Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.67 KB, 77 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của đề tài
Cho đến nay, tại Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, lạm
phát vẫn luôn là mối đe dọa thường xuyên đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Lạm phát làm sói mòn niềm tin của dân chúng vào các chính sách của chính
phủ, tăng khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo trong xã hội,
lạm phát ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế và ổn định vĩ mô và an sinh xã hội. Vì vậy mọi nền kinh tế luôn
tìm cách để hạn chế lạm phát, cũng là để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực do nó
mang lại. Do lạm phát có nguyên nhân sâu xa là sự tăng cao của cung tiền đối
với nền kinh tế, nên các biện pháp mang tính dài hạn đều tập trung vào việc xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả và chính sách tài
khóa bền vững.Việc sử dụng chính sách tiền tệ sao cho hợp lý cũng như việc
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để có thể
đem lại hiệu quả tối ưu trong việc hạn chế lạm phát là mối quan tâm của hầu
hết các nền kinh tế.
Tại Việt Nam, lạm phát một số năm gần đây có những biến động vô
cùng phức tạp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản, cốt lõi và bản chất của CSTT trên
phương diện lý thuyết, cũng như những vấn đề cơ bản về lạm phát để từ đó thấy
rõ được tác động của CSTT tới kiểm soát lạm phát.
- Nghiên cứu thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam trong thời gian
qua trong việc kiềm soát lạm phát và nguyên nhân lạm phát của Việt Nam, trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng CSTT
trong kiểm soát lạm phát.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ, lạm phát.
Bên cạnh đó là phân tích mối quan hệ của chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ để thấy được những nhân tố ảnh hưởng và tác động của hai chính sách này
11111


đối với nền kinh tế Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát từ năm 2005 -
6/2011.
4.ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài
Mặc dù vấn đề CSTT và lạm phát đã được nhiều tác giả nghiên cứu, song với thực tế
của Việt Nam khi mà lạm phát vẫn tiếp tục có xu hướng tăng cao thì việc hệ thống
hóa những vấn đề lý luận về CSTT và lạm phát, trên cơ sở đó soi dọi vào thực tế
Việt Nam, tìm ra những nguyên nhân căn bản của lạm phát và đề xuất những giải
pháp về CSTT để kiểm soát lạm phát có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài phương pháp triết học duy vật biện chứng và lịch sử thường được sử dụng
trong nghiên cứu khoa học nói chung, trong phân tích định tính đề tài tập trung vào
các khía cạnh các nhân tố tác động trong điều kiện lịch sử cụ thể, trên cơ sở các lý
thuyết kinh tế vĩ mô, tiền tệ và ngân hàng, sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền
thống của khoa học kinh tế chính trị, phương pháp logic, phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp phân tích đối chiếu, phương pháp so sách, kết hợp lý luận và
thực tiễn.
6. kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Đề tài gồm 3 chương:
ChươngI: Lý luận về chính sách tiền tệ và kinh nghiệm sử dụng chính sách tiền tệ
nhằm kiểm soát lạm phát.
Chương II : Thực trạng lạm phát và việc sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát
lạm phát tại Việt Nam.
Chương III. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc
kiểm soát lạm phát.
22222
Phần hai : Nội dung
Chương I: Lý luận về chính sách tiền tệ và lạm phát
1.1- Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và lạm phát
1.1.1. Chính sách tiền tệ
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất CSTT

Trong kinh tế học vĩ mô, CSTT được coi là một công cụ quản lý kinh tế
vĩ mô do NHTW thực hiện. Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền
(money supply) làm thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh
hưởng đến chi tiêu của các khu vực nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động
quan trọng đến GDP thực, GDP tiềm năng và lạm phát. Như vậy có thể khái
quát quá trình hoạt động của CSTT, như là một quá trình được khởi đầu từ
những hành động của NHTW làm thay đổi cung tiền của toàn bộ nền kinh tế
( hành động này chứa đựng ý muốn chủ quan của con người), và kết quả cuối
cùng của hành động đó là tác động đến GDP ( thực và tiềm năng) và lạm phát.
Thực tế cũng cho chúng ta thấy khi muốn tăng trưởng kinh tế chống suy thoái,
NHTW có thể tăng cung tiền nhằm hạ lãi suất để thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Ngược lại, khi muốn hạn chế tăng trưởng kinh tế, giảm lạm phát NHTW đã tác
động giảm cung tiền làm tăng lãi suất, giảm đầu tư.
Hành động của NHTW không thể là một hành động tuỳ tiện, do vậy,
CSTT phải là cách thức hay tổng thể các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm
góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc chi
phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối
dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
Vậy cung ứng tiền ở đây bao gồm những thành phần gì?
Khái niệm tiền tệ theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền
tệ đó là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để nhận hàng hoá
hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Theo khái niệm đó, tiền tệ đề cập ở đây
được hiểu theo nghĩa rộng, không phải chỉ là “tiền mặt” đơn thuần, mà là “
33333
cung ứng tiền”. Cấu thành của cung ứng tiền được NHTW các nước đúc kết
qua quá trình tiến hoá của tiền tệ, đến nay gồm:
- Tiền hẹp ( M1- còn gọi là tiền giao dịch, tiền có thể thanh toán ngay),
gồm: tiền mặt trong lưu thông + tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM
Tiền rộng( M2- còn gọi là tiền “tài sản”), gồm: M1+ tiền gửi có kỳ
hạn gửi tại các NHTM + tiền gửi ngoại tệ ( không và có kỳ hạn) + số

dư tài khoản các chứng từ có giá do ngân hàng phát hành.
ở một số nước thị trường tài chính phát triển cơ cấu tiền rộng còn
phức tạp hơn, có thể phân thành M3, M4 v.v
Tiền tệ theo nghĩa rộng( cung ứng tiền) như trên có ảnh hưởng lờn đối
với đời sống kinh tế, xã hội. Các nhà kinh tế học như Mác và sau Mác như
Friedman, Keynes, Fisher đã cho ta thấy tiền tệ gắn liền với những thay đổi
trong các biến số kinh tế (sản lượng, việc làm, giá cả). Những thay đổi trong
các biến số đó ảnh hướng toàn bộ đến đời sống kinh tế, xã hội. Chính vì vậy
vấn đề quản lý tiền tệ đã được đặt ra. Ngân hàng trung ương (NHTW) được
hình thành từ những cuộc hoảng loạn tiền tệ và ngân hàng xảy ra trong những
năm đầu của thế kỷ 19, từ đó đến nay các quốc gia đều có NHTW với tư cách
là cơ quan quản lý tiền tệ cuả quốc gia - cơ quan duy nhất phát hành tiền, là
ngân hàng của các NH và gánh vác nhiệm vụ quan trọng là xây dựng và thực
thi CSTT nhắm đảm bảo sự ổn định hệ thống tiền tệ, hệ thống NH .
Có thể nói CSTT là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất, quan trọng
nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong kinh tế học vĩ mô vì tính chất đa dạng của
nó. Tuy điều hành CSTT rất khác nhau giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển
kinh tế, khác nhau giữa các nước, song việc xây dựng và thực thi CSTT của
NHTW đều tuân theo một qui trình của khuôn khổ nhất định - khuôn khổ
CSTT. Khuôn khổ này thường xuyên được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với
sự biến động không ngừng của môi trường kinh tế, tài chính.
Qui trình hoạt động của CSTT có thể tóm tắt như sau:
Công cụ CSTT MT hoạt động MT trung gian mục tiêu CC
Qui trình này thực hiện thông qua một cơ chế truyền dẫn tiền tệ.
44444
1.1.1.2. Các mục tiêu của CSTT
Sẽ có câu hỏi đặt ra rằng, tại sao lại là “hệ thống mục tiêu CSTT?” Về mặt lý thuyết
cũng như thực tế đã chỉ ra rằng để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, NHTW
trong quá trình điều hành CSTT phải theo đuổi những mục đích trực tiếp và gián
tiếp khác. Cái đích này có sự liên kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của

CSTT, từ đó hình thành hệ thống mục tiêu của CSTT. Lựa chọn các mục tiêu CSTT
được coi là vấn đề quan trọng nhất và khó khăn nhất trong xây dựng và thực thi
CSTT, nó quyết định tính hiệu quả hay không hiệu quả của CSTT, bởi vì mục tiêu
CSTT quyết định cả một chiến lược CSTT.
Mục tiêu cuối cùng của CSTT
Mục tiêu cuối cùng của CSTT phải là mục tiêu trung dài hạn, vì tính tác động trễ
của tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. Vì CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô, nên mục tiêu CSTT theo đuổi không ngoài mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Lý
thuyết về kinh tế học vĩ mô đã xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô là mức sản lượng
cao và tăng trưởng nhanh, mức công ăn việc làm hữu hiệu với mức thất nghiệp tự
nguyện thấp nhất, ổn định giá cả. Trên thực tế NHTW các nước điều hành CSTT
thực chất đều theo đuổi mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là duy nhất để
nền kinh tế đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng bền vững, công
ăn việc làm cao và lạm phát thấp, mà để đạt được điều đó phải đồng thời thực hiện
nhiều chính sách khác trong sự phối hợp đồng bọ với nhau, như chính sách tài khóa,
chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại. Do vậy, mục tiêu cuối cùng của CSTT
được NHTW các nước đặt ra một cách cụ thể hơn , đôi khi là gián tiếp để đạt được
mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Đối với các nước đã phát triển, mục tiêu cuối cùng của
CSTT thường đặt ra là ổn định giá cả ở mức thấp. Song đối với các nước đang phát
triển, những nước trong quá trình chuyển đổi mục tiêu cuối cùng của CSTT mang
tính đa mục tiêu, tùy theo mức độ phát triển của thị trường mà theo đuổi các mục
tiêu khác nhau. Chẳng hạn những nước tiếp cận nguồn vốn quốc tế kém, qua đó mà
khả năng mất cân đối đối ngoại lớn thì mục tiêu CSTT, ngoài việc kiểm soát lạm
phát, còn theo đuổi cân bằng cán cân thanh toán.
55555
Có thể khái quát hóa mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ
trợ sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là để kiểm cùng được lượng
hóa cụ thể phù hợp với diễn biến kinh tế và diễn biến tiền tệ.
+ ổn định giá cả
Đây là mục tiêu hàng đầu của CSTT và là mục tiêu dài hạn. Giờ đây NHTW một số

nước nhận thấy rõ ràng việc ổn định giá cả hoặc giá trị tiền tệ duy nhất thuộc về cstt.
ổn định giá trị tiền tệ là ổn định sức mua của tiền tệ và ổn định giá cả. Các NHTW
thường lượng hóa mục tiêu này bằng tỷ lệ tăng của chỉ số giá tiêu dùng xã hội.
Việc công bố công khai chỉ tiêu này là cam kết của NHTW nhằm ổn định giá trị tiền
tệ về mặt dài hạn. Điều này có nghĩa là NHTW sẽ không tập trung điều chỉnh sự biến
động giá cả về mặt ngán hạn. Do những biện pháp về cstt tác động đến NKT có tính
chất trung và dài hạn, hơn nữa khó có thể dự đoán chính xác kết quả sẽ xảy ra vào
thời điểm nào trong tương lai, vì vậy sẽ là không khả thi đối với nhtw trong việc theo
đuổi để kiểm soát giá cả trong ngắn hạn.
ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô.
Mức lạm phát thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu
đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có
tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã hội.
Lạm phát cao hay thiểu phát liên tục là rất tốn kém cho xã hội, thậm chí ngay cả
trong trường hợp nền kinh tế phát triển khả quan nhất, sự biến động liên tục của các
tỷ lệ lạm phát dự tính làm méo mó, sai lệch thông tin và do đó làm cho các quyết
định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và không có hiệu quả. Nguy hiểm hơn, sự
bất ổn định giá cả làm dẫn đến sự phân phối lại không dân chủ các nguồn lực kinh tế
trong xã hội giữa các nhóm dân cư.
+ Tăng trưởng kinh tế
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng
có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải được biểu
hiểu cả về khối lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một
66666
cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước tăng
lên.
Một NKT phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ CSKT vĩ
mô nào. Đó là nền tảng cho mọi sự ổn định, vì một NKT tăng trưởng sẽ đảm bảo các
chính sách xã hội được thỏa mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện

tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của NKT trên thị trường
quốc tế.
+ Đảm bảo công ăn việc làm.
CSTT phải quan tâm tới khả năng tạo công ăn việc làm, giảm áp lực xã hội của thất
nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi ba lý do: (i) Chỉ số thất
nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó phản ánh
khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội. (ii) Thất nghiệp gây nên tình trạng
stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ và là mầm mống của các tệ nạn xã hội.
(iii) Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân
sách và làm căng thẳng tình trạng Ngân sách.
Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng 0. Mỗi
quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên một cách chính xác để đạt
được mục tiêu này. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cấu thành từ tỷ lệ thất nghiệp
tạm thời và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Bên cạnh đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên cũng được coi là mục tiêu của CSTT.
- Mục tiêu trung gian
Khác với mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian là cái đích tương đối, bản thân
chúng không phải là cái đích cuối cùng của CSTT, nhưng để đạt được mục tiêu cuối
cùng thì thực thi CSTT trước hết phải đạt được mục tiêu trung gian. ảnh hưởng của
CSTT chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ 6 tháng đến 2 năm. Sẽ là
quá muộn và không hiệu quả nếu NHTW đợi các dấu hiệu về giá cả, tỷ giá, thất
nghiệp để điều chỉnh các công cụ. Để khắc ohucj hạn chế này, NHTW của tất cả
các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu
cuối cùng. Các chỉ tiêu này trở thành mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
77777
Vậy mục tiêu trung gian là gì? Đó là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường
được, NHTW có thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối
cùng. Điều đó có nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt
động và có thể tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Theo cách qui định như vậy, mục tiêu trung gian có ý nghĩa quan trọng trong

điều hành CSTT, NHTW sẽ đạt được mục tiêu cuối cùng của CSTT thông qua các
hành động, hay các quyết sách của mình tác động đến mục tiêu hoạt động từ đó làm
thay đổi mục tiêu trung gian theo định hướng gắn lion những dự báo của mục tiêu
trung gian đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Từ thực tế điều hành các nhà kinh tế học đã tổng quát hóa mục tiêu trung gian
thường được lựa chọn là các biến số về tổng tiền( M1, M2 hoặc tín dụng nền kinh
tế), lãi suất, tỷ giá ( những biến số này nằm giữa các công cụ CSTT với mục tiêu
hoạt động). Việc lựa chọn biến số nào làm mục tiêu trung gian gắn liền với những
diến biến kinh tế, tiền tệ và mức độ phát triển của thị trường tài chính, gắn liền với
mục tiêu, diễn biến kinh tế, tiền tệ và mức độ phát triển của thị trường tài chính,
gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô.
Như vậy để lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi phải có sự phân
tích kỹ lưỡng các diễn biến kinh tế hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ
định hướng phát triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn.học thuyết tiền tệ
Mục tiêu trung gian được chia thành 3 loại sau:
* Mục tiêu trung gian là tổng tiền: khuôn khổ ý thuyết cho việc đặt ra mục tiêu
trung gian là tổng tiền là phương trình học thuyết tiền tệ (
V
Y
P
M =
) với những bước
thực hiện sau: (i) đặt mục tiêu cuối cùng cho mức lạm phát trong thời kỳ nhất định;
(ii) ước tính mức tăng tiềm năng của sản lượng thực tế, (iii) dự báo xu hướng tăng
vòng quay tiền tệ trong tương lai. Như vậy sẽ giúp chúng ta đặt mục tiêu trung gian
cho mức tăng mức tăng tiền dưới mức mục tiêu.
Trong những thập kỷ 70, nhiều nước công nghiệp chủ yếu đã chấp nhận mục tiêu
tăng trưởng tiền làm mục tiêu trung gian, họ đặt ra mức tăng được phép của M1
hoặc M2, hoặc tăng trưởng D (tín dụng nền kinh tế). Thời gian các nước này chấp
88888

nhận mục tiêu tổng tiền là thời gian chiến tranh và sự sụp đổ của hệ thống Bretton
Wood. Sự chấp nhận mục tiêu tổng tiền tệ đã làm tổng tiền tệ đóng vai trò như một
cột chỉ đường đối với CSTT, giúp NHTW thực thi các công cụ chính sách phù hợp
với chính sách chống lạm phát, làm tín hiệu cho dân chúng về ý định của NHTW về
khía cạnh lạm phát và cung cấp cơ sở cho dân chúng hiểu về hành động chính sách
của NHTW, mục đích nữa là giúp kỷ luật tài khóa, mà đăc biệt liên quan đến thâm
hụt ngân sách đối với việc mở rộng tiền tệ.
Tuy nhiên, việc sử dụng mục tiêu trung gian là tổng tiền cũng có những khó khăn
nhất định khi mối quan hệ giữa tổng tiền và mục tiêu cuối cùng của CSTT có sự bất
ổn định, vòng quay tiền tệ biến động không theo một chiều hướng sẽ khó khăn cho
việc dự báo, đặc biệt đối với những nước đang trong quá trình tự do hóa tài chính và
ổn định hóa kinh tế vĩ mô (chuyển từ môi trường khinh tế lạm phát cao sang môi
trường lạm phát thấp) là rất khó khăn, vì tự do hóa tài chính thường dẫn đến một sự
tăng lên lâu dài về cầu tiền theo nghĩa rộng, bởi vậy vòng quay tiền tệ
M
nghiadanh GDP
=V
giảm xuống, và việc tăng tiền rộng có thể không phải là
nguyên nhân gây ra lạm phát trong tương lai. Nếu không dự báođược biến động của
vòng quay tiền tệ, việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng tiền sẽ có những bất lợi gây
ra sự biến động thường xuyên trong lãi suất và sản lượng thực tế trong ngắn hạn.
Thêm vào đó, sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào khối lượng và năng suất của các
nhân tố sản xuất, những nhân tố này cũng rất khó để tính toán và dự báo, đặc biệt
đối với những nước nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ
hay như nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoach hóa tập trung sang cơ chế thị trường.
Đối với những nước này, mức chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm
năng rất khó tính toán, bởi vì nền kinh tế ngầm giữa các nước này khá lớn.Đây là
vấn đề đặt ra cho các nhà lập chính sách, khi mà các nhân tố khó có thể dự báo, thì
cần có những linh hoạt trong việc đặt mục tiêu CSTT cho phù hợp, có thể sự phù
hợp đó ơhair chịu sự kém minh bạch trong chính sách. Ví dụ mục tiêu đặt ra là một

khoảng tăng trưởng tiền tệ hơn là đưa ra một mức cố định.
99999
* Mục tiêu trung gian là tỷ giá: được thực hiện trong điều kiện là nền kinh tế mở.
Với mục tiêu này, chính sách tiền tệ của nước chọn mục tiêu trung gian là tỷ giá phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của nước neo tỷ giá(như ở Việt nam, VND bị neo bởi
đồng Đô la mỹ). Khác với mục tiêu trung gian là tổng tiền, mục tiêu tỷ giá tránh
được những biến động khó lường về cầu tiền tệ. Với một cơ chế tỷ giá cố định,
những thay đổi về cầu tiền tệ ăn khớp với những thay đổi trong cung tiền tệ từ nước
ngoài (thông qua luồng vốn). Thực hiện mục tiêu trung gian là tỷ giá có thuân lợi là
rất minh bạch đối với dân chúng và nếu nước neo tỷ giá có mức lạm phát thấp, thì
về cơ bản mức lạm phát của nước bị neo tỷ giá cũng được duy trì ở mức thấp vì qua
một thời gian giá cả trong nước sát với giá cả của nước neo tỷ giá. Tuy nhiên, đặt
mục tiêu trung gian là tỷ giá cũng có những bất lợi so với việc đặt mục tiêu là tổng
tiền, trong trường hợp có những thay đổi ngược chiều của thị trường đới với nền
kinh tế, như điều kiện thương mại xấu đI, năng suất sản xuất thấp đI, hoặc mất thị
trường xuất khẩu, khi đó cố định tỷ giá, tức liên quan đến việc cố định một giá cả
tương đối, thì không thể ngăn chặn những cú sốc thực đối với nền kinh tế, do bị chi
phối sức ép phá giá, sản lượng thực tế sẽ giảm (ít nhất là trong ngắn hạn) nếu tiền
lương và giá cả trong nước hoàn toàn không linh hoạt. Mục tiêu tỷ giá được sử dụng
nổi lên nhất là để giảm lạm phát ở Châu Âu trong bối cảnh áp dụng cơ chế tỷ giá
của hệ thống tiền tệ châu âu. Những nước hoạt động thương mại chủ yếu cũng sử
dụng mục tiêu trung gian một cách thành công. Một số nước tuy lạm phát có chiều
hướng đi xuống, nhưng chiến lược chính sách đã không vững chắc, chẳng hạn như
những nước có thị trường tài chính chịu tác động nhiều bởi một số nước có lịch sử
lạm phát cao, hoặc mất cân đối ngân sách lớn, đã phải duy trì lãi suất cao để hỗ trợ
tỷ giá hối đoái của họ.
* Mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường: lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn
và chi phí cơ hội của nhu cầu tiêu dùng, sự thay đổi của lãi suất có ảnh hưởng quan
trọng đến nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Lựa chọn lãi suất là mục tiêu trung gian
đồng nghĩa với sự hạn chế tác đọng của sự biến động mức cầu tiền đến tổng cầu của

nền kinh tế. Khi NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường thì
không thể đồng thời chọn tổng tiền là mục tiêu trung gian. Do vậy, khi đó NHTW
1010101010
phải chấp thuận sự dao động tăng hoặc giảm tổng tiền để duy trì mức lãi suất theo
mục tiêu. Và điều đó có thể dẫn đến những tác động của CSTT đến lạm phát.
Tóm lại mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị trường
đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục tiêu được
lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và thị trường tài chính trong từng giai
đoạn phát triển, gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như
vậy, để lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng
về các diễn biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ
định hướng phát triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động có vai trò quan trọng đối với việc điều hành CSTT. Đây là điểm
khởi đầu trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ, là biến số chủ yếu để NHTW thực thi
CSTT. Ngoài ra mục tiêu hoạt động còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng công
cụ CSTT và đến những thay đổi trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW.
Mục tiêu hoạt động là những mục đích sách lược mà NHTW nhằm đạt tới trong
ngắn han, đó là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm soát một
cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua đó
tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Theo Miskin, tiêu chuẩn để lựa chọn
mục tiêu hoạt động, đó là những chỉ tiêu tiền tệ có thể dự báo dược mục tiêu trung
gian và chịu tác động trực tiếp của công cụ CSTT.
Với cách hiểu mục tiêu hoạt động như vậy và trên cơ sở tổng kết thực tiễn, mục tiêu
hoạt động được chia thành 2 loại là mục tiêu hoạt động giá cả hay lãI suất ngắn han
và mục tiêu hoạt động là khối lượng, cụ thể như sau:
(i) Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ: nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất ngắn hạn
trên thị trường liên ngân hàng. NHTW thông qua các công cụ CSTT có thể kiểm
soát trực tiếp lãi suất này. Việc quy định lãi suất trần và lãi suất sàn của NHTW trên
thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang dao động cho lãi suất ngắn hạn trên

thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác động của công cụ
CSTT như nghiệp vụ thị trường mở…Trong trường hợp việc chỉ đạo CSTT hầu hết
1111111111
thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là việc điều chỉnh
lãi suất thì tỷ giá được xem như làm mục tiêu hoạt động.
(i) Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ: tức là kiểm soát tiền cơ bản(MB), hoặc
các thàno phần cấu thành nên nó, ví dụ như dự trữ quốc tế ròng, dự trữ của các nhtm
hoặc tài sản có ròng trong nước trên bảng cân đối của NHTW. Thông qua các công
cụ CSTT NHTW có thể kiểm soát trực tiếp tiền cơ bản, một hành động bơm tiền
hoặc rút tiền của NHTW sẽ làm cho MB tăng hoặc giảm. Để kiểm soát khối lượng
tiền tệ NHTW phảI đặt mức tăng cụ thể của MB trong một thời gian nhất định.
Sự khác nhau giữa mục tiêu giá cả và mục tiêu khối lượng: Kiểm soát giá cả hoặc
kiểm soát khối lượng đều được coi là mục tiêu hoạt động của NHTW, nhưng giữa
chúng có sự khác nhau cơ bản, và điều kiện áp dụng chúng cũng khác nhau. Điểm
khác nhau cơ bản đó là: Trong trường hợp NHTW chọn mục tiêu giá cả, thì những
thay đổi trong bảng cân đối của NHTW là những biến nội sinh(biến được giải
thích), Trong trường hợp này những thay đổi tạm thời của cung và cầu tiền cơ bản
cũng chỉ nhằm cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường không xa rời lãi suất mục tiêu.
Ngược lại trong trường hợp NHTW chọn mục tiêu khối lượng, thì những thay đổi
trên bảng cân đối của NHTW là những biến ngoại sinh(biến giảI thích). NHTW
không điều tiết thay đổi của cầu tiền cơ bản và bỏ qua những tác động của lãI suất
mà chỉ quan tâm đến tiền cơ bản có phù hợp với mục tiêu hay không.
Từ những điểm khác nhau cơ bản đó dẫn đến điều kiện áp dụng chúng cũng
khác nhau. Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm soát lãi suất sẽ có hiệu quả
trong điều kiện thị trường tiền tệ phát triển- thị trường liên ngân hàng thanh khoản
cao và hiệu quả, hệ thống nhtm tồn tại sự cạnh tranh, NHTW phải có sự tín nhiệm
với thành viên thị trường. Sở dĩ phải có điều kiện như vậy là do lãi suất chỉ có tính
nhạy cảm cao trong môi trường như vậy, khi đó bất cứ sự thay đổi nhỏ trong cung
tiền của NHTW sẽ tác động đến sự biến động của lãi suất. Đối với mục tiêu là khối
lượng điều kiện áp dụng các phần ngược lại, tức có thể áp dụng trong điều kiện thị

trường tiền tệ chưa phát triển, kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh giữa các NH là
thấp, nhất là trong điều kiện tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có
sự liên hệ chặt chẽ với nhau, và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng
phương tiện thanh toán hoặc tổng tín dụng nền kinh tế). Sở dĩ mục tiêu khối lượng
1212121212
có hiệu quả trong điều kiện như vậy là do, khi đó chỉ có sự thay đổi khối lượng tiền
mới tạo ra sức đẩy tiền tệ trong cơ chế chuyển dẫn tiền tệ trong môI trường thị
trường tiền tệ kém phát triển.
Sự khác nhau cơ bản giữa mục tiêu giá cả tiền tệ và mục tiêu khối lượng như
thế sẽ dẫn đến sự khó khăn trong lựa chọn mục tiêu khi mối quan hệ giữa hệ số tạo
tiền và cầu tiền tệ bất ổn định và mối quan hệ giữa lãI suất ngắn hạn với lạm phát là
chưa rõ ràng.
Mặc dù đã có những điều kiện tương đối rõ cho việc áp dụng các mục tiêu hoạt
động nêu trên, việc lựa chọn mục tiêu nào còn phụ thuộc vào mục tiêu trung gian
được lựa chọn, nghĩa là phụ thuộc vào cơ chế truyền dẫn tiền tệ hiện hành.
1.1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành
CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các công cụ
CSTT thành 2 loại chủ yều: Là công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián
tiếp.
- Các công cụ tiền tệ trực tiếp: các công cụ tiền tệ được gọi là công cụ
tiiền tệ trực tiếp là cách thức mà NHTW trực tiếp sử dụng để giới hạn mục tiêu
giá cả ( hoặc mục tiêu khối lượng) thông qua các qui định, và thường nhằm
vào các chỉ tiêu trên bảng cân đối của ngân hàng thương mại, được gọi là công
cụ tiền tệ trực tiếp. Các công cụ này, thường được áp dụng trong điều kiện thị
trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để
điều tiết tiền tệ của NHTW còn hạn chế, như kiểm soát trực tiếp lãi suất của
nền kinh tế thông qua việc qui định tỷ lãi suất ( cho vay hoặc tiền gửi) cụ thể ,
hoặc biên độ dao động, hoặc qui định trần trên, sàn dưới cho các NHTM cho
vay, hoặc huy động vốn đối với nền kinh tế; Công cụ hạn mức tín dụng; qui

định mức tăng trưởng tín dụng cho từng NHTM, căn cứ vào qui mô hoạt động
của từng ngân hàng. Công cụ này thường được áp dụng khi cơ chế truyền dẫn
tiền tệ là không chắc chắn, hạn chế tiền dự trữ ( MB) không dẫn đến việc hạn
chế tăng trưởng tín dụng và trong tình hình lạm phát tăng nhanh ; tín dụng chỉ
định: Là việc chỉ định nguồn vốn tín dụng của NHTW cho khu vực cụ thể của
1313131313
nền kinh tế thông qua các NHTM, khoản tín dụng này không cần thế chấp tại
NHTW.
- Công cụ tiền tệ gián tiếp: Công cụ tiền tệ gián tiếp là cách tác động
thông qua thị trường dưới những điều kiện về cung cầu vốn, và hầu hết các
công cụ này nhằm vào bảng cân đối tiền tệ của NHTW.Các công cụ tiền tệ gián
tiếp không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, hệ
thống thanh toán. Nếu như trước đây các công cụ tiền tệ gián tiếp chủ yếu được
sử dụng là dự trữ bắt buộc ( qui định một tỷ lệ nhất định so với tiền huy động
của các NHTM phải gửi tại NHTW), công cụ tái cấp vốn (Lombar và
rediscount window), và nghiệp vụ thị trường mở với hoạt động đơn giản là
mua-bán chứng khoán giữa NHTW với các NHTM hoặc các nhà môi giới
khác, dưới hình thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn (repo). Đến nay,
công cụ dự dữ bắt buộc ít được sử dụng hơn ở những nước phát triển,mà nó
chủ yếu được sử dụng ở những nước đang phát triển và những nước chuyển
đổi. Còn công cụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở đã được phát triển với
nội dung rất da dạng, chẳng hạn như công cụ tái cấp vốn được mở rộng thêm
nghiệp vụ thấu chi cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các NHTM do thiếu hụt
khả năng thanh toán khi tham gia hệ thống thanh toán của NHTW và nghiệp vụ
gửi tiền, NHTW thực hiện nghiệp vụ này để thu hút vốn khả dụng thừa của các
NHTM nhằm ngăn chặn lãi suất thị trường hạ xuống mức quá thấp. Tỷ lệ lãi
suất cho loại tiền gửi này là tỷ lệ thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Nghiệp vụ tiền gửi thường được kết hợp với nghiệp vụ lombar hoặc cho vay
qua đêm tạo ra một hành lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Đối với nghiệp vụ thị trường mở (OMO, ngày nay đã trở thành công cụ

CSTT chủ yếu ở những nước phát triển. Từ nghiệp vụ thị trường mở truyền
thống ( mua bán hẳn chứng khoán chính phủ) cho đến nay nghiệp vụ này
nghiệp vụ này đã phát triển dưới nhiều hình thức, như nghiệp vụ mua – bán có
kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn ngoại tệ (gọi là
nghiệp vụ Swap); bán tín phiếu của NHTW trên thị trường sơ cấp.
Nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở nêu trên, có thể nói
là những công cụ tiền tệ gián tiếp chủ yếu được áp dụng trong điều hành CSTT
1414141414
của NHTW các nước. Bên cạnh đó còn một số công cụ khác được áp dụng
trong những điều kiện nhất định và chỉ có một vài nước áp dụng, như nghiệp vụ
tiền gửi của khu vực công – là sự phân bổ lại tiền gửi chính phủ giữa NHTW
với các NHTM để bù đắp sự thiếu hụt ngắn hạn vốn khả dụng của các NHTM.
Sử dụng công cụ này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa NHTW và kho bạc
( Canada, malaysia, Germany áp dụng đến cuối năm 1993)v.v.
Như vậy có thể nói, để điều hành CSTT NHTW đã sử dụng rất nhiều các
công cụ tiền tệ, mỗi công cụ đều có những vai trò nhất định trong việc tác động
đến cung, cầu vốn trên thị trường. Tùy theo các điều kiện của thị trường tiền tệ,
mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, mục tiêu và khuôn khổ CSTT của
NHTW mà mỗi công cụ khi áp dụng có thể mang lại những hiệu quả tối đa.
1.1.2- Cơ sở lý luận về lạm phát
1.1.2.1. Lạm phát là gì
 Trong giới kinh tế học về tiền tệ, quá trình phát triển của các khái niệm về
lạm phát đã được thể hiện qua dòng lịch sử phát triển của các trường phái
tiền tệ học.
Theo Paul Samuelson, lạm phát là biểu thị của một sự tăng lên trong mức giá chung.
Điều này có nghĩa là cứ khi mức giá chung tăng lên là có lạm phát. Chẳng hạn như
hàng tháng, khi cơ quan thống kê công bố mức giá cả tháng này tăng bao nhiêu %
so với tháng trước thì theo Paul Samuelson tháng đó có lạm phát.
Tuy nhiên, đa số các nhà kinh tế, đi đầu là Milton Friedman. đều cho rằng lạm phát
không chỉ đơn thuần là sự tăng lên của mức giá chung như Samuelson khẳng định

mà nó phải là sự gia tăng liên tục kéo dài của mức giá chung. Có nghĩa là nếu mức
giá chung chỉ tăng trong tháng này và ngay lập tức giảm trong những tháng kế tiếp
thì đó không phải là lạm phát, chỉ khi mức giá chung gia tăng liên tục trong nhiều
tháng, nhiều năm thì mới gọi là lạm phát.
Trong vài năm gần đây, một khái niệm mới được nhiều người nhắc đến là “lạm lạm
phát cơ bản”. Khái niệm này xuất phát từ thực tiễn rằng lạm phát CPI đôi khi biến
động rất thất thường nên nếu CSTT phản ứng với những biến động này có thể đem
lại những hậu quả không tốt cho nền kinh tế. Lạm phát cơ bản là lạm phát thể hiện
1515151515
sự thay đổi giá cả mang tính dài hạn, loại bỏ những biến động tạm thời , điều đó sẽ
giúp cho CSTT phản ứng chính xác hơn với các biến động giá cả. Do đó, thước đo
lạm phát cơ bản được tính bằng lạm phát CPI loại trừ các yếu tố biến động tạm thời
mà thông thường là năng lượng, lương thực. Lạm phát cơ bản tăng chính là chỉ báo
lạm phát dự kiến sẽ còn tăng trong dài hạn và khi đó CSTT cần phải hành động để
kiềm chế lạm phát.
 Đo lường lạm phát
1.1.2.2. Nguyên nhân của lạm phát
1.1.2.2.1. Lạm phát cầu kéo( có hình minh họa)

Đây là nguyên nhân do tổng cầu (AD) - tổng chi tiêu của xã hội tăng lên- vượt quá
mức cung ứng hàng hóa của xã hội dẫ đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất
kỳ lý do nào làm tổng cầu tăng lên đều dẫn đến lạm phát về mặt ngắn hạn. Có thể
giải thích điều này thông qua mô hình đơn giản AS - AD. Khi tổng cầu AD
0
tăng lên
đến AD
1
, mức giá cả chung tăng từ P
0
đến P

1
, nền kinh tế có lạm phát.
1616161616
Tổng cầu phản ánh nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa dịch vụ của xã hội.
Nó bao gồm nhu cầu hàng hóa, dịch vụ của các hộ gia đình, nhu cầu hàng hóa đầu tư
của các doanh nghiệp, nhu cầu hàng hóa dịch vụ của Chính phủ và nhu cầu hàng hóa
xuất khẩu ròng của thị trường nước ngoài. Khi nhu cầu có khả năng thanh toán của
các chủ thể này tăng lên, tiền chi tiêu nhiều hơn, giá cả tăng lên. Các lý do cụ thể là:
• Chi tiêu chính phủ tăng lên: Khi chi tiêu chính phủ tăng lên, tổng cầu có thể
tăng lên trực tiếp thông qua các khoản đầu tư vào các lĩnh vực thuộc phạm vi
Chính phủ quản lý hoặc có thể gián tiếp thông qua các khoản chi phúc lợi xã
hội, trợ cấp thất nghiệp tăng lên và kết quả là giá cả hàng hóa tăng lên. Trong
trường hợp nhu cầu chi tiêu vượt quá khả năng thu ngân sách và được bù đắp
bằng vốn phát hành hoặc vay ngân hàng thương mại rất dễ dẫn đến trường
hợp lạm phát cao và kéo dài.
• Chi tiêu dùng của các hộ gia đình tăng lên có thể do mức thu nhập thực tế
tăng lên, do lãi suất giảm xuống, do điều kiện vay tiêu ding thuận lợi…đều có
tác dụng đẩy tổng cầu lên và gây áp lực đối với lạm phát.
• Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên xuất phát từ dự đoán về triển
vọng phát triển kinh tế, về khả năng mở rộng thị trường, do lãi suất đầu tư
giảm, do điều kiện vay vốn đầu tư dễ dàng hơn…về mặt ngắn hạn nó làm cho
mức giá cả tăng lên.
• Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nước ngoài như tỷ giá, giá cả hàng hóa
nước ngoài so với hàng hóa cùng loại được sản xuất trong nước và thu nhập
bình quân của thị trường nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu
cầu hàng hóa xuất khẩu và do đó ảnh hưởng đến tổng cầu cũng như mức giá
cả nội địa.
Như vậy, sự tăng lên của nhu cầu trong nước và nước ngoài sẽ làm tăng nhu cầu
có khả năng thanh toán của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả.
Việc thực hiện CSTT mở rộng quá mức bằng việc tăng mạnh MS, giảm lãi suất

có tác dụng tăng các thành phần của tổng cầu cũng sẽ dẫn đến lạm phát.
CSTK nới lỏng để tăng tổng cầu song việc sử dụng vốn kém hiệu quả, lãng phí
cũng làm cho tổng cầu vượt quá tổng cung và dẫn đến lạm phát.
1717171717
1.1.2.2.1. Lạm phát chi phí đẩy.
Đặc điểm quan trọng của loại lạm phát chi phí đẩy là áp lực làm tăng giá cả xuất
phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao
động và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội. Chi phí sản xuất có thể
tăng lên do:
- Mức tiền lương vượt quá mức gia tăng của năng suất lao động. Tiền lương
tăng lên có thể do thị trường lao động trở nên khan hiếm, do yêu cầu đòi tăng
lương của công đoàn hoặc do mức lạm phát dự tính tăng lên.
- Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hóa
lên.
- Do giá nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên, có thể do áp lực lạm phát của
nươc xuất khẩu, hoặc do giá trị nội tệ giảm so với ngoại tệ hoặc do ảnh hưởng
của khủng hoảng…Nếu các loại hàng hóa dịch vụ nhập khẩu này được sử dụng
cho nhu cầu tiêu dùng thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả nội địa, nếu nó
được sử dụng như đầu vào của quá trình sản xuất thì sẽ làm tăng giá thành sản
xuất và do đó tăng giá.
- Do sự tăng lên của thuế và các khoản nghĩa vụ với NSNN ảnh hưởng đến
mức sinh lời của hoạt động đầu tư, giá cả tăng lên là tất yếu nhằm duy trì mức
sinh lời thực tế.
Các yếu tố trên hoặc là tác động trực tiếp vào mức lương thực tế của người
làm công hoặc tác động vào các chi phí ngoài lương và làm tăng chi phí sản xuất,
đẩy mức giá bình quân lên P
2
trong khi giảm mức sản xuất của xã hội xuống Y
1
(hình

a). Tuy nhiên các lý do này chỉ dẫn đến lạm phát về mặt ngắn hạn do cơ chế tự điều
chỉnh của thị trường. Nếu tổng cầu không thay đổi, mức sản xuất sẽ quay về mức sản
lượng tiềm năng và giá cả quay về vị trí ban đầu của nó (hình b).
1818181818

1.1.2.2.3. Lạm phát tiền tệ
Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ
tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh
hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Loại lạm phát
này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp
chế tài chính hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi CSTT mở rộng. Trong
đó áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt NSCP
bằng cách in tiền, quá nhiều tiền trong lưu thông vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sẽ
dẫn đến lạm phát. CSTT mở rộng sẽ kích thích tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền
kinh tế, khi tốc độ tăng trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung thì
cũng dẫn đến lạm phát.
1.1.3. Các giải pháp để kiểm soát lạm phát
1.1.3.1. Giá của chính sách chống lạm phát
Những tác động của lạm phát đối với việc phân phối lại thu nhập, sản lượng, sự phân
bổ nguồn lực và hiệu quả kinh tế thường xảy ra đối với loại lạm phát cao và không
dự đoán trước được. Mặc dù những ảnh hưởng của loại lạm phát này là hiển nhiên,
các nhà làm chính sách vẫn phải đặt câu hỏi: nên làm cho nên fkinh tế thích ứng với
lạm phát hay cố gắng thủ tiêu lạm phát bằng các biện pháp cứng rắn. Câu trả lời thực
Sản lượng
Mức
giá
P
2
+2
P

1
SAS
1
SAS
1
1919191919
sự không dễ dàng, nó tùy thuộc vào thực trạng của nền kinh tế, mức độ lạm phát và
sự nhạy cảm của các biến số kinh tế vĩ mô đối với sự thay đổi của 1% lạm phát.
 Đường cong Philips ngắn hạn:
Đường cong Philips mang tên nhà kinh tế học người New Zealand, A.W.Philips,
phản ánh mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và thất nghiệp với một mức lạm
phát dự tính và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho trước. Với mức lạm phát dự tính là
10% và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 6%, đường cong Philips ngắn hạn đi qua điểm
(a). Sự tăng lên của tổng cầu về mặt ngắn hạn làm giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời
tăng tỷ lệ lạm phát, điểm cân bằng mới của nền kinh tế được thể hiện tại điểm (b)
trên đường cong Philips. Sự cắt giảm tổng chi tiêu sẽ đưa đến những chuyển động
ngược lại của lạm phát và thất nghiệ, điểm cân bằng dịch chuyển xuống điểm (c).
Đường cong Philips ngắn hạn chỉ ra giá phải trả cho 1% giảm tỷ lệ lạm phát: sự giảm
sút công ăn việc làm.

 Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát
2020202020
Về mặt dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ cho tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng
sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thế, duy trì sự ổn định tiền tệ là mục tiêu
dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào, nhưng trong tong thời kỳ việc lựa chọn các giải
pháp kiềm chế lạm phát cũng như liều lượng tác động của nó phải phù hợp với yêu
cầu tăng trưởng và các áp lực xã hội và nền kinh tế mà nó phải gánh chịu. Chính phủ
các nước có thể chọn chiến lược giảm lạm phát từ từ ít gây biến động cho nền kinh tế
(Hình a) hoặc chiến lược giảm tỷ lệ lạm phát nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về
sản lượng trong quá trình điều chỉnh (Hình b)


Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích
đúng nguyên nhân gây ra lạm phát, bao gồm nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân
trực tiếp. Nguyên nhân trực tiếp của bất kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ các
lý do đẩy tổng cầu tăng quá mức hoặc tổng cung giảm do chi phí tăng lên. Tuy nhiên
nguồn gốc tạo ra các lý do làm dịch chuyển đường tổng cầu và đường tổng cung lại
rất khác nhau ở các cuộc lạm phát khác nhau. Để giải quyết nguyên nhân sâu xa này
cần phải có thời gian và đi kèm với các cuộc cải cách lớn. Thông thường để tác động
vào các nguyên nhân trực tiếp của lạm phát và kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong
muốn, Chính phủ các nước sử dụng một hệ thống các giải pháp nhằm làm giảm sự
gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân làm gia tăng chi phí.
Lạm phát
Thất nghiệp
SPC
1
SPC
0
2121212121
- Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia tăng qua mức của tổng cầu. Trước hết
là thực hiện một chính sách tiền tệ khan hiếm. Nguyên nhân cơ bản của lạm phát cầu
kéo là sự gia tăng của tiền cung ứng, sự hạn chế cung ứng tiền sẽ có hiệu quả ngay
đến sự giảm sút của nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Một chính sách tiền
tệ khan hiếm được bắt đầu bằng việc kiểm soát và hạn chế cung ứng tiền trung ương,
từ đó mà hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Lãi suất ngân hàng và lãi suất thị trường tăng lên sau đó sẽ làm hạn chế nhu cầu tiêu
dùng và đầu tư, giảm áp lực đối với hàng hóa và dịch vụ cung ứng. Cùng với việc
kiểm soát gắt gao chất lượng tín dụng cung ứng nhằm hạn chế khối lượng tín dụng,
đồng thời đảm bảo hiệu quả của kênh cung ứng tiền cũng như chất lượng tiền tệ.
Kiểm soát chi tiêu NSNN từ trung ương tới địa phương nhằm đảm bảo tiết

kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách, cắt giảm các khoản đầu tư không có tính
khả thi và các khoản chi phúc lợi vượt qua khả năng của NKT, cải tiến bộ máy quản
lý Nhà nước vốn cồng kềnh, không hiệu quả gây lãng phí NSNN. Khai thác các
nguồn thu, đặc biệt là thu thuế nhằm giảm mức bội chi, cổ phần hóa các DNNN…Và
cuối cùng là hạn chế phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NS.
Thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm giảm tiêu dùng Lái suất danh
nghĩa được đưa lên cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn người gửi tiền. Biện pháp này
thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao và có tác động tức thời. Tuy
nhiên trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, cần có sự điều chỉnh linh hoạt
cho phù hợp với mức độ biến động của lạm phát và hạn chế hậu quả tiềm năng cho
các tổ chức nhận tiền gửi.
Trong điều kiện NKT mở, sự can thiệp vào tỷ gia nhằm điều chỉnh tỷ giá dần
dần theo mức độ lạm phát cũng được sử dụng như một giải pháp nhằm giảm cầu do
tác động vào nhu cầu xuất khẩu. Mặt khác, sự điều chỉnh tỷ giá từ từ sẽ làm cho giá
nội địa của hàng nhập trở nên rẻ hơn. giảm bớt áp lực tăng mặt bằng giá trong nước.
Đối với những nước phụ thuộc vào hàng nhập khẩu điều này đặc biệt có ý nghĩa.
Tuy nhiên hành động can thiệp này có thể làm cạn kiệt nguồn dự trữ quốc tế. Chính
2222222222
vì thế việc sử dụng giải pháp này cũng cần cân nhắc đến khả năng dự trữ ngoại hối
cũng như khả năng phục hồi nguồn dự trữ của quốc gia.
- Nhóm giải pháp tác động vào cung
Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức
tăng tiền lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập
một cơ chế để đảm bảo mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của
từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ NKT. Sự thành công của cơ chế này sẽ hạn chế
những đòi hỏi tăng tiền lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất hợp lý
dẫn đến vòng luẩn quẩn tăng lương- tiền- giá- tăng lương…Việc thiết lập cơ chế tiền
lương trong khuôn khổ hiệu quả kinh doanh được thực hiện bằng các phương pháp
khác nhau, có thể nhà nước tham gia ấn định các mức thu nhập một cách đơn
phương, có thể trên cơ sở thỏa thuận giữa Nhà nước, giới chủ và tổ chức công đoàn

để xây dựng một hệ thống các mức thu nhập, hoặc thỏa thuận tiền lương được thực
hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới chủ và đại diện công đoàn. Chính sách kiểm
soát giá cả phải được tiến hành đồng thời với cơ chế tiền lương thực tế, tránh rơi vào
vòng xoáy lạm phát lương-giá-tiền…
- Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa
Giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền hàng là nhập khẩu
hàng hóa, nhất là các hàng hóa đang khan hiếm góp phần làm giảm áp lực đối với
giá cả. Tuy nhiên giải pháp này chứa đựng những nguy cơ tiềm năng,: làm cạn kiệt
nguồn dự trữ quốc tế, tạo thói quen dùng hàng ngoại và dặc biệt làm suy giảm sức
sản xuất trong nước.
Tăng khả năng sản xuất hàng hóa trong nước được coi là giải pháp chiến lược
cơ bản nhất tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải pháp
nhằm tăng mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn, tập trung
vào việc khai thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình độ của lực
lượng lao động, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây truyền sản xuất và quan trọng nhất
là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả.
1.2. Kinh nghiệm sử dụng CSTT nhằm kiểm soát lạm phát của một số nước
trên thế giới.
2323232323
1.2.1. Trung Quốc
Tại Trung Quốc đến tháng 2/2008 đã lên tới 8,3%, tăng so với mức 7,1%
trong tháng 1/2008., cao nhất trong 11 năm qua, trong khi mục tiêu được đề re trong
năm 2008 là kiềm chế giá tiêu ding dưới 4,8%. NguyÊn nhân chính là giá lương
thực, thực phẩm tăng tới 23,3% so với mức 18,2% đến hết tháng 1/2008.
Để chống lạm phát, chính phủ chủ trương ưu tiên thực hiện chính sách tài
chính ổn định, minh bạch và siết chặt chính sách tiền tệ trong năm 2008, hạn chế
cung ứng tiền. Chính phủ cũng ưu tiên các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống
nhân dân, cho phép đồng nhân dân tệ biến động linh hoạt hơn. Thực ra Ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc(Trung Ương) đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt ngay từ
năm 2007 với các biện pháp nới lỏng quy định giao dịch ngoại tệ, tăng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc tới 10 lần và thực hiện 6 lần tăng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại, với mức tăng không lớn, để thị trường tiền tệ không bị
sốc cũng như không gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Tháng 5/2007 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc nới rộng biên độ giao dịch
của đồng nhân dân tệ so với Đôla Mỹ. Theo đó, biên độ giao dịch mua bán USD
được phép dao động trong khoảng 0,5% so với tỷ giá chính thức công bố hàng ngày.
Từ ngày 15/8/2007 Chính phủ Trung Quốc cũng quyết định giảm mạnh thuế
thu nhập đối với lãi tiết kiệm từ 20% xuống còn 5%. Tháng 9/2007, Ngân hàng Nhân
dân Trung Quốc quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 12% lên 12,5%, từ tháng
10/2007 tiếp tục tăng lên 13%.
Quyết định này nhằm kiểm soát lưu thông tiền tệ và kiềm chế tốc độ cho vay
quá mạnh của các ngân hàng thương mại vào bất động sản. Tháng 11/2007
NHNDTQ tiếp tục quyết định tăng thêm 0,5% tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, lên 13,5%, từ
tháng 12/2007 lần thứ 10 kể từ đầu năm 2007, tăng lên 14%.
Kèm theo các biện pháp nói trên, chính phủ Trung Quốc cũng phát hành tín phiếu
đối với các ngân hàng thương mại nhằm thu hút tiền từ lưu thông về.
1.2.2. Hàn Quốc
Mức độ lạm phát hàng hóa của Hàn Quốc năm 2007 là 2,5%, phá kỷ lục kể từ
5 năm trở lại đây. Vào đầu năm 2008, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách
ổn định giá cả hàng hóa thời gian ngắn, trong đó có các biện pháp sau:
2424242424
Thành lập tổ công tác về chính sách liên ngành đối với sự ổn định giá
cả với sự tham gia của 14 cơ quant rung ương như Bộ Tài chính kinh tế, Bộ tài
nguyên, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm, Cơ quan y tế thực phẩm… ủy ban trao đổi
thương mại bình đẳng. Nhiệm vụ là theo dõi, kiểm soát những sản phẩm tăng giá quá
nhanh, thành lập nhóm điều tra hiện trường để điều tra, theo dõi về việc sản xuất, lưu
thông hàng hóa liên quan đến dân sinh. Chính quyền địa phương cũng thành lập cơ
quan chỉ đạo và ủy ban đối sách về giá cả để theo dõi xu hướng lên xuống của giá cả
và đề ra chính sách tương ứng.
Tăng cường điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính phủ và cơ

quan tài chính sẽ điều chỉnh phù hợp chính sách tiền tệ: tăng lãi suất 2 lần
Chính sách tài khóa: miễn giảm một số dòng thuế tiêu thụ và nhập
khẩu, tiến hành hỗ trợ trên 1 tỷ USD cho nông dân vay vốn ưu đãi nhằm tăng mức
cung lương thực thực phẩm, giảm 50% mức phí giao thông vận tải trên các tuyến
đường cao tốc trong một số giờ. Miễn giảm thuế, tăng cường trợ cấp cho những gia
đình có thu nhập thấp, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp
thông qua các quỹ hỗ trợ tài chính cho giáo dục, hỗ trợ phúc lợi, miễn giảm thuế.
Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tạo thêm cơ hội việc làm cho những
người nghèo trong xã hội, sử dụng ngân sách chính phủ giúp giảm bớt áp lực của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Biện pháp khác: Ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi bán phá
giá không chính đáng, trọng điểm là những hành động lũng đoạn giá cả, tăng cường
giám sát các hành vi tăng giá cao các sản phẩm hàng hóa như dầu mỏ, lương thực,
phòng ngừa những giao dịch không minh bạch thông qua lợi dụng thị trường và địa
vị chính trị.
1.2.3. Ân Độ
Trong báo cáo đánh giá kinh tế của chính phủ ấn độ vừa qua, Bộ tài chính cho
rằng:” Lạm phát vẫn còn cao trong năm tài chính nhưng đang giảm dần. Chỉ số lạm
phát bán buôn(WPI- gồm 435 mặt hàng) đã tăng từ tháng 9/2009 và vẫn tiếp tục ở
mức cao, sau khi lên đỉnh điểm là 11% trong tháng 4/2010. Tính theo chỉ số tích tụ
trong năm tài chín hiện hành thì lạm phát tăng 4,3% trong tháng 10/2010 so với
5.9% cùng kỳ năm 2009, chứng tỏ sức ép lạm phát trong nửa năm tài chính hiện
2525252525

×