nếu chúng ta so sánh năm 1985 với năm 2000, chúng ta sẽ thấy có một sự thay đổi
đáng kế, % hang tồn kho trên GDP giảm từ 5,4 xuống còn 3,8%, trong khi chi phí dự trữ hàng
tồn kho tăng từ 227 tỷ lên 377 tỷ, nói một cách tương đối thì những chi phí này đã giảm một

cách đáng kể. Kết luận lại, những nỗ lực để giảm thiểu hàng tồn kho đã thành công. Thật dễ
dàng để thấy rằng, đã có những giai đoạn thăng trầm. Ví dụ năm 1988 là 4,9% đến năm 1989
là 5,2%. Tương tự cũng có một sự gia tăng từ năm 1994 - 1995 (3,8% - 4,1%) và từ 1999 -
2000 (3,6% - 3,8%) với sự tăng lên trong chi phí dự trữ hàng tồn kho. Trong khi xu hướng lại
giảm dần, những thay đổi từ năm này sang năm cho thấy nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với
các yếu tố biến động.
Sự sụt giảm tương đối trong hàng tồn kho
Sự tập trung của chúng ta chắc chắn theo đúng hướng, rõ ràng giảm chi phí dự trữ hàng
tồn kho - một số liệu tích cực cho nền kinh tế và các tổ chức kinh doanh nói chung. Như đã
nêu, các khoản chi phí liên quan đến hàng tồn kho sẽ nằm trong giá của sản phẩm và dịch vụ.
Sự giảm trong chi phí hàng tồn kho, đặc biệt là nếu không có sự suy giảm trong dịch vụ khách
hàng có lợi đối với cả người bán và người mua.
Nhu cầu hàng tồn kho
Như đã được thảo luận ở chương 2, không chỉ những khoản chi phí liên quan đến việc
dự trữ hàng tồn kho giảm xuống trong suốt 15 năm trước mà còn cả chi phí vận chuyển tương
5
đối cho hàng tồn kho cũng giảm. Tác động kết hợp của hàng tồn kho và sự vận chuyển trong
nền kinh tế những năm 1990 đã là một nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phồn
thịnh, giúp cho các doanh nghiệp của Mỹ có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Tiếp tục xu hướng giảm lượng hàng tồn kho rõ ràng là quan trọng, khung phân tích
chuỗi cung ứng mà chúng tôi đã thảo luận dẫn đến hiệu quả cao hơn của hàng tồn kho. Tuy
nhiên, lưu ý rằng hầu hết các tổ chức cần phải thực hiện một số hàng tồn kho, quan trọng hơn,
mang hàng tồn kho trong thực tế có thể cho phép một tổ chức giảm chi phí trong một phạm vi
liên quan, ví dụ như hậu cần hoặc sản xuất. Khái niệm chi phí chi phí cơ hội(sự cân bằng các
yếu tố khác nhau để đạt được sự kết hợp tốt nhất/tổng thể) được thảo luận trong Chương 2 có
liên quan đến việc đánh giá sự cần thiết dự trữ hàng tồn kho. Phần tiếp theo tìm hiểu những lý
do chính mà các doanh nghiệp thực hiền hàng tồn kho và việc cân bằng các yếu tố khác nhau
để đạt được sự kết hợp tốt nhất trong chi phí;
Quay vòng hàng tồn kho
Nghĩ đến quay vòng hàng tồn kho như là một thước đo các sản phẩm của một doanh

nghiệp tốt như thế nào trên thị trường cũng như vấn đề quản lý hàng tồn kho tốt như thế nào.
Điều này được hiểu là số lần trong một năm các doanh nghiệp cũng như các nhà bán lẻ và nhà
sản xuất có thể bán hoặc sử dụng toàn bộ hàng tồn kho nguyên liệu thô hoặc thành phẩm.
Doanh nghiệp càng có thể quay vòng được hàng tồn kho bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Lý
do rất đơn giản: Các doanh nghiệp muốn chuyển đổi hàng hóa và vật liệu vào tiền mặt càng
nhanh càng tốt. Ngoài ra, chi phí vào hàng tồn kho tốn rất nhiều tiền, cả về vốn trong các sản
phẩm tồn kho và các chi phí liên quan đến kho hàng, vì thế, doanh nghiệp muốn đẩy hàng tồn
kho của nó ra khỏi cửa nhanh hơn, lợi nhuận trên đầu tư hàng tồn kho cao hơn và dòng chảy
tiền mặt của nó tốt hơn.
Ông Andy Chatha, một nhà phân tích của tập đoàn tư vấn ARC"Bất cứ khi nào bạn dự
trữ hàng tồn kho, nó có nghĩa là nguồn lực của bạn không tạo ra dòng chảy tiền mặt", một nhà
tư vấn sản xuất trong Dedham, Massachusetts cũng nói "lý tưởng nhất, bạn muốn có hàng tồn
kho bằng không, nếu bạn muốn tối đa hóa dòng tiền”. Ông Chacha cho hay số lượng trung
bình quay vòng hàng tồn kho thay đổi rất nhiều bởi ngành công nghiệp và các doanh nghiệp
trong phân đoạn ngành công nghiệp. Ví dụ, tỷ lệ này là đặc biệt quan trọng trong các ngành
công nghiệp phải đối mặt với giá cả đáng kể và áp lực cạnh tranh, lợi nhuận thấp, và tỷ lệ lỗi
thời nhanh chóng. Chúng bao gồm các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp ô tô, điện tử
tiêu dùng, và máy tính, cộng với các nhà bán lẻ của tất cả các loại, các nhà phân tích. Các
doanh nghiệp trong các lĩnh vực có tỷ lệ hàng tồn kho có doanh thu cao, vì chi phí giữ hàng
hoá trong siêu cạnh tranh, nhanh chóng phát triển các khu vực có thể là không thể chấp nhận
được cao. Một số doanh nghiệp như máy tính Dell được xem như có nhiều chuyên gia là một
trong những nhà lãnh đạo trong quản lý hàng tồn kho có tỷ lệ doanh thu là khoảng 30-40 lần
mỗi năm.
Ông David Monroe, một nhà phân tích tại Tập đoàn Nghiên cứu PlantWide, phía Bắc
Billerica, nhà tư vấn sản xuất có trụ sở tại Massachusetts cho hay các doanh nghiệp được
hưởng lợi từ cải thiện quay vòng hàng tồn kho, thậm chí với khối lượng tương đối hoặc sản
phẩm phát triển chậm, bởi vì các cùng yếu tố chi phí mà các doanh nghiệp với các sản phẩm
phát triển nhanh. Ông cũng nói "thực tế, các ngành công nghiệp duy nhất không phải lúc nào
cũng là trong hàng không vũ trụ và quốc phòng," sự cần thiết phải duy trì lượng tồn kho các
mặt hàng trong thời gian dài hơn thời gian là một phần của mô hình kinh doanh bởi vì tỷ lệ lỗi

thời thấp hơn,.
Trở nên tốt hơn ở mọi thời đại
6
Một nghiên cứu được công bố trong tháng 12 năm 1999 bởi doanh nghiệp quản lý
Pittiglio, Rabin, Todd, & McGrath ở Waltham, Massachusetts, cho thấy rằng các doanh nghiệp
Mỹ đã cải thiện đáng kể quay vòng hàng tồn kho của họ trong những năm qua. Theo báo cáo,
vòng quay hàng tồn kho của Mỹ tăng hơn 12% từ năm 1994 đến 1998 với trung bình 5,4 lượt
hàng năm. Báo cáo cũng chỉ ra trong cùng thời gian, trung bình tiền mặt, và số ngày trả tiền
cho nguyên liệu và nhận được thanh toán cho các sản phẩm cải thiện bằng 10% đến 100 ngày.
Báo cáo cho biết điều chỉnh vòng quay hàng tồn kho là cách để giải quyết giảm lợi
nhuận và làm chậm tăng trưởng hàng năm. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lớn của Mỹ cũng đã
đầu tư hàng triệu đô la trong vài năm qua để tự động hóa quy trình quản lý hàng tồn kho của
họ bằng cách sử dụng các công cụ quản lý chuỗi cung ứng phức tạp.
Ông Monroe cho hay ,việc chuyển đổi liên tục từ các mô hình sản xuất dự báo truyền
thống tới mô hình linh hoạt hơn như nhu cầu xây dựng, trinh tự xây dựng và sản xuất dòng
chảy cũng đang thay đổi cái cách mà cách nhìn của các doanh nghiệp vào hàng tồn kho. Việc
nhấn mạnh một chuỗi cung ứng tích hợp đầy đủ có nghĩa là hàng tồn kho hầu như không tốn
nhiều thời gian không sử dụng.
Nguồn: Jaikumar Vijayan, Computerworld, Framingham, Mass (7 tháng 5, 2001).
Việc tiếp tục tập trung vào việc giảm mức độ hàng tồn kho rõ ràng là quan trọng và
khung chuỗi cung ứng mà chúng ta đang thảo luận dẫn đến hiệu quả tồn kho bổ sung. Tuy
nhiên, cần phải chú ý lại là hầu hết các doanh nghiệp cần dự trữ một số hàng tồn kho, quan
trọng hơn dự trữ hàng tồn kho còn cho phép các doanh nghiệp giảm chi phí ở phạm vi liên
quan khác như vận chuyển hay sản xuất. Khái niệm chi phí đánh đổi được trao đổi ở chương 2
đề cập việc đánh giá nhu cầu của dự trữ hàng tồn kho. Phần tiếp theo sẽ đưa ra lý do chính mà
các doanh nghiệp cần dự trữ hàng tồn kho và chi phí đánh đổi.
HÀNG TỒN KHO TRONG CÁC DOANH NGHIỆP - CƠ SỞ HỢP LÝ CHO HÀNG
TỒN KHO
Doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
Như đã nêu trước đó, hàng tồn kho đóng một vai trò kép trong doanh nghiệp. Hàng tồn

kho không những ảnh hưởng đến chi phí bán hàng mà giúp đáp ứng đơn hàng (dịch vụ khách
hàng).
Bảng 6-2 chỉ ra tổng hậu cần cho nền kinh tế và chỉ ra rằng chi phí dự trữ hàng tồn kho trung
bình khoảng 35% tổng chi phí hậu cần cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản phẩm tiêu
dùng và các nhà bán buôn và bán lẻ là một phần của kênh phân phối đang phải đối mặt với
một thách thức đặc biệt trong việc giữ hàng tồn kho ở mức chấp nhận được,
7
bởi vì khó khăn trong việc dự đoán nhu cầu và mong muốn của khách hàng về sản phẩm có
sẵn nào. Cả hai về các yếu tố này trở nên trầm trọng thêm bởi sự gia tăng của dòng sản phẩm
của họ.Ví dụ, nếu Kimberly-Clark ước tính và dự báo nhu cầu cho tã dùng một lần trong quý
đầu tiên của năm tiếp theo là 5 triệu tá tã, họ sẽ phải giảm có số này bằng đơn vị phân loại
hàng hóa tồn kho SKU, dựa trên màu sắc/thiết kế, loại bao gói, thiết kế Do đó, sẽ có hơn một
nghìn đơn vị tồn trữ khác nhau (SKU) mà yêu cần cần dự báo riêng và mức độ tồn kho an
toàn. Sở thích của người tiêu dùng có thể thay đổi nhanh chóng điều này làm cho mức tồn
kho trở lên đặc biết để có thể đáp ứng được yêu cầu dịch vụ của khách hàng. Để minh họa mặt
chi phí của những thách thức, giả định rằng Kimberly-Clark dự kiến để thực hiện một hàng tồn
kho trung bình hàng tháng trong quý đầu tiên của năm là 500.000 chục tã (hãy nhớ rằng nó sẽ
được sản xuất mỗi ngày tại các nhà máy khác nhau của nó). Nếu mỗi tá tã có giá trị tại $ 5,00,
giá trị của hàng tồn kho sẽ là $ 2.500.000 ($ 5 × 500.000). Nếu chi phí của nó mang hàng tồn
kho (được giải thích chi tiết hơn) là 20%, đồng đô la chi phí của nó mang giá trị tồn kho sẽ là
$ 500.000 trên một cơ sở hàng năm. (Hãy nhớ rằng, điều này là chỉ dành cho tã,
không phải tất cả các sản phẩm giấy của Kimberly-Clark). Nếu hàng tồn kho trung bình thay
đổi 600.000 tá, điều này sẽ dẫn đến một $ 100.000 chi phí hàng tồn kho. Nếu tăng trong hàng
tồn kho trung bình không kèm theo sự gia tăng doanh số bán hàng, sau đó Kimberly-Clark sẽ
phải đối mặt với một mức lợi nhuận giảm. Hy vọng rằng, điều này dã chỉ ra rằng việc quản lý
hàng tồn kho là một yếu tố quan trọng cho thành công trong nhiều doanh nghiệp. Đáng ngạc
nhiên, có lẽ, nhiều doanh nghiệp đã phản ứng những thách thức, như được chỉ ra bởi các dữ
liệu vĩ mô trong phần trước và có giảm mức hàng tồn kho trong khi vẫn duy trì mức độ dịch
vụ khách hàng phù hợp.Khả năng của họ để đạt được các mục tiêu song sinh của hàng tồn kho
thấp hơn (hiệu quả), xét duyệt cá nhân dịch vụ khách hàng (hiệu quả) được dựa trên một số

yếu tố thảo luận trong chương này và chương tiếp theo. Một điểm khởi đầu tốt đẹp là một sự
8
hiểu biết của lý do tại sao các doanh nghiệp thường phải để hàng tồn kho và việc đánh đổi và
các mối quan hệ.
Tồn kho chu kỳ
Tiết kiệm cùng lô hoặc tồn kho chu kỳ thường xuất phát từ ba nguồn - mua lại, sản
xuất, và / hoặc vận chuyển. Quy mô nền kinh tế thường gắn liền với tất cả ba nguồn và điều
này dẫn đến việc tích lũy hàng tồn kho chưa được sử dụng hoặc bán
luôn - có nghĩa là sẽ có tồn kho chu kỳ hoặc hàng tồn kho sẽ được sử dụng hết hoặc bán ở
một thời điểm nào đấy.
Trong phạm vi tiếp nhận hoặc mua bán , điều này chả có gì lạ để có một lịch trình của
giá cả phản ánh số lượng mua, đó là, đơn giá thấp hơn cho số lượng nhiều.Giảm giá mua cũng
được phổ biến cho các mặt hàng tiêu dùng cá nhân; ví dụ: hộp xà phòng lớn hay ngũ cốc
thường được bán với một mức giá thấp hơn cho mỗi ounce. Khi chúng tôi mua hộp lớn hơn,
chúng tôi có chu kỳ tồn khõ. Những gì chúng tôi không sử dụng luôn, nó sẽ được lưu trữ. Khi
các doanh nghiệp mua nguyên liệu, vật tư, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn cầu của chúng ta,
họ thường được chào giảm giá cho số lượng lớn hơn. Logic đánh đổi đã được đề cập cho thấy
rằng các khoản tiết kiệm giảm giá phải được so sánh với chi phí thực hiện việc tồn kho bổ
sung. Điều này sẽ được phân tích cụ thể trong chương tới. Mặc dù khung phân tích có sẵn để
phân tích chiết khấu thương mại, có những trường hợp hai doanh nghiệp chỉ tập trung vào các
khoản tiết kiệm giá và điều chỉnh giảm giá so với chi phí hàng hóa bổ sung.
Giảm cước vận chuyển
Hình thức giảm giá xảy ra trong dịch vụ hậu cần. Các doanh nghiệp hậu cần thường
chào giá giảm cho nhập hàng với số lượng lớn. Trong ngành vận chuyển ôto, một ví dụ phổ
biển là giá sẽ thấp cho vận chuyển cả 1 xe tải. Các doanh nghiệp hậu cần tiết kiệm chi phí
trong việc giao nhận và phí xếp dỡ , những chi phí này phản ánh vào giá cước cho người chở
hàng. Gía của trọng lượng hậu cần xe tải chỉ là một ví dụ cho vận chuyển loại động cơ; có số
lượng giảm giá bổ sung có sẵn. Số lượng lô hàng lớn hơn để điều chỉnh cho việc giảm giá có
tác dụng tương tự như số lượng mua nhiều cụ thể là tồn kho chu kỳ. Yêu cầu đánh đổi là như
nhau. Liệu tiết kiệm chi phí nhiều hơn có bù đắp chi phí dự trữ thêm hàng tồn kho?

Điều này cần lưu ý là cách tiết kiệm trong giá mua và tiết kiệm chi phí hậu cần có thể
bù nhau. Đó là , khi các doanh nghiệp mua với số lượng lớn nguyên liệu thô hoặc vật tư, họ có
thể vận chuyển số lượng lớn hơn kết quả là giảm giá hậu cần. Vì vậy, họ thường xuyên nhận
đuowcj 2 giá giảm cho cùng một mặt hàng mua, điều này có thể làm cho việc đánh giá đánh
đổi là tích cực, tuy nhiên, điều này vẫn cần được phân tích. Như đã được thảo luận, một trong
những thách thức lớn cho các doanh nghiệp là không thể tính toán chi phí hậu cần chính xác
Tiết kiệm sản xuất
Tiết kiệm cùng loại hàng thứ ba liên quan với sản xuất hoặc chế tạo. Nhiều doanh
nghiệp nhận ra rằng chi phí sản xuất của họ trên một đơn vị đã giảm đáng kể khi họ phải sản
xuất lâu cho cùng một sản phầm. Duy trì sản xuất kéo dài hay cùn một lô sẽ dẫn đến tồn kho
chu kỳ cho đến khi chúng được bán. Như trước đây, doanh nghiệp chỉ tính toán kéo dài sản
xuất để giảm chi phí cho từng một đơn vị mà không đánh giá chi phí dự trữ hàng tồn kho của
mình, điều này có thể là cao cho hàng thành phẩm. Thêm vào đó, là mối quan tâm đến sự lỗi
thời của hàng thành phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp trải qua tồn kho chu kỳ ngay cả khi họ
không sản xuất bởi vì mua lại hoặc sức mua của nhà cung cấp. Rõ ràng, tồn kho chu kỳ có thể
mang lại lợi ích lâu dài như các phân tích đã được tiến hành tới chi phí điều chỉnh hàng tồn
kho.
Sự bất định/ mức tồn kho an toàn
Lý do cho sự bất định
9
Tất cả các doanh nghiệp thường phải đối mặt với sự bất định phát sinh từ nhiều nguyên
nhân. Về phía nhu cầu hoặc từ phía khách hàng khi mà luôn luôn không có sự chắc chắn về
bao nhiêu khách hàng sẽ mua và khi nào. Dự báo nhu cầu là một tiếp cận thông thường để
giúp giải quyết cho sự không chắc chắn nhưng điều này không bao giờ hòan toàn chính xác.
Xét về nguồn cung cấp, không thể chắc chăn là điều gì sẽ cần từ phía người mua hàng hay từ
phía người cùng cấp và mất bao lâu để đáp ứng xong đơn đặt hàng. Sự bất định có thể phát
sinh từ hậu cần về việc giao hàng đáng tin cậy. Kết quả của sự không chắc chắn thường là
giống nhau: các doanh nghiệp tích lũy tồn kho an toàn để giúp mình chống lại sự không chắc
chắn, các thách thức và phân tích khác nhau cho tồn kho an toàn hơn cho tồn kho chu kỳ; tồn
kho an toàn là rất phức tạp và đầy thách thức để quản lý cho nhiều doanh nghiệp. Như Jim

Gatto đã phải kêu lên trong trường hợp của Micros and More, nếu dây chuyền sản xuất ngưng
trệ vì sự thiếu hụt nguồn cung cấp hoặc một khách hàng lớn không được giao hàng , nó sẽ phát
sinh vấn đề. Việc phân tích sự đánh đổi là thích hợp và có thể được thực hiện bằng cách sử
dụng các công cụ thích hợp (sẽ được thảo luận sau) để đánh giá rủi ro và thước đo chi phí
hàng tồn kho. Thêm vào đó, các doanh nghiệp ngày nay đang dùng một phương pháp tiếp cận
chủ động hơn để giảm sự bất định như đã chỉ ra ở chương I và Chuơng II như là sử dụng sức
mạnh của thông tin để giảm sự không chăc chắn và kết quả là, nhu cầu cho tồn kho an toàn.
Bạn có thể nhớ lại điều này trước đây rằng thông tin là một thay thế cho hàng tồn kho. Điều
này sẽ được thảo luận chi tiết hơn ở chương sau, có nghĩa là một cuộc cách mạng thông tin vì
công nghệ bây giờ đã có để truyền thông tin với chất lượng lạc hậu hay tiên tiến trong một
chuỗi cung ứng. Sự cộng tác trong việc chia sẻ thông tin trong một số chuỗi cung ứng đã có
kết quả đáng kể trong việc giảm hàng tồn kho / chi phí và thực sự cải thiện dịch vụ cùng một
lúc. Hợp tác lập kế hoạch và yêu cầu dự báo (CPFR) là một ví dụ tuyệt vời của phương pháp
tiếp cận như vậy. Tinh vi mã vạch, thẻ RF, EDI, Internet, và như vậy có doanh nghiệp cho
phép làm giảm sự không chắc chắn.Tuy nhiên, điều này không phải là có thể loại bỏ sự không
chắc chắn hoàn toàn, vì thế, các công cụ phân tích vẫn cần để làm thước đo cho sự đánh đổi.
Thời gian / Quản trị vận chuyển và tồn kho bán thành phầm
Thời gian kết hợp với vận chuyển, ví dụ, từ ngưới bán hàng tới nhà máy sản xuất, Cần
có thời gian để lắp ráp hoặc sản xuất ra một sản phẩm phức tạp (ô tô hay máy tính) . Có nghĩa
là, ngay cả trong khi hàng hoá, vật liệu đang vận chuyển, có là chi phí hàng tồn kho liên quan
đến khoảng thời gian. Thời gian càng dài, chi phí càng cao.
Thời gian cho tồn kho trong quá trình vận chuyển (trong và / hoặc ngoài nước) và hàng
tồn kho bán thành phẩm được đánh giá trong điều kiện đánh đổi phù hợp.Điều này sẽ được
thảo luận trong chương sau, các lựa chọn thay thế hậu cần có sẵn để vận chuyển hàng hóa có
thể có thời gian vận chuyển khác nhau cũng như sự khác biệt mức độ dịch vụ, ví dụ như độ tin
cậy và thiệt hại. Cước/giá phải trả cho các hãng hậu cần thường phản ánh sự khác biệt dịch vụ.
Ví dụ, dịch vụ hậu cần hàng không nhanh nhất và đáng tin cậy nhất, nhưng mức giá của dịch
vụ hậu cần hàng không cao hơn hẳn so với phương tiện động cơ hoặc dịch vụ đường sắt. Nếu
giao hàng qua đêm từ London, Anh, tới thành phố New York nhưng việc vận chuyển cần 8-
10 ngày, liệu cước sẽ cao hơn không bởi tiết kiệm chi phí tồn kho ? Thời gian vận chuyển

càng lâu thì cước hàng hậu cần tồn kho càng cao và mà có lẽ là chi phí liên quan đến dịch vụ
khách hàng. Điều này có thể đánh giá đựoc sự đánh đổi và đưa ra quyết định hợp lý
Hàng tồn kho bán thành phẩm trong quá trình được kết hợp với chế tạo/sản xuất. Số
lượng hàng tồn kho đáng kể có thể được tích lũy trong các cơ sở sản xuất, đặc biệt là trong
hoạt động lắp ráp như ô tô và máy tính. Thời gian kéo dài của hàng tồn kho bán thành phẩm
nằm ở chỗ cơ sở đang trong quá trình sản xuất bao gồm lắp ráp một sản phẩm cụ thể đuợc
đánh giá một cách cẩn thận trong mối quan hệ với các kĩ thuật lập kế hoạch và thực tế sản xuất
hay lắp ráp/công nghệ.
Một số các cơ sở hoạt động chỉ từ 4 -6 giờ với nguyên liệu chờ sản xuất, trong khi
những cơ sở khác có thể mất đến 10 -15 giờ với nguyên liệu chờ sản xuất. Sự khác nhau rõ rệt
10
trong chi phí dự trữ hàng tồn kho như theo hai ví dụ này. Một lần nữa, việc đánh giá lựa chọn
sứ đánh đổi vẫn nên được tiến hành.
Tồn kho theo mùa
Tính mùa vụ có thể xảy ra ở cảng trong nước của hệ thống hậu cần của một doanh
nghiệp hoặc phía đầu nước ngoài hoặc cả hai. Thông thường, các doanh nghiệp đang phải đối
mặt với mùa vụ cung cấp và / hoặc nhu cầu cần phải tính toán cẩn thận bao nhiêu hàng hóa họ
nên cần dự trữ. Các doanh nghiệp chế biển sản phẩm nông nghiệp là một ví dụ điển hình của
mùa vụ cung cấp trong nước, họ có thể phải mua các sản phẩm nông nghiệp "thô" trong suốt
mùa thu hoạch. Bởi vì loại hàng này mau hỏng nên việc chế biến tiến hành trong thời gian
ngắn. Nhu cầu cho các sản phẩm đã được chế biến (đóng hộp, đông lạnh, vv) là ổn định trong
suốt cả năm.Vì vậy, các sản phẩm thành phẩm thường được lưu trữ cho đến khi nó được bán.
Các thay thế khác có thể là để lưu trữ nguyên vật liệu “thô” trong một số trường hợp, ví dụ,
ngũ cốc như lúa mì, lúa mạch đen, lúa mạch, hạt ca cao Đôi khi, vận chuyển là nguyên nhân
gây ra mùa vụ ,đặc biệt là nếu vận chuyển nước được sử dụng. Sông, hồ có thể đóng băng ở
phần phía bắc của bán cầu, điều này có thể làm gián đoạn việc vận chuyển nguyên vật liệu
chính gây ra một nhu cầu tích lũy của hàng tồn kho trong thời gian dịch vụ bị gián đoạn.
Ngành công nghiệp thép đã phải đối mặt với vấn đề này trong quá khứ với việc vận chuyển
quặng sắt qua Great Lakes hoặc xuống St Lawrence Seaway.
Nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với mùa vụ cho nhu cầu sản phẩm của họ,

nhưng một số các doanh nghiệp khác nhu cầu theo mùa đáng kể, ví dụ, thẻ Hallmark và
Hershey Foods. Các doanh nghiệp này có thể đạt 60% doanh thu hàng năm của họ trong một
khoảng thời gian từ 10 đến 14 tuần. Có năng lực sản xuất để đáp ứng cao nhu cầu với năng lực
nhàn rỗi nhiều phần còn lại của năm có thể không rất hiệu quả. Các doanh nghiệp với mùa vụ
quan trọng như vậy thường tìm thấy nó hiệu quả hơn sử dụng các nhà máy nhỏ hơn và sản
xuất các sản phẩm trước nhu cầu, mà rõ ràng có nghĩa là tích tụ của hàng tồn kho. Chi phí sản
xuất (chi phí đơn vị) được đánh đổi với chi phí dự trữ hàng tồn kho để quyết định khi sự cân
bằng thích hợp giữa năng lực sản xuất và không gian lưu kho.
Hàng tồn kho dự đoán
Một lý do thứ năm cho hàng tồn kho phát sinh khi doanh nghiệp dự kiến một số sự kiện
bất thường ví dụ, đình công, tăng giá đáng kể, sự thiếu hụt lớn nguồn cung cấp do thời tiết
hoặc tình trạng bất ổn chính trị, v v . Trong tình huống như vậy, các doanh nghiệp có thể tích
lũy hàng tồn kho để "tự bảo hiểm" chống lại các sự kiện bất thường này. Một lần nữa, một
phân tích nên được thực hiện để đánh giá các rủi ro, xác suất, và chi phí hàng tồn kho. Rõ
ràng, phân tích là khó khăn hơn trong hoàn cảnh như vậy, vì mức độ không chắc chắn. Tuy
nhiên, việc sẵn có kỹ thuật phân tích giúp giảm nhẹ những thách thức này, sẽ được thảo luận
trong chương kế tiếp.
Tóm tắt dự trữ hàng tồn kho
Hầu hết các doanh nghiệp phải tích lũy một số mức độ của hàng tồn kho. Có nhiều lý
do tốt để tích lũy như vậy. Trong thực tế, chi phí dự trữ hàng tồn kho có thể được bù đắp nhiều
hơn bởi tiết kiệm trong các lĩnh vực khác. Nguyên tắc cơ bản là quyết định để tích lũy nhu cầu
hàng tồn kho cần phải được đánh giá bằng cách sử dụng một khuôn khổ đánh đổi. Ngoài ra
năm lý do đã đựoc thảo luận, có những lý do khác để tích lũy hàng tồn kho chẳng hạn như duy
trì các nhà cung cấp hoặc các nhân công. Ví dụ, trong thời gian khi nhu cầu bị giảm, một
doanh nghiệp có thể tiếp tục mua từ một số nhà cung cấp để duy trì mối quan hệ và / hoặc để
giữ nhân công bằng cách sản xuất ra hàng tồn kho. Một lần nữa, một đánh giá của sự đánh
đổi là cần thiết. Như đã thảo luận, một số khu vực chức năng trong hầu hết các doanh nghiệp
có lợi ích hoặc cổ phần trong quyết định xem có dự trữ và các vấn đề liên quan đến thời
11
gian và địa điểm Phần tiếp theo xem xét một số các quan điểm trái ngược của các phạm vi

chức năng.
Tầm quan trọng của hàng tồn kho đối với các chức năng khác của doanh nghiệp
Như đã thảo luận ở Chương 2, hậu cần đối ngược với phạm vi chức năng khác như
marketing và sản xuất. Nền tảng cho việc phân tích tầm quan trọng của hàng tồn kho trong hệ
thống hậu cần, chúng ta kiểm tra hậu cần như thế nào và liên quan đến các lĩnh vực kinh
doanh khác đề cập đến hàng tồn kho:
• Tiếp thị mong muốn đạt được mức độ dịch vụ khách hàng cao và bổ sung các hàng
tồn kho đảm bảo đáp ứng nhu cầu khách hàng đầy đủ và nhanh chóng nhất có thể.
• Sản xuất thường muốn duy trì sản xuất lâu dài và chi phí thu mua hàng hàng ở mức
thấp nhất cũng như các mặt hàng sản xuất theo mùa sớm nhằm giảm thiểu chi phí sản xuất và
tránh thanh toán quá hạn.
• Tài chính mong muốn hàng tồn kho ở mức thấp để tăng doanh thu hàng tồn kho, giảm
thuê tài sản, và nhận được trả lại vốn cao về tài sản. Các báo cáo trước đã chỉ ra rất rõ ràng tại
sao các phạm vi chức năng khác quan tâm đến hàng tồn kho. Ngoài ra, mục tiêu phạm vi tài
chính rõ ràng là có thể xung đột với mục tiêu tiếp thị vàsản xuất. Một cuộc xung đột đôi khi
xảy ra giữa marketing và sản xuất, mặc dù lợi ích tồn kho cao mức độ của cả hai phạm vi.
Việc kéo dài sản xuất có thể gây ra sự thiếu hụt của một sốsản phẩm cần thiết bằng cách tiếp
thị để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ví dụ, nhà sản xuất muốn tiếp tục sản xuất 1 sản phẩm
lên đến 5000 chiếc tại một thời điểm khi mà marketing cần một sản phẩm khác hiện đang cung
cấp trong thời gian ngắn.
Nhiều doanh nghiệp mong muốn sử dụng một tổ chức hậu cần để giải quyết các cuộc xung đột
mục tiêu hàng tồn kho. Hàng tồn kho có một ảnh hưởng quan trọng vào hậu cần và trong rất
nhiều các tổ chức hậu cần thì hàng tồn kho là một hoạt động ưu tiên. Những giám đốc hậu cần
ở một vị trí xuất sắc để đánh giá được sự đánh đổi, không chỉ ở các phạm vi hậu cần khác mà
còn các phạm vi chức năng đã được thảo luận ở đây. Trong một số trường hợp, điều này gần
như có thể là vai trò của một trọng tài viên.
Quản lý hàng tồn kho hợp lý và kiểm soát các ảnh hưởng đến khách hàng, nhà cung cấp, và
các phòng ban chức năng chính của tổ chức. Mặc dù có nhiều lợi thế khi để có hàng tồn kho
trong một hệ thống hậu cần, chi phí dự trữ hàng tồn kho là một chi phí lớn, và hệ thống hậu
cần cần phải làm giảm mực độ hàng tồn kho.

CHI PHÍ HÀNG TỒN KHO
Chi phí hàng tồn kho là quan trọng bởi vì ba lý do: một là chi phí hàng tồn kho thể hiện
cấu thành quan trọng của tổng chi phí hậu cần ở nhiều doanh nghiệp. Thứ hai,mức hàng tồn
kho một doanh nghiệp duy trì tại các điểm trong hệ thống hậu cần của nó sẽ ảnh hưởng đến
mức độ dịch vụ doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng của mình. Thứ ba, chi phí quyết
định đánh đổi trong hậu cần thường xuyên phụ thuộc và ảnh hưởng đến chi phí hàng tồn kho.
Phần này cung cấp thông tin cơ bản liên quan đến chi phí quản lý hậu cần nên xem xét
khi đưa ra quyết định chính sách hàng tồn kho. Các loại chi phí chính bao gồm chi phí dự trữ
hàng tồn kho, chi phí đặt hàng, chi phí vượt quá hàng tồn kho, và chi phí vận chuyển hàng tồn
kho.
Chi phí dự trữ hàng tồn kho
Có bốn thành phần chính trong chi phí dự trữ hàng tồn kho: chi phí vốn, chi phí kho,
chi phí dịch vụ hàng tồn kho, và chi phí rủi ro hàng tồn kho.Mỗi loại chi phí có tính chất riêng,
và tính toán cụ thể cho mỗi chi phí này bao gồm các chi phí khác nhau hoặc giá thành.
12
Chi phí vốn.
Đôi khi được gọi là chi phí lãi suất hoặc chi phí cơ hội, loại chi phí tập trung theo giá
vốn đã gắn liền với chi phí hàng tồn kho một doanh nghiệp (tương phản sử dụng vốn trong
một số cách tài chính hiệu quả khác). Nói cách khác, "Giá trị tiềm ẩn của việc có vốn cột trong
hàng tồn kho là gì, thay vì sử dụngnó cho một số dự án đáng giá khác? "Chi phí vốn là cầu
thành lớn nhất trong chi phí dự trữ hàng tồn kho. Doanh nghiệp thường thể hiện nó như là một
tỷ lệ phần trăm của giá trị đồng đô la của hàng tồn kho Doanh nghiệp nắm giữ. Ví dụ, một chi
phí vốn thể hiện là 20% giá trị sản phẩm của $ 100 tương đương với một chi phí vốn của $ 100
× 20 phần trăm, hoặc $ 20. Tương tự như vậy, nếu giá trị sản phẩm là $ 300, sau đó chi phí
vốn là $ 60. Trong thực tế, xác định một số lượng chấp nhận được để sử dụng cho chi phí vốn
không nhỏnhiệm vụ. Trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp thấy rằng việc xác định chi phí
vốn có thể là một nghệ thuật hơn một khoa học. Một cách tính chi phí vốn cho hàng tồn kho ra
quyết địnhđòi hỏi phải xác định tỷ lệ rào cản của doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu dự
kiến của đầu tư mới. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định hàng tồn kho trong
nhiều cùng một cách như nó quyết định chi tiền cho quảng cáo, xây dựng các nhà máy mới,

hoặc thêm thiết bị máy tính mới.
Ví dụ, giả định rằng giá trị trung bình của hàng tồn kho của doanh nghiệp là 300.000 $.
Hàng tồn kho này là một tài sản vốn cho doanh nghiệp, giống như một máy tính hoặc bất kỳ
vốn đầu tư khác. Do đó, nếu doanh nghiệp căn cứ chi phí vốn của nó trên một tỷ lệ 15% trở
ngại, sau đó chi phí vốn là $ 45,000 ($ 300,000 x 15%) mỗi năm. Phương pháp xác định giá trị
hàng tồn kho là rất quan trọng với chi phí vốn chính xác định và sau đó là quan trọng để xác
định chi phí tổng thể thực hiện hàng tồn kho. Theo Stock và Lambert, "chi phí cơ hội của vốn
được áp dụng chỉ đầu tư trong hàng tồn kho Đây là biến trực tiếp chi phí phát sinh lên đến
điểm mà tại đó hàng tồn kho được tổ chức tại lưu trữ "2. Vì vậy, việc thực hành kế toán
thường được chấp nhận trị giá hàng tồn kho với chi phí sản xuất đầy đủ được phân bổ là không
thể chấp nhận trong quyết định hàng tồn kho vì tăng hoặc giảm mức độ kiểm kê tài chính ảnh
hưởng đến phần thay đổi giá trị hàng tồn kho và không phải là phần cố định chi phí được phân
bổ. Bao gồm chi phí hậu cần hàng hóa giá trị hàng tồn kho, tuy nhiên, phù hợp với lời khuyên
này, và các doanh nghiệp nên bao gồm các phép đo chi phí như vậy bất cứ khi nào có thể.
Một đề nghị cuối cùng về chủ đề của chi phí vốn là để cho chính xác, tính toán toàn
diện của các yếu tố cấu thành lên chi phí. Mặc dù đôi khi nó là hấp dẫn, khuynh hướng sử
dụng trung bình ngành công nghiệp hoặc các con số tỷ lệ phần trăm được tìm thấy trong sách
giáo khoa (chẳng hạn như 25%) không những gây hiểu nhầm mà còn đưa kết quả không
chính xác cao.
Chi phí không gian lưu trữ.
Chi phí không gian lưu trữ bao gồm các chi phí giao nhận kết hợp với vận chuyển sản
phẩm vào và ra cho hàng tồn kho, cũng như chi phí lưu trữ như tiền thuê nhà, sưởi ấm, và thắp
sáng. Chi phí này có thể khác nhau từ nơi này đến nơi khác.Ví dụ, các doanh nghiệp thường có
thể dỡ các nguyên liệu thô trực tiếp từ tàu hoả và lưu trữ chúng bên ngoài, trong khi hàng hóa
thành phẩm cần được giao nhận cẩn thận và cơ sở vật chất lưu trữ phức tạp hơn.
Chi phí không gian lưu trữ có liên quan đến mức độ mà họ tăng hoặc giảm hàng tồn
kho. Vì vậy, các doanh nghiệp nên bao gồm chi phí khác nhau hơn là chi phí cố định khi ước
tính chi phí không gian cũng như chi phí vốn. Có lẽ chúng ta có thể làm rõ vấn đề bằng cách
sử dụng tương phản kho công cộng với việc sử dụng kho riêng. Khi một doanh nghiệp sử dụng
kho bãi công cộng, hầu như tất cả các xử lý và chi phí lưu trữ khác nhau trực tiếp với độ lớn

của hàng tồn kho lưu trữ. Kết quả là, các chi phí liên quan đến các quyết định liên quan đến
hàng tồn kho. Khi một doanh nghiệp sử dụng kho riêng, tuy nhiên, nhiều chi phí không gian
lưu trữ (như khấu hao xây dựng) được cố định và như vậy, không có liên quan đến chi phí dự
trữ hàng tồn kho.
13
Chi phí dịch vụ hàng tồn kho.
Một thành phần khác của chi phí dự trữ hàng tồn kho bao gồm bảo hiểm và thuế. Tùy
thuộc vào giá trị sản phẩm và chủng loại, rủi ro mất mát và hư hỏng có thể yêu cầu đóng bảo
hiểm cao. Ngoài ra, nhiều nước áp thuế vào giá trị hàng tồn kho, đôi khi trên một cơ sở hàng
tháng. Mức độ tồn kho cao dẫn đến chi phí thuế cao có thể là đáng kể trong việc xác định địa
điểm cụ thể nơi mà sản phẩm hàng tồn kho của các doanh nghiệp. Bảo hiểm và các loại thuế
có thể khác nhau đáng kể từ sản phẩm này đến sản phẩm kia , và các doanh nghiệp phải xem
xét điều này khi tính toán chi phí dự trữ hàng tồn kho.
Chi phí rủi ro hàng tồn kho.
Yếu tố cầu thành nên chi phí dự trữ hàng tồn kho phản ánh khả năng rất thực tế rằng giá trị
đồng vốn hàng tồn kho có thể giảm vì lý do ngoài kiểm soát của doanh nghiệp. Ví dụ, hàng
hoá, dự trữ trong kho cho một thời gian có thể trở nên lỗi thời và giảm về giá trị. Ngoài ra, thời
trang may mặc có thể nhanh chóng giảm giá trị ngya sau khi mùa bán hàng qua đi. Hiện tượng
này cũng xảy ra với trái cây tươi và rau quả khi chất lượng bị suy giảm hoặc giá giảm. Các
sản phẩm khác cũng phải đối mặt với những rủi ro tương tự, mặc dù mức độ rủi ro thì khác
nhau. Một ví dụ điển hình là sản phẩm giá trị cao như máy tính và thiết bị ngoại vi hoặc các
chất bán dẫn, có vòng đời sản phẩm tương đối ngắn. Trong trường hợp như vậy, chi phí lỗi
thời hoặc khấu hao có thể là rất quan trọng.
Bất kỳ tính toán các chi phí rủi ro hàng tồn kho bao gồm chi phí với lỗi thời, hư hỏng,
mất cắp, và các rủi ro khác cho sản phẩm dự trữ tồn kho. những nguy cơ đó sẽ ảnh hưởng đến
hàng tồn kho. Mức độ tồn kho sẽ kéo theo các rủi ro ảnh hưởng đến giá trị hàng tồn kho và chi
phí dự trữ.
Tính toán chi phí dự trữ hàng tồn kho
Tính toán chi phí dự trữ hàng tồn kho cho một sản phầm cụ thể trong hàng tồn kho
liên quan đến ba bước. Đầu tiên là xác định giá trị của mặt hàng đó được lưu trữ trong hàng

tồn kho. Theo thực hành kế toán truyền thống, ba phương pháp đã được công nhận bao gồm
giá trị hàng tồn kho trên cơ sở (FIFO) first-in/first-out, last-in/first-out (LIFO) cơ sở, hoặc chi
phí trung bình. Thước đo giá trị phù hợp nhất cho việc đưa ra quyết định hàng tồn kho là chi
phí của hàng hoá bán ra hoặc chi phí sản xuất của sản phẩm hiện nay vào các cơ sở hậu cần
của doanh nghiệp. Một lần nữa, điều này là bởi vì tăng hoặc giảm mức hàng tồn kho ảnh
hưởng đến chỉ có phần thay đổi của giá trị hàng tồn kho và không phải là phần cố định.
Bước thứ hai là để đo lường mỗi thành phần chi phí cá nhân thực hiện như là một tỷ lệ
phần trăm của giá trị sản phẩm và thêm tỷ lệ phần trăm thành phần với nhau để đo lường chi
phí hàng tồn kho mang. Như vậy, chi phí thực hiện được thể hiện như là một tỷ lệ phần trăm
của giá trị sản phẩm. Trong tính toán không gian lưu trữ, dịch vụ hàng tồn kho, chi phí rủi ro,
nó có thể hữu ích khi tính toán các chi phí theo đồng đô la và sau đó chuyển đổi số liệu tỷ lệ
phần trăm.
Bước cuối cùng là nhân tổng chi phí dự trữ (như là một tỷ lệ phần trăm của giá trị sản
phẩm) bởi giá trị của sản phẩm. Các biện pháp chi phí mang hàng năm cho một số tiền cụ thể
của hàng tồn kho.
Ví dụ: Giả sử rằng một doanh nghiệp sản xuất đĩa cứng cho máy tính cá nhân với chi
phí sản xuất biến $ 100 cho mỗi đơn vị. Danh sách bảng 6-3. Thực hiện các thành phần chi phí
như là một tỷ lệ phần trăm của giá trị sản phẩm Chi phí hàng năm mang theo một đĩa cứng duy
nhất trong hàng tồn kho được tính như sau:
$ 100 × 25% = $ 25 mỗi năm
14
Bản chất của chi phí dự trữ
Mặt hàng với chi phí dự trữ về cơ bản nên sử dụng cùng một dự toán chi phí dự trữ
trên một đồng đô la hàng tồn kho. Tuy nhiên, vật dụng bị lỗi thời nhanh chóng hoặc các mục
yêu cầu phục vụ để ngăn chặn suy giảm có thể yêu cầu dự toán chi phí riêng biệt. Ước tính
thực hiện chi phí cho mỗi đồng đô la hàng tồn kho thể hiện như là một tỷ lệ phần trăm của
hàng tồn kho giá trị dự trữ trong năm sẽ phản ánh như thế nào thực hiện chi phí thay đổi với
hàng tồn kho giá trị. Bảng 6-4 cho thấy rằng, cũng như tăng tồn kho trung bình (tức là, như
các hàng tồn kho tăng cấp độ), hàng năm thực hiện tăng chi phí, và ngược lại. trong khác từ,
chi phí thực hiện là thay đổi và là tỷ lệ thuận với số lượng đơn vị hàng tồn kho trung bình hoặc

hàng tồn kho giá trị trung bình.
Đặt hàng/Chi phí thiết lập
Một chi phí thứ hai ảnh hưởng đến tổng chi phí hàng tồn kho là chi phí đặt hàng hoặc
chi phí thiết lập. Chi phí đặt hàng đề cập đến chi phí hàng cho hàng tồn kho bổ sung và không
bao gồm các giá thành hoặc chi phí của bản thân sản phẩm. Chi phí thiết lập đề cập cụ thể hơn
các chi phí của thay đổi hoặc sửa đổi một quá trình sản xuất hoặc lắp ráp để tạo điều kiện
thuận lợi cho cho dòng sản phẩm, ví dụ.
Chi phí đặt hàng
Các chi phí liên quan đến đặt hàng hoặc hàng tồn kho thì đều cố định và có các yếu tố
khác nhau. Các yếu tố cố định đề cập đến chi phí của hệ thống thông tin, cơ sở vật chất, và
15
công nghệ sẵn có cho hoạt động đặt hàng. Chi phí cố định này vẫn liên tục liên quan đến số
lượng đơn hàng đã đặt. Ngoài ra còn có một số chi phí khác nhau liên quan đến số lượng đơn
đặt hàng được đặt cho hàng tồn kho nhiều. Một số loại hoạt động có thể chịu trách nhiệm cho
các chi phí này bao gồm (1) xem mức độ hàng tồn kho; (2) chuẩn bị và xử lý đơn đặt hàng (3)
chuẩn bị và xử lý các báo cáo nhận được, (4) kiểm tra hàng tồn kho trước khi đặt hàng tồn
kho (mặc dù hoạt động này cần được giảm thiểu như là một phần của cam kết quản lý chất
lượng toàn diện và "làm đúng ngay từ lần đầu tiên") và (5) chuẩn bị và xử lý thanh toán. Trong
khi một số người và quá trình đóng một vai trò quan trọng đến sự tồn tại , chúng trở nên quan
trọng khi xem xét tới tòab bộ hoạt động liên quan đến đặt và nhận đơn hàng.
Chi phí thiết lập
Chi phí thiết lập sản xuất có thể được rõ ràng hơn so với chi phí đặt hàng hoặc mua
lại.Chi phí thiết lập phát sinh mỗi khi một doanh nghiệp thay đổi dây chuyền sản xuất để sản
xuất một mặt hàng khác nhau cho hàng tồn kho. Phần cố định chi phí thiết lập có thể bao gồm
việc sử dụng của các thiết bị vốn cần thiết để thay đổi trên cơ sở sản xuất, trong khi các chi phí
biến có thể bao gồm chi phí nhân phát sinh trong quá trình sửa đổi hoặc thay đổi dây chuyền
sản xuất. Bản chất của Chi phí.
Bản chất của chi phí
Tách các phần đơn đặt hàng chi phí thiết lập cố định và biến cần thiết. Đúng như tính
toán nên nhấn mạnh phần biến của hàng tồn kho chi phí vốn, tính toán đơn đặt hàng và chi phí

thiết lập nên nhấn mạnh biến phần các chi phí này. Như được thảo luận trong Chương 7, nhấn
mạnh điều này trở thành trung tâm phát triển chiến lược hàng tồn kho có ý nghĩa. Khi tính
toán chi phí đặt hàng hàng năm, các doanh nghiệp thường bắt đầu với chi phí hoặc phí liên kết
với nhau để cá nhân hoặc thiết lập. Tương ứng, số lượng hàng năm của các đơn đặt hàng hoặc
các thiết lập ảnh hưởng đến tổng chi phí để mỗi năm, con số này tỉ lệ nghịch với kích thước
hàng cá nhân hoặc số lượng các đơn vị sản xuất (sản xuất chạy chiều dài) trong một thiết lập
đơn giản hoặc chuyển đổi. Bảng 6-5 cho thấy mối quan hệ chung.
Như chúng ta có thể thấy trong Bảng 6-5, kết quả thường xuyên đặt hàng trong các
khách hàng đặt một số lượng lớn các đơn đặt hàng nhỏ hơn mỗi năm. Kể từ khi đơn đặt hàng
lớn và nhỏ phải chịu các chi phí biến của việc đặt một đơn đặt hàng, tổng chi phí để hàng năm
sẽ tăng liên quan trực tiếp đến số lượng đơn đặt hàng mỗi năm. Miễn là doanh số bán hàng
hàng năm và nhu cầu vẫn như nhau, tổng số hàng năm đơn đặt hàng hoặc thiết lập chi phí liên
quan trực tiếp đến số thứ tự hoặc các thiết lập mỗi năm và sẽ tỉ lệ ngịch với kích thước chiều
dài hàng cá nhân hoặc khả năng sản xuất cá nhân.
16
Viễn cảnh tương lai, Xem xét việc di chuyển đến hệ thống tự động hóa cao cho quản
lý trật tự và xử lý đơn hàng, và tinh giản của thực hành nhận hàng tồn kho, chi phí biến đổi
của việc xử lý các đơn đặt hàng cá nhân là nhất định để làm giảm bớt đáng kể. Trong các
doanh nghiệp mà nhà cung cấp quản lý hàng tồn kho "chương trình tiến hành, các khái niệm
về đơn đặt hàng đặt chính nó mất ý nghĩa, và có khái niệm chi phí để mất liên quan. Tương tự
như vậy, như các doanh nghiệp cải thiện khả năng của họ một cách nhanh chóng và hiệu quả
thay đổi theo quá trình sản xuất, các chi phí biến liên quan với công việc này sẽ giảm là tốt.
Trong khi luôn luôn có thể là một yếu tố đo lường đơn đặt hàng / thiết lập chi phí, chi phí này
có thể sẽ trở nên ít liên quan hơn trong tương lai hơn là ngày hôm nay.
Chi phí dự trữ so với chi phí đặt hàng
Như thể hiện trong Bảng 6-6, chi phí đặt hàng và chi phí dự trữ phản ứng lại bằng cách
trái ngược tới sự thay đổi trong số lượng đặt hàng và số lượng đơn hàng đơn lẻ. Một cuộc
khảo sát gần đây cho thấy chi phí đặt hàng tăng nhanh hơn chi phí dự trữ và điều này kéo tổng
chi phí xuống. Nói cách khác, một sự đánh đổi tích cực xảy ra, kể từ khi các khoản tiết kiệm
trong chi phí đã vượt quá tăng trong chi phí hàng tồn kho. Tuy nhiên, tại một điểm nhất định,

điều này mối quan hệ bắt đầu thay đổi, và tổng chi phí bắt đầu tăng lên. Dưới đây là một sự
đánh đổi tiêu cực của chi phí cơ hội xảy ra bởi vì các khoản tiết kiệm để chi phí đặt hàng ít
hơn gia tăng chi phí dự trữ .Chúng ta có thể xem tập hợp các mối quan hệ về đường cong chi
phí thể hiện trong Hình 6-1.
17
Chi phí dự báo hết hàng.
Một chi phí quan trọng để ra quyết định cho hàng hàng tồn kho là chi phí hết hàng – chi
phí của việc không có sản phẩm có sẵn khi khách hàng yêu cầu hoặc cần nó. Khi một sản
phẩm không có sẵn để bán, một khách hàng có thể chấp nhận đặt hàng lại sản phẩm đang cần
khi sản phẩm có sẵn, hoặc có lẽ mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, trực tiếp lợi nhuận từ
các doanh nghiệp đang bị hết hàng. Nếu doanh nghiệp vĩnh viễn mất khách hàng vào tay đối
thủ cạnh tranh, điều này không chỉ mất lợi nhuận 1 cách gián tiếp mà còn kéo dài lâu hơn. Về
phía cung cấp thực tế, hết hàng có thể dẫn đến không có vật liệu mới hoặc bán thành phẩm
hàng hoặc các bộ phận, có nghĩa là máy mọc bị bỏ không hoặc ngưng hoàn toàn cơ sở vật
chất sản xuất.
Tồn kho an toàn
Hầu hết các doanh nghiệp phải đối mặt với một khả năng hết hàng để cho phép để
hàng tồn kho an toàn hoặc chống giảm sóc hàng tồn kho nhằm chống lại sự không chắc chắn
về nhu cầu hoặc thời gian cần thiết cho cung ứng lại. Khó khăn của người đưa ra quyết định
để hàng tồn kho là để tồn kho ở mức bao nhiêu khi muốn có bất cứ lúc nào. Để quá nhiều hàng
tồn kho đồng nghĩa với dư thừa hàng, trong khi không có đủ thì sẽ hết hàng và mất doanh thu.
Phát triển thông tin để quyết định duy trì mức tồn kho như thế nào là một nhiệm vụ
khó khăn. Thước đo chi phí dự trữ tồn kho kết hợp với mức độ tồn kho an toàn khác nhau
cũng tương tự như thước đo thực hiện dự trữ tồn kho nói chung. Đầu tiên xác định một tỷ lệ
phần trăm chi phí tồn kho bao gồm chi phí vốn, chi phí không gian lưu trữ, chi phí dịch vụ
hàng tồn kho, và chi phí rủi ro hàng tồn kho.Sau đó, nhân con số này phần trăm này bằng giá
trị đồng đô la cho mỗi đơn vị và số lượng của các đơn vị có liên quan.
Chúng ta bàn đến hai điểm sau đây. Đầu tiên, mặc dù chi phí dự trữ hàng tồn kho an
toàn có vẻ giống như chi phí dự trữ cho chu kỳ hàng tồn kho, tồn kho an toàn thì rủi ro hơn và
đắt hơn để dự trữ hơn là tồn kho chu kỳ. Để đơn giản, bài này giả định rằng các chi phí mang

hàng tồn kho tương tự cũng áp dụng đối với cả hai tồn kho an toàn và tồn kho chu kỳ. Thứ hai,
hầu hết các quyết định xác định mức độ tồn kho an toàn dựa vào phân tích xác suất. Trong
chương tiếp theo nhấn mạnh điều này trong một cuộc thảo luận quyết định hàng tồn kho trong
trường hợp không chắc chắn.
Chi phí thất thóat doanh thu.
Xác định chi phí dự trữ cho tồn kho hàng an toàn có thể là tương đối đơn giản. Xác
định chi phí cho những mặt hàng không có sẵn để bán tuy nhiên có thể là thách thức hơn
nhiều. Đối với một doanh nghiệp buôn bán nguyên liệu, vật tư cho một dây chuyền sản
18
xuất, hết hàng có thể có nghĩa là toàn bộ hoặc một phần sẽ phải đóng cửa hoạt động. Cắt
giảm các hoạt động như vậy là đặc biệt quan trọng cho các doanh nghiệp tham gia vào sản
xuất chỉ trong thời gian hoặc các hoạt động lắp ráp, như được thảo luận trước đó về chủ
đề của quản lý vật tư.
Để quyết định xem tồn kho an toàn bao nhiêu thì dự trữ, một doanh nghiệp sản xuất cần
hiểu một cách toàn diện tồn thất của hậu quả của việc đóng cửa hoạt động nếu hết các linh
kiện hay vật tư. Đầu tiên doanh nghiệp phải xác định được tốc độ sản xuất hàng
giờ hoặc hàng ngày và sau đó nhân với số lượng sản phẩm không được sản xuất. Ví
dụ, nếu một nhà máy với một tốc độ sản xuất một giờ là 1.000 sản phẩmvà lợi nhuận mỗi sản
phẩm là $ 100 sẽ đóng cửa trong bốn giờ, tổn thất là $400.000. Con số này có thể khiêm tốn
thế nào thì các doanh nghiệp cũng phải trả lương cho nhân công cho dù doanh nghiệp có đóng
cửa tạm thời đi chăng nữa. Doanh nghiệp cũng cần phải xem xét các chi phí cố định hoặc phân
bổ cho từng sản phầm.
Tính toán chi phí thất thóat doanh thu như thế nào đối với hàng thành phẩm sẽ ảnh
hưởng đến một khách hàng thường là phức tạp hơn so với tính toán chi phí cho một lần hết
nguyên liệu. Như chúng ta đã thảo luận trước đó, ba kết quả chính của việc hết hàng thành
phẩm là đặt hàng sau, thất thoát doanh thu, mất các khách hàng và thương hiệu từ tốt đến thấp
Chi phí dự trữ hàng tồn kho vận chuyển
F.O.B: Chi phí dự trữ hàng tồn kho khác là chi phí dự trữ tồn kho vận chuyển. Chi phí
này ít rõ ràng hơn ba chi phí đa được đề cập trứoc đấy. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó
có thể là một chi phí rất đáng kể. Ví dụ, một doanh nghiệp bán sản phẩm của mình với giá

(FOB) “ giao hàng tại cảng” thì họ phải có trách nhiệm vận chuyển hàng hóa đến cho khách
hàng, điều này sẽ không được tính cho đến khi hàng được giao đến địa điểm của khách hàng.
Về mặt tài chính, hàng hóa mặc dù vẫn còn trong hàng tồn kho của người bán, sẽ đựoc vận
chuyển qua xe doanh nghiệp hoặc xe tải riêng được chứa trong một chiếc xe doanh nghiệp
hậu cần hoặc có lẽ trong xe tải tư nhân của doanh nghiệp.
Sự đánh đổi: Khi hàng tồn kho "vận chuyển" này vẫn là doanh nghiệp sở hữu cho đến
khi giao cho khách hàng, doanh nghiệp xem xét một phần thời gian giao hàng của chi phí dự
trữ. Giao hàng càng nhanh, giao dịch càng sớm xong và doanh nghiệp nhận sớm được thanh
toán cho việc vận chuyển. Bởi vì giao hàng nhanh hơn có nghĩa là cước hậu cần đắt hơn,
doanh nghiệp muốn tính toán đến sự đánh đổi giữa chi phí vận chuyển và chi phí dự trữ vận
chuyển. Phụ lục 7A làm rõ cụ thể tình trạng này.
Xác định chi phí dự trữ hàng tồn kho vận chuyển
Một câu hỏi quan trọng vào thời điểm này là làm thế nào để tính toán chi phí dự trữ hàng tồn
kho vận chuyển , đó là doanh nghiệp xem xét những loại chi phí khác nhau như thế
nào? Cuộc thảo luận ngay trong chương này tập trung vào bốn cấu thành của chi phí dự trữ
hàng tồn kho: chi phí vốn, chi phí không gian lưu trữ, chi phí dịch vụ hàng tồn kho, hàng tồn
kho và chi phí rủi ro. Trong khi các loại chi phí này là hợp lý, chúng được liên quan 1
cách khác nhau với chi phí vận chuyển hàng tồn kho.
Đầu tiên, chi phí vốn của hàng tồn kho vận chuyển nói chung bằng chi phí hàng tồn
kho trong nhà kho. Nếu doanh nghiệp sở hữu hàng tồn kho vận chuyển, chi phí vốn sẽ phát
sinh.
Thứ hai, chi phí không gian lưu trữ nói chung sẽ không có liên quan đến vận chuyển
hàng tồn kho, bởi vì nhà cung cấp dịch vụ hậu cần đã bao gồm các công cụ và bốc dỡ, giao
nhận trong cùng 1 phí hoặc cước.
19
Thứ ba, trong khi các loại thuế nói chung sẽ không có liên quan đến chi phí dịch vụ
hàng tồn kho thì yêu cầu phải có bảo hiểm là sự cần thiết. Ví dụ, quy
định trách nhiệm pháp lý cho việc sử dụng tàu hậu cần thông thường là khá cụ thể và một
doanh nghiệp sử dụng một tàu hậu cần thông thường có thể không cần xem xét bảo hiểm (với
ngoại lệ của một số "chiếc ô" bảo hiểm). Các doanh nghiệp sử dụng đội tàu tư nhân hoặc hợp

đồng với các nhà cung cấp vận chuyển thuê có thể mất giá trị lớn hơn cho việc sắp xếp bảo
hiểm.
Thứ tư, lỗi thời hoặc suy giảm là những rủi ro thấp hơn cho hàng tồn kho vận
chuyển, bởi vì các dịch vụ hậu cần thông thường chỉ mất một thời gian ngắn. Như vậy, chi phí
hàng tồn kho này ít liên quan ở đây hơn nó là hàng tồn kho trong nhà kho.
Nói chung, thực hiện hàng tồn kho vận chuyển thường chi phí ít hơn là dự trữ hàng tồn
kho trong kho. Tuy nhiên, một doanh nghiệp tìm kiếm để xác định sự khác biệt chi phí thực tế
1 cách chính xác nhất nên kiểm tra các chi tiết của từng vấn đề hàng tồn kho trong chiều sâu.
CÔNG NGHỆ CHUỖI CUNG ỨNG
BRICK-AND-MORTAR NHÀ BÁN BUÔN NƠI GIÚP DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ THÀNH CÔNG
Làn sóng hiện ra lờ mờ của các lực lượng phân phối thừa nhận các yếu tố quản lý tri
thức như là một chủ đề trung tâm để thu hút khách hàng mới và đào tạo các thiết lập hiện tại
của những lợi nhuận. Nhà phân phối nhận ra lợi ích hữu hình trong việc tận dụng các trang
web của họ để hoạt động như cổng thông tin dịch vụ khách hàng bằng cách trộn các chi tiết
phù hợp để giữ khách hàng của họ thông báo về sự chậm trễ giao hàng sản phẩm, tình trạng
tài khoản phải thu, chi tiết kỹ thuật sản phẩm, bảng giá, và khuyến mãi. Các đại diện chỉ là
một vài trong những cách mà kiến thức lên dịch vụ tuyệt vời.Lúc nào cũng vậy, khách hàng đã
từng thu hút bởi sự quyến rũ của mối quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất nhanh chóng trở
thành không hài lòng và trả lại cho nhà phân phối đáp ứng tiêu chuẩn của họ cho dịch vụ.
HỢP TÁC LÀ TƯƠNG LAI
Thông tin được tổng hợp và phân tích theo nhiều cách khác nhau của các doanh nghiệp
khi họ cố gắng nghiên cứu các phân khúc thị trường riêng biệt. Tuy nhiên, bởi vì thông tin
thường quá cồng kềnh, các doanh nghiệp chỉ có thể đầu tư một số tiền nhỏ của thời gian để
phân tích thông tin mà họ tin là chính xác, và quan trọng hơn, liên quan đến kinh doanh của
họ. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp thấy rằng sự hợp tác có thể tạo ra một sự hiểu biết nâng cao
của thị trường mục tiêu riêng của họ và các thị trường khác là chín muồi cho việc mở rộng.
Thương mại từ doanh nghiệp này đến doanh nghiệp kia được phát triển thành quan hệ
đối tác kinh doanh năng động giữa các doanh nghiệp hướng tới dịch vụ tùy chỉnh nhiều hơn
và bổ sung. Những mối quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp đã làm việc cùng nhau, chẳng

hạn như Motorola và Apple, Intel và IBM.
Có bốn mục tiêu chính của hầu hết các doanh nghiệp B2B tìm kiếm từ những nỗ lực
hợp tác của họ: tiết kiệm chi phí, kiểm soát, thời gian chu kỳ, và sự hài lòng của khách
hàng. Tiết kiệm chi phí được thực hiện thông qua các quá trình ít tốn kém cho việc mua hàng
và chi phí tổng thể thấp hơn gián tiếp (thả tàu) hàng hóa. Điều khiển quản lý tốt hơn như là
một kết quả của các quy tắc kinh doanh được nhúng trong hệ thống mua sắm thuận, giảm mua
hợp đồng và cho phép một doanh nghiệp có sự tham gia trong thương mại B2B qua Internet
20
có kiểm soát nhiều hơn các hoạt động của nó. Tốc độ của Internet cung cấp thời gian chu kỳ
cải thiện đáng kể. Doanh nghiệp yêu cầu mua tăng sự hài lòng của khách hàng thông qua khả
năng hiển thị tốt hơn về quá trình mua sắm và giảm sai sót.
Với các mục tiêu của sự hiểu biêt hợp tác, một số cạm bẫy vẫn còn tồn tại trong tinh
giản trong chuỗi cung ứng 2B. Không có khả năng chuyển một thông tin khách hàng thông
qua người trung gian và khả năng di chuyển thông tin này liên tục điều mài quan trọng là
tổng chi phí. Vấn đề thứ 2 với chuỗi cung ứng là triết học, không phải là kỹ thuật, trong tự
nhiên. Nhiều nhân viên bán hàng được trả về tải khách hàng với nhiều sản phẩm, hơn khách
hàng của họ có thể bán. Điều này dẫn đến mức tồn kho cao . Tổ chức thành công, giống như
những người đang tìm cách để khắc phục những thiếu sót tiềm năng.
Cụm từ "gạch và vữa" đã trở thành biểu tượng thành lập các doanh nghiệp dựa trên sự
phân phối. Nếu không có hàng tồn kho, CDNOW.com cung cấp nhạc nổi tiếng thế giới làm
thế nào nếu không có sự giúp đỡ của quan hệ đối tác phân phối của nó? Tuyền thông Valley
tìm nguồn và giao các sản phẩm nhãn hiệu âm nhạc trên toàn thế giới cho CDNOW.com và
tiếp tục tận dụng phần mềm như là một chìa khóa cho giải pháp kinh doanh của mình bên
trong Woodland, California, nhà kho của nó. Nếu bạn nhìn đằng sau các hàng của kệ sản
phẩm, mỗi đơn hàng rời khỏi thung lũng trung tâm phân phối Media (DC) xuất hiện như thể
CDNOW.com tự đáp ứng đơn hàng.
Bergen Brunswick, một nhà phân phối chính của mặt hàng dược phẩm, muốn bắt đầu
như một trung tâm đáp ứng mạng (IFC) để cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Các khách
hàng – các dược phẩm đã nhập hàng ngàn các mặt hàng y tế cho người tiêu dùng cần một
nhà phân phối như có thể kho, hộp, và vận chuyển sản phẩm đó một cách kịp thời và hiệu quả

trong khi vẫn giữ bản sắc của các nhà thuốc ảo trên tất cả các hoá đơn và vận chuyển
nhãn.Thời gian để thị trường và đa doanh nghiệp cũng quan trọng, và cả hai đã đạt
được. Bergen bắt đầu vận chuyển sản phẩm trong thời hạn chín mươi ngày tới khách hàng
thực của mình.
Giữa những thách thức của thị trường một dòng sản phẩm đa dạng đã đến với khách
hàng của họ, các cửa hàng thực đã chứng kiến những khó khăn của hoạt động như một điểm
duy nhất tích hợp cho sản phẩm, dịch vụ, và kiến thức kỹ thuật. Cuộc đấu tranh, khi tương
phản với vai trò của các nhà phân phối, cho vay một vị trí thuận lợi để những người bán buôn
phục vụ kênh khách hàng của họ như là một cửa hàng một cửa. Giữ trong tâm trí khả năng
thực hiện của các nhà phân phối, sẵn sàng đáp ứng khách hàng trong tất cả các khía cạnh
của các giao dịch so với một hoặc nhiều các thành phần dịch vụ mất tích của một cửa hàng
ảo.
Một bài học hiệu quả kém là biết được khi các cửa hàng ảo đấu tranh để xử lý nhiều
đơn đặt hàng với khối lượng giao dịch cao.Chọn lựa chọn trở thành một quá trình về tài khi
số lượng sản phẩm đơn điền vào các biểu hiện và phải đạt nhiều địa điểm. Nói một cách đơn
giản, quy mô hiệu quả kho được giảm đi rất nhiều bởi vì các nỗ lực gia tăng cần thiết để hoàn
thành mỗi đơn hàng.
Tuy nhiên, các nhà phân phối, hợp nhất nhiều đơn đặt hàng nhỏ có thể dẫn đến một
phương pháp hiệu quả cung cấp các doanh nghiệp gạch và vữa với các dòng sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân, và, với những kiến thức vốn có của phong trào sản phẩm, nhà
phân phối có thể tận dụng lợi thế của hàng tồn kho dự báo các công cụ như là một phương
21
tiện để cải thiện lợi nhuận và lợi nhuận hoạt động. Với những lợi ích bán buôn với nhiều dòng
sản phẩm trên tay, bán buôn đạt được những lợi ích bổ sung tài sản gắn liền với đa dạng chức
năng và phạm vi của sản phẩm trên thị trường riêng biệt cho độc lập từ người mua duy
nhất. Khi có thể, mối quan hệ với các nhà bán lẻ nổi lên như là hoàn thành đặc sản và các
khách hàng thích hợp phát triển từ các thói quen mua sắm lặp đi lặp lại của các đơn đặt hàng
trước. Để đạt được sự thống trị của E-kinh doanh, nhà phân phối sẽ phải hợp tác với các
khách hàng của họ để phục vụ tốt hơn chuỗi cung ứng và đáp ứng nhu cầu với mức độ cực kỳ
hiệu quả.

Thế giới của Thương mại điện tử chỉ ra rằng công nghệ cần các nhà phân phối nhiều
như các nhà phân phối đòi hỏi công nghệ.Các mối quan hệ chặt chẽ của công nghệ Thương
mại điện tử và các nhà bán buôn sẽ thay đổi như thế nào B2B diễn ra trên đường phía trước
của doanh nghiệp.
Các cửa hàng ảo sẽ tiếp tục cư trú trong Web, nhưng để thành công trong thực hiện
sản phẩm, họ hoặc là sẽ cần phải tiếp tục dựa vào mạng lưới phân phối hiện có hoặc có được
của riêng mình.Cuối cùng, thiếu sót của dịch vụ khách hàng và kiến thức kỹ thuật có thể yêu
cầu những chức năng này là nguồn cho các nhà phân phối người đứng vị trí tốt nhất để hỗ trợ
khách hàng.
Nguồn: Lowell Feil, Frontline, Duluth (April 2001).
PHÂN LOẠI HÀNG TỒN KHO
Nhiều sản phẩm và kiểm soát hàng tồn kho đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung
nhiều hơn nữa vào mặt hàng tồn kho quan trọng và sử dụng tinh vi hơn và phương pháp hiệu
quả để quản lý hàng tồn kho. Phân loại hàng tồn kho luôn luôn là bước đầu tiên trong quản lý
hiệu quả tồn kho. Trong khi chúng ta có thể đã tiết kiệm được phân loại ở các chương tiếp
theo, trong đó đề cập đến công cụ kiểm sóat tồn kho, chúng tôi đề cập đến chủ đề này bây giờ
bởi vì nó thể hiện một khía cạnh quan trọng của hầu hết các quyết định hàng tồn kho.
Phân tích ABC
Năm 1951, H. Ford Dicky của General Electric đã công nhận sự cần thiết phải phân
loại hàng tồn kho ở tầm quan trọng. Ông đã đề nghị GE phân loại mặt
hàng theo khối lượng bán hàng tương đối, lưu chuyển tiền tệ, thời gian giao hàng, hoặc chi phí
hết hàng. Ông đã sử dụng những gì chúng ta gọi là phân tích ABC cho chương trình phân
loại cụ thể của mình. Hệ thống này chỉ định các mục cho ba nhóm theo tác động tương đối, giá
trị của các mục nhóm. Những suy nghĩ có ảnh hưởng lớn nhất hoặc giá trị, ví dụ, thành lập
các nhóm A, trong khi những mặt hàng có tác động ít hơn hoặcgiá trị được chứa
trong nhóm B và C, tương ứng.
Luật Pareto, hoặc "Quy tắc 80-20". Trên thực tế, phân tích ABC được bắt nguồn từ
luật Pareto, tách biệt “ quan trọng nhiều” từ : quan trọng ít”. Trong điều kiện hàng tồn kho,
điều này cho thấy rằng một số lượng tương đối nhỏ các hạng mục hoặc đơn vị tồn trữ (SKU)
có thể chiếm một tác động hoặc giá trị đáng kể . Vào thế kỷ 19 một người đàn ông thời Phục

Hưng, Vilfredo Pareto cho rằng nhiều tình huống bị chi phối bởi một yếu tố quan trọng tương
đối ít và các đặc tính tương đối của các thành viên của một quần thể không đồng đều. Nguyên
tắc của ông rằng một tỷ lệ tương đối nhỏ dân số có thể chiếm một tỷ lệ lớn của các tác động
22
tổng thể hoặc giá trị đã được gọi là "quy tắc 80-20," đã được tìm thấy để giải quyết nhiều tình
huống.
Ví dụ, nghiên cứu thị trường có thể tìm thấy rằng 20% khách hàng của 1 doanh nghiệp
chiếm đến 80% doanh thu, hay tìm thấy ở một trường đại học có tới 20% các khóa học của nó
tạo ra 80% các giờ tín dụng học sinh của nó, hoặc một nghiên cứu có thể tìm thấy rằng
20% của người dân của thành phố chiếm 80% tội phạm . Mặc dù tỷ lệ thực tế có thể khác nhau
một chút từ ví dụ này cho tới ví dụ kia, một số biến thể của các quy tắc 80-20 thường được áp
dụng.
Minh họa hàng tồn kho. Hình 6-2 thể hiện phân tích ABC vì nó áp dụng cho quản lý
tồn kho. Biểu đồ chỉ ra rằng chỉ có 20% các mục trong danh mục các dòng sản phẩm chiếm
80% tổng doanh số. Các mặt hàng chiếm 20% này được gọi là A, các mục, do phần lớn doanh
số bán hàng mà họ có trách nhiệm. Các mặt hàng trong tài khoản loại B chiếm khoảng 50%
các mục trong các dòng sản phẩm, nhưng chỉ chiếm hêm 15 % cho tổng doanh số. Cuối cùng,
các mục C thể hiện còn lại 30% của các mặt hàng, điều này chỉ chiếm khoảng 5% doanh số
bán hàng.
Trong nhiều phân tích ABC, một sai lầm phổ biến là nghĩ mục B và C là ít quan trọng
hơn các mục A và sau đó, tập trung hầu hết hoặc tất cả sự chú ý của quản lý vào mặt hàng
A.Ví dụ, một quyết định có thể được thực hiện để đảm bảo mức tồn kho cao cho các mục A và
ít hoặc không có sẵn cho các mục B và C. Sai lầm các ở đây liên quan đến thực tế là tất cả các
mục trong danh mục A, B, và C rất quan trọng đến mức độ nào đó và mỗi tập hợp các mặt
hàng xứng đáng chiến lược riêng để đảm bảo tính khả dụng ở mức hợp lý của chi phí. Suy
nghĩ này đã khiến một số doanh nghiệp để phân biệt chính sách thả hàng tồn kho của ABC
loại, đảm bảo rằng các mục A là có sẵn hoặc ngay lập tức hoặc thông qua việc sử dụng các
dịch vụ hậu cần thể hiện. Các mặt hàng B và C, trong khi có thể có sẵn tại một vị trí thượng
nguồn kênh hậu cần, có thể có một cách kịp thời khi cần thiết.
23

Có một số lý do nữa là không phải là xem xét kĩ quá vào tầm quan trọng của các mục B
và C. Đôi khi, việc sử dụng của mục B và C có thể được bổ sung để sử dụng A, các mục, có
nghĩa là sự sẵn có của mặt hàng B và C có thể là cần thiết cho việc bán A, các mục, hoặc,
trong một số trường hợp, các mục C có thể là mới sản phẩm được dự kiến sẽ được thành công
trong tương lai. Trong trường hợp khác, các mục C có thể có lợi nhuận cao, bất chấp thực tế là
họ có thể chiếm một phần nhỏ trong doanh số bán hàng.
Thực hiện một phân loại ABC. Phân loại ABC là tương đối đơn giản. Bước đầu tiên là
chọn một số tiêu chí, chẳng hạn như doanh thu bán hàng, phát triển bảng xếp hạng. Bước tiếp
theo là để xếp hạng các mục trong thứ tự giảm dần tầm quan trọng theo tiêu chí này và tính
toán thực tế và tích lũy doanh số bán hàng tỷ lệ phần trăm tổng doanh thu cho mỗi mục. Cách
tính này sẽ giúp nhóm các mặt hàng vào loại ABC.
Bảng 6-7 cho thấy làm thế nào để căn cứ phân tích ABC hàng tồn kho trên doanh thu
được tạo ra cho mỗi khoản mục. Cột đầu tiên xác định mười nội dung trong các dòng sản
phẩm Big Orange. Các cột thứ hai và thứ ba cho thấy doanh số bán hàng hàng năm và tỷ lệ
phần trăm của tổng doanh thu hàng năm được đại diện bởi mỗi mục. Các cột thứ tư và thứ năm
cho thấy doanh số bán hàng và các mặt hàng tương ứng, như tỷ lệ phần trăm của tổng số. Từ
các báo cáo này phát xuất cột như "20% của tài khoản mục cho 80% của doanh số bán hàng."
Cột cuối cùng đặt mỗi mục vào phân loại ABC trên cơ sở doanh thu bán hàng hàng năm của
mặt hàng.
Bước cuối cùng này giao cho các mục vào nhóm ABC. Bước này là khó nhất, và không
có sẵn kỹ thuật đơn giản nào. Trong khi phân tích được hỗ trợ bởi các yếu tố đầu vào dữ liệu
mà có lẽ là chính xác, quyết định cuối cùng sẽ đòi hỏi sự phán xét chủ quan về một phần của
nhà sản xuất quyết định. Là một trong những xem xét thứ hạng mục, tự nhiên quan trọng "phá
vỡ" đôi khi xuất hiện, nhưng điều này không phải là luôn luôn như vậy, và nhà sản xuất quyết
định sẽ phải xem xét các biến khác như tầm quan trọng của sản phẩm và chi phí quản lý các
loại mặt hàng cá nhân. Ngoài ra, lưu ý rằng các dữ liệu trong cột thứ tư và thứ năm của Bảng
6-7 là các điểm dữ liệu cơ bản mà từ đó Hình 6-2 được xây dựng. Điều này sẽ mang lại sự
hiểu biết của chúng tôi hàng tồn kho phân tích của vòng tròn ABC đầy đủ.
24
Di chuyển vượt ra ngoài phân tích ABC đơn giản dựa trên tổng doanh số mục dòng,

William C. Copacino cho thấy một phân tích ABC đổi được thực hiện bằng cách sử dụng đô la
lợi nhuận gộp cho một mặt hàng đường dây và trật tự mục dòng tần số như các biến tiềm năng
phân chia. Ông cho rằng sử dụng nhiều biện pháp tác động hoặc giá trị và sau đó phát triển
một chương trình trọng để phân tầng các mục vào các ABC categories. Có cách tiếp cận này
mở rộng phạm vi tập trung vượt quá chỉ cân nhắc về khối lượng bán hàng và sự chú ý nơi
thường vấn đề quá nhìn chẳng hạn như lợi nhuận mục (mà ảnh hưởng đến tần số tổng thể lợi
nhuận) và trật tự (ảnh hưởng đến hiệu suất dịch vụ khách hàng). Hơn nữa, cách tiếp cận toàn
diện hơn cho phép người dùng để kiểm tra sự phù hợp của các tiêu chí khác nhau, trọng số
khác nhau trong các tiêu chuẩn và, cuối cùng, tác động của chính sách phân loại thay thế về
các vấn đề khối lượng tầm quan trọng bán hàng chiến lược, lợi nhuận, dịch vụ khách hàng, và
đầu tư hàng tồn kho.
Kỹ thuật góc phần tư
Như đã nêu trong Chương 4, không phải tất cả các mặt hàng được mua và / hoặc được
sản xuất có giá trị và rủi ro như nhau. Khi phát triển các chiến lược mua sắm, các doanh
nghiệp nên nghĩ đến điều này, không chỉ trong việc mua các sản phẩm và dịch vụ
mà còn trong việc quản lý sản phẩm cho hàng tồn kho. Như đã nêu trong các cuộc thảo luận
của phân tích ABC, một số mặt hàng quan trọng hơn nhiều các mặt hàng khác.
Trong trường hợp của kỹ thuật góc phần tư, giá trị được đo như là sự đóng góp tạo nên
lợi nhuận. Rủi ro là tác động tiêu cực của việc không có sản phẩm có sẵn. khi
được cần, mặt hàng có giá trị cao và nguy cơ cao (quan trọng) cần phải được quản lý cẩn thận
để đảm bảo cung cấp đầy đủ. Mặt hàng có nguy cơ thấp và giá trị thấp (mặt hàng cùng loại
hoặc các mục thường xuyên) có thể được quản lý cẩn thận ít hơn. Hai loại khác xứng đáng
được xem xét đặc biệt bởi vì giá trị và rủi ro của chúng. (xem Hình 4-3).
Trong phần tiếp theo, chúng tôi khám phá những chủ đề khả năng minh thấy được tồn
kho, đã được đề cập Chương 1.
KHẢ NĂNG HIỂN THỊ (Khả năng nhận biết hàng tồn kho)
Khả năng hiển thị đã nhận được nhiều sự chú ý trong các ấn phẩm kinh doanh. Khả
năng hiển thị hàng tồn kho có thể được hiểu đơn giản là khả năng của một tổ chức "Nhìn thấy"
hàng tồn kho trên thời gian thực tế thông qua vận chuyển và hệ thống chuỗi cung ứng. Có
kiến thức về hàng tồn kho là trong hệ thống không phải là, tuy nhiên, đủ để thực hiện các mục

tiêu vạch ra trước đó. Khái niệm hàng tồn kho nhìn thấy ở chương này đựoc hiểu một cách
toàn diện hơn.
Khả năng hiển thị hàng tồn kho bao hàm việc có kiến thức không chỉ ," nơi" hàng tồn
kho (nguyên vật liệu, vật tư, công việc đang tiến, thành phẩm, vv) là trong hệ thống (nhà cung
cấp địa điểm, nhà máy, kho hàng, địa điểm khách hàng, vận chuyển với các tàu hậu cần, vv)
cũng có bao nhiêu là "có" (cấp độ), người mà nó có thể được hứa hẹn, những đơn đặt hàng cần
được hoàn thành, khi các lô hàng có thể được giao …. Biết chất lượng và số lượng thời gian
thực dữ liệu cần thiết là một thách thức đáng kể, đặc biệt khi chúng ta xem xét đơn vị tồn trữ
SKUs mà một số doanh nghiệp có dòng sản phẩm của họ. Hàng tồn kho đôi khi biến mất trong
khi nó đang được vận chuyển hoặc trong khi nó đang được giữ trong một nhà kho. Giữ hàng
tồn kho nhìn thấy trong chuỗi cung ứng là một thách thức đặc biệt. Về cơ bản, nó được yêu
cầu như thế nào:
25

×