Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Thực trạng hậu quả của việc ô nhiễm môi trường đô thị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.41 KB, 35 trang )

Lê Quang Phát
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu nói chung môi trường đang bị ô nhiễm
trầm trọng đặc biệt là ở các nước đang phát triển . Việt Nam cũng nằm
trong tình trạng này trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế. Do
vậy , bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề quan trọng được Đảng
và nhà nước ta rất quan tâm trong chiến lược phát triển chung về kinh tế
xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . Để có
một sự phát triển bền vững cần phải có một chương trình hành động
thống nhất và có thể bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giữa phát triển sản xuất với
công tác bảo vệ và kiểm soát môi trường . Nếu không có một chính sách
đúng đắn về bảo vệ môi trường , nền kinh tế sẽ bị thiệt hại trước mắt cũng
như lâu dài. Đồng thời sự phát triển của đất nước cũng thiếu bền vững .
Nhất là trong những năm gần đây do nền kinh tế phát triển nước ta đang
đi lên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đã đẩy mạnh quá trình đô
thị hoá dẫn đến tình trạng môi trường đô thị ngày càng ô nhiễm . Do vậy
trong khuôn khổ bài tiểu luận triết học này em xin dựa vào cặp phạm trù
triết học nguyên nhân - kết quả để đề cập đến một số vấn đề bức xúc của
ô nhiễm môi trường đô thị và một số biện pháp khắc phục sự ô nhiễm
môi trường đô thị .
I, VẬN DỤNG LÝ LUẬN TRIẾT HỌC
1
Lê Quang Phát
( cặp phạm trù nguyên nhân kết quả và mối quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả )
1. Cặp phạm trù nguyên nhân kết quả :
Nguyên nhân là sự tác động giữa các mặt hiện tượng quá trình gây
ra các biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt hiện tượng quá trình mà có.
Ví dụ : Đô thị hoá là nguyên nhân của sự ô nhiễm môi trường ngày


càng trầm trọng hay chất thải công nghiệp độc hại là nguyên nhân còn ô
nhiễm môi trường là kết quả .
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả .
Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan, tính khách quan này
quy định mối quan hệ nhân quả dựa trên lập trường duy vật .
Do tính phổ biến của mối liên hệ nhân quả nên một nguyên nhân
có thể sinh ra nhiều kết quả, một kết quả có thể cũng do nhiều nguyên
nhân. Ta có thể lấy ví dụ trên thực tế như : nguyên nhân là bầu ôzôn bị
thủng ảnh hưởng đến sức khỏe và sự tồn tại của loài người . Nhưng kết
quả của sự ô nhiễm môi trường cũng do nhiều nguyên nhân gây nên do
con người , do công nghiệp , chất thải độc hại và chính những nguyên
nhân này lại gây nên nhiều kết quả khác Nhiều nguyên nhân nhưng chỉ
2
Lê Quang Phát
gây ra một kết quả do vậy muốn có được một kết quả tốt thì phải biết phát
hiện nhiều nguyên nhân, phải biết hạn chế những tác động của nguyên
nhân ngược chiều tạo điều kiện cho nguyên nhân cùng chiều; phải chú
trọng đến nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong . Chẳng hạn như
trong quá trình bảo vệ môi trường như hiện nay thì mọi người cùng có ý
thức bảo vệ thì sẽ nhân lên thuận lợi để đạt được kết quả tốt hơn . Hoặc
trong dự án bảo vệ môi trường của Chính phủ có thuận lợi về vốn đầu tư
nước ngoài và kỹ thuật xử lý chất thải thì kết quả đạt hiệu quả cao .
Nhưng thực tế có không ít nguyên nhân tác động ngược chiều làm hạn
chế hoặc triệt tiêu kết quả theo dự định. Có thể lấy ví dụ như trong quá
trình thực hiện dự án bảo vệ môi trường, thì có một số cán bộ được giao
nhiệm vụ thực hiện lợi dụng tham nhũng của công
Khi xác định một mối liên hệ nhân quả cụ thể trong một thời gian
nào đó nguyên nhân có trước kết quả vì chỉ có tác động lẫn nhau mới gây
ra sự biến đổi. Nhưng khi xét cả quá trình mối liên hệ nhân quả thì ta thấy
có thể chuyển đổi vị trí cho nhau một cách biện chứng .

Ví dụ : bảo vệ môi trường tốt và mọi người có ý thức giữ gìn môi
trường tốt thì sẽ đưa đến kết quả môi trường trong sạch và là nguyên nhân
của sự phát triển kinh tế đất nước bền vững, sức khoẻ của mọi người
được bảo vệ tốt hơn ; kinh tế đất nước có phát triển bền vững, mọi người
khoẻ mạnh thì đưa đến kết quả đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
mới được cải thiện .
3
Lê Quang Phát
Nói chung , chúng luôn có mối liên hệ phổ biến với nhau tác động
qua lại, qui định sự thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau của sự vật hiện
tượng, quá trình.
II . Vận dụng vào thực tế :
1. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến ô nhiễm môi trường đô thị
:
Một kết quả do nhiều nguyên nhân và ngược lại , ô nhiễm môi
trường
đô thị hiện nay do một số nguyên nhân cơ bản sau đây và từ một nguyên
nhân ô nhiễm môi trường cũng sinh ra nhiều kết quả.
Trong những năm gần đây do quá trình đô thị hoá và do tác động
của cơ chế thị trường giá đất tăng cao nên nhiều ao hồ bị lấp dần để xây
nhà và công trình thậm chí có nơi không còn ao và đất trống nữa dẫn đến
tình trạng thiếu rãnh thoát nước, nước thải từ các hộ gia đình tràn chảy ra
đường vì không có hệ thống thoát nước điều này đã gây ô nhiễm môi
trường rất nghiêm trọng nhiều chỗ bị ngập ngay cả lúc trời không mưa có
thể nói là "thiếu nước sạch thừa nước bẩn".
Nhiều nhà máy trước đây nằm ở ngoại thành nay do đô thị hoá đã
lọt vào giữa các đô thị với dân cư đông đúc gây ô nhiễm môi trường cho
những người sống xung quanh .
4
Lê Quang Phát

Hơn nữa việc mở rộng không gian đô thị sẽ dần dần chiếm dụng
đất nông nghiệp, tài nguyên đất bị khai thác triệt để tỷ lệ cây xanh và mặt
nước trong đô thị bị giảm dẫn đến tình trạng thiếu ôxy không khí ngột
ngạt, ô nhiễm. Bề mặt đất thấm nước, thoát nước bị suy giảm dẫn đến
tình trạng ngập úng ở nội thành cũng như ngoại thành.Thực tế là tháng
8/2001 cả thành phố Hà Nội bị ngập trong nước mưa vì nước không thoát
được dẫn đến tình trạng ngập úng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
trong thành phố .
Không thể không kể đến một nguyên nhân đó là sự bùng nổ về
phương tiện giao thông cơ giới trong đô thị vượt quá khả năng chịu tải
của hệ thống giao thông gây ra tình trạng tắc nghẽn giao thông, thải ra
nhiều khí bụi độc hại (NO,CO),tiếng ồn gây ô nhiễm môi trường không
khí và tiếng ồn trầm trọng trong đô thị .
Đô thị hoá làm tăng dòng người di cư từ nông thôn ra thành thị làm
tăng sức ép về nhà ở và vệ sinh môi trường đô thị . Một số dân cư không
tìm được chỗ ở và việc làm ổn định đã lấn chiếm đất công tạo thành các
xóm liều xóm bụi , nhà ổ chuột với điều kiện môi trường rất kém mất
vệ sinh
Do quá trình xây dựng phát triển kinh tế hiện nay các nhà máy
công nghiệp , các ngành nghề sản xuất phụ phát triển nhanh ngày càng
nhiều do đó mức độ ô nhiễm ở những nơi có nhà máysản xuất công
nghiệp, sản xuất ngành nghề phụ là rất nghiêm trọng .
5
Lê Quang Phát
Do ý thức của không ít cá nhân tổ chức về bảo vệ môi trường còn
rất kém , đây chính là tồn tại khó khắc phục bởi đó là do ý thức kém
Đó là một số nguyên nhân và hậu quả của việc ô nhiễm môi trường
đô thị tạo nên một thách thức rất lớn đối với môi trường ở nước ta . Nếu
không có giải pháp kịp thời và tương xứng có thể dẫn đến tình trạng môi
trường đô thị ngày càng ô nhiễm, không bền vững và khó khắc phục .

2, Thực trạng hậu quả của việc ô nhiễm môi trường đô thị :
a, Hiện trạng môi trường nước :
Tỷ lệ dân cư được cấp nước máy còn rất thấp chất lượng nước còn
kém. Cấp nước sạch cho đô thị là một trong những điều kiện cơ bản để
đảm bảo sinh môi trường đô thị ,"tỷ lệ dân đô thị được cấp nước sạch tính
chung là 53% . Nguồn nước cung cấp cho đô thị hiện nay là khoảng 70%
là lấy từ nguồn nước mặt, 50% lấy từ nguồn nước ngầm"
(1)
. Ở một số
thành phố do khai thác nguồn nước ngầm quá mức đã gây sụt lún đất ở đô
thị và nguồn nước ngầm chớm bị ô nhiễm chất hữu cơ. Khai thác nước
ngầm quá mức ở một số vùng ven biển làm nước bị mặn hoá .
Hiện nay , công nghệ xử lý cấp nước tại nhiều nhà máy còn nhiều
lạc hậu chất lượng nước cấp không đảm bảo vệ sinh .
* Thoát nước và xử lý nước thải chưa đạt yêu cầu tối thiểu.
(
6
Lê Quang Phát
Hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay đều là hệ thống chung cho cả
thoát nước mưa , nước thải công nghiệp . Hệ thống thoát nước này có 3
nhược điểm chính là chưa có trạm xử lý nước thải tập trung tiết diện các
đường cống nhỏ và bị bùn cạn lắng đọng làm khả năng thoát nước kém,
hệ thống cống rãnh thưa, nhiều nhiều đường phố không có cống thoát
nước . Hệ thống cống rãnh thoát nước yếu kém cùng với hồ ao bị san lấp
đã gây ra tình trạng úng ngập trầm trọng trong mùa mưa ở rất nhiều nơi,
ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và sản xuất kinh tế . Lấy ví dụ như
trận mưa tháng 8 -2001 đã làm cả thủ đô tràn ngập trong nước mưa, cán
bộ công nhân viên không thể đi làm được và một số nhà máy
cũng bị đóng cửa vì cũng bị ngập dẫn đến sản xuất bị đình đốn ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế của đất nước ta , hơn thế nữa nó còn ảnh hưởng đến

sức khoẻ của người dân.
Tuy nhiên hiện nay ở Hà Nội đã xây dựng trạm bơm thoát nước
Yên Sở bắt đầu nạo vét sông, thoát nước nhằm giải quyết cơ bản tình
trạng úng ngập trong mùa mưa nhưng hệ thống thoát nước ở nội đô vẫn
chưa được nâng cấp đáng kể nên tình trạng ngập úng trong thời gian gần
đây vẫn xảy ra nghiêm trọng
Nước thải bệnh viện : chứa rất nhiều mầm mống gây bệnh truyền
nhiễm và các hoá chất độc hại. Mà các nguồn nước thải này chỉ được xử
lý sơ bộ lại thải trực tiếp vào nguồn nước mặt đó chính là nguyên nhân
chủ yếu gây nên ô nhiễm môi trường nước mặt ở đô thị còn các nguyên
7
Lê Quang Phát
nhân kia chỉ là nguyên nhân bên trong . Và cho dù nó là nhiều nguyên
nhân hay một nguyên nhân thì nó cũng gây nên nhiều kết quả bởi nó có
mối liên hệ biện chứng với nhau .
* Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước ở đô thị
Tình hình chung ở các đô thị là môi trường nước mặt đều là nơi
tiếp nhận các nguồn nước chưa được xử lý nên đã bị ô nhiễm có nơi bị ô
nhiễm nặng . "Nồng độ chất ô nhiễm trong nước mặt thường cao như chất
rắn lửng lơ nhu cầu ôxy sinh hoá , nhu cầu oxy hoá học , nitơrit ,
nitơrat gấp từ hai đến 5 lần thậm chí từ 10 đến 15 lần tiêu chuẩn cho
phép (TCCP) đối với nguồn nước mặt . Lượng hóa học côli vượt TCCP
hàng trăm lần . Ngoài chất ô nhiễm hữu cơ trên môi truờng nước mặt đô
thị ở một số nơi còn bị ô nhiễm kim loại nặng và hoá chất độc hại nặng
như thuỷ ngân asen ,clo, phenon ” dẫn đến tình trạng sức khoẻ ngày
càng suy thoái số bệnh nhân tại khoa chống độc ở các bệnh viện ngày
càng tăng nhanh nhà nước đã phải đầu tư rất nhiều tiền vào chữa trị cho
người dân và còn dẫn đến nhiều ảnh hưởng khác.
8
Lê Quang Phát

b, Hiện trạng môi trường không khí :
* Ô nhiễm bụi rất trầm trọng
Ở hầu hết các đô thị đều bị ô nhiễm rất trầm trọng tới mức báo động
"nồng độ bụi trung bình ở các thành phố là 0,4 đến 0,5 mg/m,
nồng độ bụi ở các khu dân cư bên cạnh các nhà máy , xí nghiệp
hay gần đường giao thông lớn đều vượt TCCP từ 1,5 đến 3 lần
nơi bị ô nhiễm lớn nhất trong các địa điểm là khu dân cư gần các
nhà máy xi măng Hải Phòng "
(3)
. Ô nhiễm bụi chủ yếu do giao
thông vận tải xây dựng sửa chữa nhà cửa và một phần do sản
xuất công nghiệp gây ra .
.
* Ô nhiễm các khí SO2 , CO , NO2 .
"Nồng độ khí SO2 , CO , NO2 ở một số khu trung cư gần khu
công nghiệp thì vượt quá mức độ cho phép nhiều lần, ở một số nút giao
thông lớn trong đô thị nồng độ khí NO2 vượt quá TCCP " .
(4)

* Ô nhiễm tiếng ồn đô thị :
Theo kết quả quan trắc cho thấy mức độ ồn ào ngoài nhà vào buổi
tối thì vượt quá TCCP.
Tỷ lệ cây xanh thấp cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến ô nhiễm
môi trường đô thị tỷ lệ cây xanh ở các khu công nghiệp , khu đô thị còn
quá thấp cho dù trong thời gian gần đây ở khắp các nước ta hầu hết đã
(
(
9
Lê Quang Phát
quan tâm trồng cây xanh hơn . " ở một số khu công nghiệp khi thẩm

duyệt xây dựng thì không thực hiện yêu cầu của Khoa học công nghệ môi
trường là phải dành 15% diện tích để trồng cây xanh "
(5)
2, Giải quyết mâu thuẫn & Biện pháp khắc phục :
Qua đây có lẽ chúng ta cũng thấy được những nguyên nhân của sự
ô nhiễm môi trường và tầm quan trọng của môi trường với đời sống con
người và đối với phát triển kinh tế xã hội đồng thời cũng thấy được mức
độ trầm trọng của sự ô nhiễm môi trường ảnh hưởng như thế nào . Vậy
em xin được đưa ra một số đề xuất về biện pháp giải quyết và khắc phục
ô nhiễm môi trường đô thị đó là :
+ Cần bổ xung chính sách thuế phí, quỹ môi trường chính sách về áp
dụng công nghệ sạch hơn , công nghệ ít chất thải , công nghệ xử lý chất
thải .
+ Tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý kết hợp các
công cụ quản lý có tính mệnh lệnh . Đảm bảo công bằng các lợi ích về
môi trường .
+ Tăng cường các biện pháp cưỡng chế tài chính đối với hành vi
không tuân thủ quy định bảo vệ môi trường .
+ Cần đẩy mạnh phong trào văn hoá công tác bảo vệ môi trường đó là
khôi phục củng cố phát huy truyền thống địa phương trong giữ gìn vệ
sinh phường khu phố như phong trào trồng cây xanh sạch đẹp
(
10
Lê Quang Phát
+ Vận động dân cư có ý thức bảo vệ môi trường , mỗi người dân tự
mình phải có ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp
Môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống
và sự phát triển của con người, của mỗi Quốc gia, của
toàn nhân loại. Bảo vệ môi trường là các hoạt động giữ
cho môi trường xanh, sạch, đẹp, bảo đảm cân bằng sinh

thái. Trong sinh hoạt đời sốngvà phát triển kinh tế - xã hội
không được làm ô nhiễm môi trường, thường xuyên áp
dụng các biện pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất và
sinh hoạt. Khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn
tài nguyên thiên nhiên; chăm sóc, bảo vệ các loài động
vật quý hiếm cần bảo tồn. Có các biện pháp ngăn chặn,
khắc phục các hậu quả xâu do con người và thiên nhiên
gây ra.
TCCS - Ngày 21-1-2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra
Chỉ thị số 29-CT/W về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết
số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX "Về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước". Chỉ thị của Ban Bí thư đã đặt ra nhiều nhiệm vụ mới,
nhấn mạnh nhiều quan điểm mới, sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo
11
Lê Quang Phát
công tác bảo vệ môi trường trong suốt thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thấu suốt mục tiêu, quan điểm của Đảng về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định, kết hợp hài hòa
giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi
trường theo hướng phát triển bền vững. Quan điểm đó của
Đảng đã được cụ thể hóa sâu sắc trên những điểm sau:
Thứ nhất, ô nhiễm, suy thoái môi trường là một trong những vấn
đề mà loài người đang phải đối mặt song song với các vấn đề đói
nghèo, đại dịch AIDS Những vấn đề này đang đe dọa sự tồn tại
và phát triển của trái đất, vì vậy, bảo vệ môi trường cũng đồng
nghĩa với bảo vệ môi trường sống, bảo đảm mọi người dân được
sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp, góp phần nâng cao

sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đồng thời là nội
dung quan trọng của phát triền bền vững.
Thứ hai, để phát triển bền vững đất nước, cần phải có sự kết hợp
cân đối, hài hòa giữa ba nội dung là: phát triển kinh tế, bảo đảm
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, phải xem bảo vệ môi
trường là một nội dung quan trọng, không thể tách rời trong quá
12
Lê Quang Phát
trình phát triển kinh tế và không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá
mà xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường. Việc lồng ghép yếu tố
môi trường trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và dự án
phát triển của các cấp, các ngành phải được quan tâm đúng mức
và thực hiện một cách nghiêm túc. Đầu tư cho bảo vệ môi trường
cần phải có những chuyển biến rõ rệt trong quan điểm về đầu tư,
mức đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư đối với công tác bảo vệ môi
trường. Đa dạng hóa nguồn lực tài chính đầu tư cho bảo vệ môi
trường thông qua các tổ chức quốc tế, cá nhân và xã hội hóa hoạt
động bảo vệ môi trường.
Thứ ba, bảo vệ môi trường đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Điều
đó, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân, hộ gia đình phải tham gia vào
các hoạt động bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ môi trường chỉ
có thể thành công và hiệu quả khi có sự tham gia tích cực của cả
hệ thống chính trị, của toàn xã hội. Bảo vệ môi trường được xem
là nét văn hóa, đạo đức của con người trong xã hội văn minh. Con
người phải có hành xử văn hóa đối với môi trường, thiên nhiên,
không thực hiện các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường
mà phải sống hài hòa và thân thiện với thiên nhiên.
Thứ tư, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường là việc
làm khó khăn, tốn kém. Phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối
13

Lê Quang Phát
với môi trường là biện pháp hiệu quả nhất và phù hợp nhất. Nếu
công tác phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi
trường được thực hiện khoa học, nghiêm túc và hiệu quả thì sẽ
tiết kiệm được nguồn lực lớn cho công tác khắc phục, phục hồi
môi trường sau này. Phải thực hiện các nội dung bảo vệ môi
trường ở ngay từ khâu lập, thẩm định và phê duyệt các chiến
lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển nhằm
tránh và không để xuất hiện các nguồn gây ô nhiễm trong
tươnglai.
Thứ năm, bảo vệ môi trường phải được thực hiện thường xuyên,
lâu dài và đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo và quản
lý thống nhất của Chính phủ cũng như sự tham gia của các cấp,
các ngành và toàn xã hội. Đây là nhiệm vụ cấp thiết trong bối cảnh
ô nhiễm, suy thoái môi trường đang ngày càng nghiêm trọng, đã
và đang ảnh hưởng xấu trực tiếp đến sức khỏe, môi trường sống
của nhân dân và phát triển bền vững đất nước. Để thực hiện công
tác bảo vệ môi trường hiệu quả, cần xác định những vấn đề ưu
tiên, trọng tâm và cấp bách để xử lý, giải quyết, tránh thực hiện
dàn trải.
Thứ sáu, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo
vệ môi trường, đại diện cho nhân dân quản lý và bảo vệ môi
14
Lê Quang Phát
trường, đem lại môi trường trong lành, sạch đẹp. Tăng cường
quản lý nhà nước là cần thiết và là nhiệm vụ cấp bách để đáp ứng
các yêu cầu bảo vệ môi trường trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Hoàn thiện thể chế và pháp luật bảo vệ môi trường theo
hướng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, kết hợp

giữa quản lý tài nguyên với bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực
của bộ máy và cán bộ làm công tác quản lý môi trường.
Thứ bảy, đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, có cơ
chế, chính sách, khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham
gia bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng,
các đoàn thể nhân dân đối với bảo vệ môi trường của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân. Mọi tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường phải có trách nhiệm khắc phục, phục hồi, bồi
thường thiệt hại. Môi trường là tài sản quốc gia, Nhà nước với tư
cách là đại diện có trách nhiệm quản lý và bảo vệ môi trường sống
cho nhân dân, có quyền buộc các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm,
suy thoái môi trường phải bồi thường, khắc phục và phục hồi môi
trường.
Đảng ta cũng chỉ ra mục tiêu bảo vệ môi trường về cơ bản, lâu dài
là phải đạt được sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện
15
Lê Quang Phát
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường; mọi người đều có ý thức bảo
vệ môi trường và sống trong môi trường trong lành, sạch, đẹp và
thân thiện với thiên nhiên. Mục tiêu này bao trùm lên toàn bộ các
hoạt động bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm phát triển bền vững
đất nước.
Tuy nhiên, mục tiêu trước mắt là phải ngăn ngừa, hạn chế mức độ
gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của
con người và tác động của tự nhiên gây ra; khắc phục ô nhiễm
môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng,
phụchồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái; quản lý, sử dụng hợp lý,
bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học; từng
bước nâng cao chất lượng môi trường.
Những hạn chế trong thực hiện và nguyên nhân

Thời gian qua, nhờ tập trung thực hiện có hiệu quả trong thực tế
các mục tiêu, quan điểm của Đảng, công tác bảo vệ môi trường đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức về bảo vệ môi trường
trong các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên. Mức độ
gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước
được hạn chế. Công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng
sinh học đã đạt những tiến bộ rõ rệt. Hệ thống các quan điểm,
mục tiêu, giải pháp; hệ thống pháp luật, tổ chức và nhân lực cho
16
Lê Quang Phát
bảo vệ môi trường được xây dựng, liên tục bổ sung và hoàn thiện
đã góp phần hạn chế các tác động tiêu cực lên môi trường.
Bên cạnh những thành tựu rất cơ bản, tình trạng môi trường trong
mấy năm gần đây vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc, nguyên nhân
chính là do sự phát triển thiếu bền vững. Có hơn 90% số cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không xử lý chất thải trước khi thải
ra môi trường. Hơn 70% các khu công nghiệp, hơn 90% các khu
đô thị, dân cư không có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hầu
hết các làng nghề đang trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi
trường. Có hơn 4.000 cơ sở đang hoạt động thuộc diện gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý triệt để. Hầu hết các bãi
chôn lấp chất thải rắn còn thô sơ, không bảo đảm các yêu cầu tối
thiểu về kỹ thuật. Phần lớn chất thải nguy hại còn tồn đọng mà
chưa có hướng giải quyết. Hậu quả là nhiều dòng sông bị ô nhiễm
nặng, nhiều nơi nguồn nước mặt, nước ngầm bị nhiễm độc.
Không khí ở nhiều đô thị không còn bảo đảm chất lượng. Nhiều
bệnh tật nguy hiểm xuất hiện. Theo tính toán của các chuyên gia,
trong 20 năm qua, mức độ ô nhiễm, suy thoái môi trường tăng
khoảng 10 - 15 lần.
Điều dễ nhận thấy là, do chúng ta phải tập trung mọi nguồn lực và

giải pháp để thoát ra khỏi tình trạng suy thoái kinh tế, tụt hậu,
17
Lê Quang Phát
trong một thời gian dài môi trường đã không được quan tâm đúng
mức. Kết cấu hạ tầng khu đô thị và khu công nghiệp không có các
công trình bảo vệ môi trường, các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ không thực hiện các yêu cầu bảo vệ môi trường dẫn đến
việc tồn tại nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải
xử lý triệt để.
Năng lực tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
của các doanh nghiệp ở nước ta còn yếu. Cả nước hiện có
khoảng 200.000 doanh nghiệp, trong đó các doanh nghiệp có quy
mô lớn, có khả năng tài chính chỉ chiếm khoảng 25%, còn lại chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (có số vốn đăng ký dưới 10 tỉ
đồng, hoặc số lượng lao động trung bình hằng năm dưới 300
người). Khi tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, thông thường chủ các
doanh nghiệp sẽ tập trung cho phát triển sản xuất, kinh doanh, mà
không chú trọng những mục tiêu môi trường. Kết quả của đợt
khảo sát về công tác bảo vệ môi trường trong các khu công
nghiệp tại 3 miền Bắc, Trung, Nam của Cục Bảo vệ môi trường
vừa qua cho thấy, hầu hết các ban quản lý khu công nghiệp đều
không có bộ phận chuyên trách về quản lý môi trường.
Công nghệ sản xuất ở một bộ phận lớn các doanh nghiệp vẫn là
công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều tài nguyên, năng lượng và sinh
18
Lê Quang Phát
ra nhiều chất thải. Theo đánh giá của nhiều tổ chức nước ngoài,
các doanh nghiệp có công nghệ cao ở nước ta chỉ khoảng 20%,
trong khi đó ở Phi-lip-pin, con số đó là 29%, Ma-lai-xi-a: 51% và
Xin-ga-po: 73%. Công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi

trường hiện vẫn là “xa xỉ” đối với phần lớn các doanh nghiệp. Sự ô
nhiễm từ làng nghề có nguyên nhân chủ yếu là do trang thiết bị,
công nghệ sản xuất rất lạc hậu. Tại các làng nghề tái chế thép dân
dụng, người ta sử dụng chủ yếu các thiết bị cũ kỹ, lạc hậu nhập từ
Trung Quốc; trong chế biến lương thực thì chủ yếu sử dụng máy
móc tự tạo, hiệu suất rất thấp. Điều này đã tạo thêm hậu quả xấu
về ô nhiễm môi trường lao động cho những người nghèo trong xã
hội.
Việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường thời gian qua còn yếu
kém, một phần do năng lực hạn chế của Nhà nước trong việc đáp
ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Quan điểm phát triển bền
vững của Đảng chưa được nhận thức, tiếp thu và coi trọng. Nhiều
cấp lãnh đạo của các bộ, ngành, các tỉnh và thành phố vẫn coi
phát triển kinh tế là ưu tiên số một. Phát triển kinh tế trước, xử lý ô
nhiễm môi trường sau, trong khi phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm
là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động bảo vệ môi
19
Lê Quang Phát
trường. Tư tưởng này đã dẫn đến sự thỏa hiệp các mục tiêu môi
trường để nhận lấy những lợi ích về kinh tế.
Ở nước ta, rừng vẫn đang bị tàn phá, đa dạng sinh học bị đe dọa,
môi trường đất, nước ở nông thôn đang xấu đi do sử dụng phân
bón, hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật không hợp lý. Ở khu vực
đô thị, rác thải vứt bừa bãi, ô nhiễm không khí do sinh hoạt đang
là vấn đề bức xúc. Nguyên nhân của các vấn đề này là do những
hạn chế trong năng lực tuân thủ pháp luật về môi trường của cộng
đồng dân cư. Một bộ phận người dân vẫn còn nghèo, sống chủ
yếu dựa vào môi trường, vì mưu sinh mà phá hoại môi trường.
Những người nghèo ở vùng miền núi phía Bắc hay Tây Nguyên, vì
không có đất canh tác nên đã phá rừng để trồng trọt. Phương thức

canh tác du canh du cư không bền vững, hủy hoại tài nguyên mà
vẫn không thoát được nghèo. Người nghèo ở vùng ven biển, sống
chủ yếu dựa vào đánh bắt ven bờ, sử dụng những phương tiện
đánh bắt hủy diệt gây cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, làm cho bản
thân họ ngày càng nghèo thêm. Người nghèo ở khu vực đô thị, do
không có điều kiện phải sống ở những nơi “ổ chuột”, phải sử dụng
nhiên liệu gây ô nhiễm trong sinh hoạt, trốn tránh nộp phí thu gom
rác thải bằng việc vứt rác bừa bãi.
20
Lê Quang Phát
Nhận thức của cộng đồng về lợi ích bảo vệ môi trường còn hạn
chế. Một bộ phận người dân vẫn thích ăn thịt thú rừng, dùng thú
rừng để chữa bệnh, mà không biết đã góp phần săn bắt động vật
hoang dã trái phép, thích dùng các loại gỗ quý hiếm để làm nhà
mà không nghĩ mình đã tiếp tay cho lâm tặc. Nhận thức về vệ sinh
môi trường quá thấp, thói quen sinh hoạt bừa bãi ở một số vùng
nông thôn cũng là vấn đề lớn gây ô nhiễm môi trường, dịch bệnh
tác hại đến sức khỏe con người. Theo thống kê từ dịch tả năm
2008 cho thấy, có xã có đến 100% số hộ gia đình không có, hoặc
có nhà vệ sinh không hợp vệ sinh, mặc dù đây không phải là
những hộ nghèo, xã nghèo. Nhận thức hạn chế về môi trường
cũng dẫn đến hành vi gây ô nhiễm, phóng uế nơi công cộng, tại
các điểm danh lam thắng cảnh. Trong nông nghiệp do nhận thức
và hiểu biết hạn chế đã dẫn đến việc sử dụng không đúng cách
các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, gây ô nhiễm nghiêm
trọng môi trường đất, môi trường nước.
Thực hiện kiên quyết, đồng bộ các giải pháp
Để nhanh chóng khắc phục những yếu kém, thực hiện có hiệu quả
hơn nữa trong thực tế các mục tiêu, quan điểm của Đảng về bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

21
Lê Quang Phát
hóa, chúng ta phải tập trung thực hiện kiên quyết, đồng bộ các giải
pháp sau:
Một là, tích cực phòng ngừa ô nhiễm môi trường, lồng ghép yêu
cầu môi trường ngay từ khâu xây dựng, phê duyệt chiến lược, quy
hoạch và dự án phát triển, đánh giá tác động môi trường và cam
kết bảo vệ môi trường. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
kiểm soát ô nhiễm ở các cấp quốc gia, ngành, địa phương để
ngăn chặn, xử lý và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, suy thoái
môi trường. Kiểm tra, giám sát và có biện pháp xử lý nghiêm khắc
đối với các công trình xây dựng, các phương tiện chuyên chở vật
liệu xây dựng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô
nhiễm môi trường.
Hai là, ưu tiên phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm
nghiêm trọng, các hệ sinh thái bị suy thoái nặng như các địa điểm
khai thác khoáng sản, biển và ven biển, các thành phố lớn. Giải
quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi
trường trong các khu dân cư do chất thải trong sản xuất công
nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp gây ra. Từng bước khắc phục các
khu vực bị nhiễm độc do hậu quả chất độc hóa học của Mỹ sử
dụng trong chiến tranh. ứng phó sự cố môi trường và khắc phục
nhanh hậu quả ô nhiễm môi trường do lũ lụt. Bảo đảm tính hiệu
22
Lê Quang Phát
quả, bền vững trong khai thác và sử dụng các nguồn tàinguyên
thiên nhiên trước mắt cũng như lâudài.
Ba là, hình thành ý thức giữ gìn vệ sinh chung, từ bỏ các phong
tục, tập quán lạc hậu, các thói quen, nếp sống không văn minh,
thiếu vệ sinh, các hủ tục trong mai táng. Xây dựng công sở, xí

nghiệp, gia đình, làng bản, khu phố sạch, đẹp đáp ứng các yêu
cầu về vệ sinh môi trường. Đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp
nước sạch và vệ sinh môi trường cho nhân dân. Quan tâm bảo vệ,
giữ gìn và tôn tạo cảnh quan môi trường. Thực hiện các biện pháp
nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường các khu di tich lịch sử, danh
lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện chính sách và tiêu chuẩn môi
trường phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngăn chặn
việc lợi dụng rào cản môi trường trong xuất khẩu hàng hóa làm
ảnh hưởng xấu đến sản xuất, kinh doanh. Hình thành các cơ chế
công nhận, chứng nhận phù hợp với điều kiện trong nước và tiêu
chuẩn quốc tế về môi trường. Tăng cường năng lực kiểm soát,
ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi chuyển chất thải, công
nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường từ bên ngoài vào nước ta.
Năm là, chấm dứt nạn đổ rác và xả nước thải chưa qua xử lý đạt
tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, ao, hồ; xử lý ô
23
Lê Quang Phát
nhiễm và bảo vệ môi trường các lưu vực sông. Thu gom và xử lý
toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các
phương pháp thích hợp, trong đó ưu tiên cho việc tái sử dụng, tái
chế chất thải, hạn chế tối đa khối lượng rác chôn lấp, nhất là với
các đô thị thiếu mặt bằng làm bãi chôn lấp. Xử lý triệt để các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; kiên quyết đình chỉ hoạt
động hoặc buộc di dời đối với những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm
trọng trong khu dân cư nhưng không có giải phắp khắc phục có
hiệu quả. Tăng cường lượng cây xanh dọc các tuyến phố và vành
đai xanh xung quanh đô thị.
Sáu là, bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên, rừng ngập mặn; hạn
chế đến mức thấp nhất việc mở đường giao thông và các hoạt

động gây tổn hại đến tài nguyên rừng; đẩy mạnh trồng rừng, phủ
xanh đất trống, đồi trọc và khôi phục rừng ngập mặn; phát triển kỹ
thuật canh tác trên đất dốc có lợi cho bảo vệ độ màu mỡ của đất,
ngăn chặn tình trạng thoái hóa đất và sa mạc hóa đất đai. Nghiêm
cấm triệt để việc săn bắt chim, thú trong danh mục cần bảo vệ;
ngăn chặn nạn sử dụng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt
nguồn lợi thủy, hải sản; quy hoạch phát triển các khu bảo tồn biển
và bảo tồn đất ngập nước.
24
Lê Quang Phát
Bảy là, đưa nội dung môi trường và bảo vệ môi trường vào
trường học. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong
bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các tổ chức, xã hội, đoàn
thể, các hoạt động, phong trào, diễn đàn về bảo vệ môi trường.
Xây dựng tiêu chí bảo vệ môi trường để xem xét, công nhận làng,
xã, gia đình văn hóa. Khen thưởng, tuyên dương các hoạt động,
điển hình tốt trong bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền
vững./.
Năm 2009, trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu và diễn biến phức
tạp của tình hình thế giới đã tác động trực tiếp đến báo chí cả nước nói
chung và của tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Trước tình hình đó, các cơ quan
báo chí địa phương luôn bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy - Ủy
ban nhân dân tỉnh thực hiện tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận
của Đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề
nghiệp, đoàn thể quần chúng, vừa là diễn đàn của nhân dân. Tích cực
tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng HCM, các chủ trương,
Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình
hành động, văn bản chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đến cán
bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng, Nhà nước; góp phần tổng

kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cổ vũ, động viên phong trào thi đua
25

×