Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nghiên cứu sự sinh trưởng và phát triển của nấm rơm (Volvariella Volvava) và hiệu quả kinh tế của việc trồng nấm rơm trên một số giá thể khác nhau tại trung tâm nấm Bắc Giang vụ hè năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.51 KB, 64 trang )

Lời cảm ơn!
Trong quá trình học tập, rèn luyện tại Trường Cao Đẳng Nông
Lâm huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Được sự chỉ đạo của Ban Giám
Hiệu nhà trường, sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô giáo trong
trường.
Đặc biệt em đã nhận được sự hướng dẫn giúp đỡ trực tiếp của Gv.
Trần Thị Hiền đã giúp em hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này, em xin
chân thành cảm ơn.
Thời gian học tập rèn luyện tại trường đó là một thời gian vô
cùng quý giá đối với em để em tiếp thu những kiến thức chuyên môn,
tích luỹ những kinh nghiệm đó làm hành trang giúp em tiến bước
trong cuộc sống.
Trong thời gian thực tập tại trung tâm giống nấm Bắc Giang em
nhận được sự giúp đỡ tận tình của giám đốc trung tâm Nguyễn Danh
Thắng và Th.s: Nguyễn Hữu Hiệp và tất cả cán bộ nhân viên của trung
tâm đã giúp em có thêm kiến thức và hoàn thiện báo cáo này
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn chân thành nhất đến tất cả
mọi người.
Bắc Giang, ngày 04 tháng 06 năm 2010
Sinh viên
Nguyễn Văn Đạt
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Thì
việc chú trọng và phát triển nông nghiệp đang là một vấn đề quan trọng nó
không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người - xã hội mà
nó còn kéo theo các nghành nghề khác phát triển: như công nghiệp, chế
biến, lâm-ngư nghiệp, chăn nuôi…và giải quết vấn đề việc làm cho con
người, làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho con người. Trong đó
nghành trồng nấm đang dần chiếm một vai trò quan trọng trong ngành sản


xuất nông nghiệp.Nghành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên
thế giới hàng trăm năm nay.Do đặc tính khác biệt với động vật và thực vật
vì dinh dưỡng và quang hợp nên nấm được xếp thành giới riêng.
Cây nấm có giá trị dinh dưỡng rất cao như: rất giàu protêin, gluxit, các
axit amin, vitamin, chất khoáng…,nấm còn có các hoạt chất sinh học như:
các chất đa lượng, các axit nuclêic, xenlulô,vitamin… vì thế mà nấm được
xem như là một loại “rau sạch”, “thịt sạch”. Ngoài ra nấm còn có tác dụng
làm thuốc như: làm thuốc phòng chống khối u, tăng cường khẳ năng miễn
dịch của cơ thể, thuốc trợ tim, làm giảm lượng mỡ trong máu, giải độc bổ
gan, bổ dạ dày, hạ đường huyết, chống phóng xạ…(như nấm linh chi, mộc
nhĩ trắng, nấm hương…).
Ngoài ra việc sản xuất nấm còn mang lại hiệu quả kinh tế cao giúp nông
dân xoá đói giảm nghèo làm giàu cho bà con nông dân, góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động, các sản phẩm phụ của ngành sản xuất nấm
còn làm phân vi sinh bón cho cây trồng rất hiệu quả,(nguyên liệu làm nấm
linh chi, nấm sò…) và còn tận dụng được các sản phẩm phụ như bông phế
liệu, rơm rạ, mùn cưa, cỏ, bạ mía…làm nguyên liệu cho sản xuất nấm, góp
phần bảo vệ môi trường - hạn chế ô nhiệm môi trường. Không những thế
ngành sản xuất nấm còn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng nấm
làm, tăng thu nhập quốc dân (GDP) cho quốc gia, và còn kéo theo các
ngành khác phát triển mạnh như chế biến tái sản xuất, công nghiệp, chính
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
2
vì thế mà việc trồng và phát triển nấm đang được Đảng và Nhà nước quan
tâm chú trọng.
Ngày nay có rất nhiều các loại nấm có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh
tế cao như linh chi, đùi gà, mộc nhĩ, trân châu,…trong đó nấm rơm có giá
trị dinh dưỡng cao.
Nấm rơm(Volvariella Volvacea), đang dược trồng rộng rãi ở hầu hết các
vùng trồng nấm vì sản xuất nấm rơm không đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật như

các nấm khác mà nó lại mang lại giá trị dinh dưỡng rất cao.Việc sản xuất
nấm rơm nhằm đạt năng suất cao và giá trị dinh dưỡng cao đang là vấn đề
quan tâm của các nhà trồng nấm. Do đó tìm ra các chủng loại mấm rơm có
năng suất cao trên nguyên liệu thích hợp để đưa vào sản xuất đại trà đang là
một vấn đề then chốt có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình trồng nấm nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế, năng suất cao và có giá trị dinh dưỡng cao cho
người sản xuất nấm.Do đó để góp phần phát triển ngành sản xuất nấm rơm
trong khuân khổ cho phép nên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu sự sinh trưởng và phát triển của nấm rơm (Volvariella Volvava) và
hiệu quả kinh tế của việc trồng nấm rơm trên một số giá thể khác nhau
tại trung tâm nấm Bắc Giang vụ hè năm 2010”
1.2 Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu, tìm ra nguyên liệu trồng nấm rơm có năng suất cao để đưa
vào sản xuất thực tiễn.
- Phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến quá trình trồng
các nấm rơm.
- Đánh gia hiệu quả kinh tế của việc trồng nấm rơm trên một số giá thể
khác nhau(bông, mùn cưa, rơm, phối trộn bông với mùn cưa) để đưa vào
sản xuất đại trà.
1.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu trồng nấm rơm trên: một số loại nguyên liệu (bông phế
liệu,rơm,mùn cưa,trộn 50%bông+ 50%mùn cưa )đưa trồng nấm rơm tại
trung tâm giống nấm Bắc Giang
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
3
1.4 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.4.1 Ý nghĩa khoa học
- So sánh sự sinh trưởng và phát triển của nấm rơm trên một số
nguyên liệu.
- Đánh giá ảnh hương của yếu tố sản xuất tác động đến hiệu quả kinh

tế của trông nấm rơm trên một số nguyên liệu đó.
1.4.2 Ý nghĩa thực tiễn
Tìm ra các loại nguyên liệu tốt nhất cho trồng nấm có năng suất cao,
để đưa vào sản xuất đại chà,thúc đẩy nghành sản xuất nấm phát triển tại
Bắc Giang.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NẤM RƠM
2.1.1 Đặc tính sinh học của nấm rơm
2.1.1.1 Điều kiện sống của nấm rơm
Nấm rơm có tiên khoa học của nấm rơm VolvaviellaVolvacea, nấm
rơm có hơn 100 loài và chỉ khác nhau về màu sắc có loại màu xám trắng,
xám đen,có loại màu đen nhung kích thước, đường kính “cây nấm” lớn
nhỏ tùy thuộc từng chủng loại giống khác nhau. Cây nấm rất thích hợp để
sinh trưởng và phát triển ở các vùng nhiệt đới cận nhiệt đới như: Trung
Quốc, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Việt Nam…,rất thích hợp về nhiệt
độ, ẩm độ để cây nấm rơm sinh trưởng và phát triển.
Nấm rơm rất thich hợp để sinh trưởng và phát triển trong điều kiện
nhiệt độ cao 30-32
0
C, độ ẩm của nguyên liệu (cơ chất) là từ 65 - 75%, độ
ẩm không khí thích hợp là 80%, pH = 7, ưa thông thoáng đầy đủ oxy, ánh
sáng yếu nhiệt độ giữa ngày và đêm không chênh lệch quá 10
0
C và nấm
rơm sử dụng nguồn dinh dưỡng xenlulô trưc tiếp từ nguyên liệu.
2.1.1.2 Vị trí phân loại
- Tên khoa học của nấm rơm: Volvariella Volvacea

- Tên tiếng Anh: Paddy straw mushroom
- Tên khác: Nấm rạ, nấm đen, thảo cô, nấm trứng.
Nấm rơm thuộc họ Pluteaceae, bộ Agaricales, lớp Hymenomycetes,
ngành phụ Basidiomycotina, ngành nấm thật –Eumycota, giới Nấm- Fungi.
Nấm rơm có hơn 100 loài chi khác nhau như V.diplasia, V.bombycina…
2.1.1.3 Đặc điểm hình thái
* Bao gốc (Volva)
- Bao gốc dài và cao lúc nhỏ bao lấy mũi nấm, khi mũ nấm trưởng
thành gây nứt bao, bao gốc chỉ còn lại phần trùm lấy gốc chân cuống nấm.
Bao nấm là hệ sợi tơ nấm chứa sắc tố melanin tạo ra mầu đen ở bao gốc. Độ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
5
đậm nhạt tùy thuộc vào loài và áng sáng, ánh sáng càng nhiều thì bao gốc
càng đen.
Bao gốc có tác dụng:
+ Chống tia tử ngoại của mặt trời.
+ Ngăn cản sự phá hoại của côn trùng.
+ Giữ nước và ngăn sự thoát hơi nước của các cơ quan bên trong.
+ Do đóng vai trò bảo vệ nên thành phần dinh dưỡng của bao gốc rất ít.
* Cuống nấm(Stipe)
Là bó hệ sợi xốp, xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm. Khi còn non thì
mềm và giòn, khi già xơ cứng lại và khó bẻ gẫy.
Vai trò của cuống nấm là:
- Cuống nấm phát triển cùng quả nấm, đưa mũ nấm lên cao để phát
tán bào tử đi xa.
- Vận chuyển chất dinh dưỡng để cung cấp cho mũ nấm.
* Mũ nấm(pileus)
Mũ nấm hình nón cũng có chứa melanin nhưng nhạt dần từ trung
tâm ra rìa mép. Bên dưới mũ có chứa nhiều phiến nấm xếp theo dạng tia
kiểu vòng tròn đồng tâm. Mỗi phiến mấn có thể sinh ra khoảng 2.500.000

bào tử. Mũ nấm cấu tạo bởi hệ sợi tơ đam chéo nhau rất giàu chất dinh
dưỡng dự trữ, giữa vai trò sinh sản.
2.1.1.4. Chu kỳ sống của nấm rơm
Vòng đời của nấm rơm cũng tương tự như các loài nấm trồng khác
nghĩa là cũng bắt đầu từ các đảm bào từ và được xem là kết thúc khi bắt
đầu hình thành tai nấm hoàn chỉnh nhưng chu kỳ sống của nấm rơm ngắn
hơn 25-30 (tùy vào nguyện liệu, nhiệt độ, ẩm độ và kỹ thuật trồng)
Nấm rơm có chu kỳ sống rất điển hình của các loại nấm tán (nấm
đảm - Bassidiomycetes). Chu trình sống của nấm rơm bắt đầu từ sự nẩy
mầm của đảm bào tử (Bassi diomycetes).
Đảm bào tử có hình trứng, bên ngoài có lớp vỏ dày. Lúc còn non có
màu trắng, sau chuyển dần sang màu nâu bóng. Khi chín cấu tạo thêm chất
cetin nấm có mầu hồng thịt. Phía đầu của đảm bào tử có một lỗ nhỏ là nơi
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
6
để ống mầm chui ra khi nảy mầm. Bên trong bào tử đảm chứa nguyên sinh
chất, nhân và một số giọt dầu. Đảm bào tử chỉ chứa một nửa số nhiễm sắc
thể (n) so với các tế bào khác của cái nấm (2n).
Đảm bào tử nảy mầm tạo ra sợi nấm sơ cấp có tế bào chứa n nhiễm
sắc thể (haploide). Các sợi nấm sơ cấp tự kết hợp nhau tạo thành các sợi
thứ cấp với tế bào có 2n nhiễm sắc thể (diploide).
Sợi nấm thứ cấp tăng trưởng, tích lũy dinh dưỡng gặp điều kiền
thuận lợi tạo thành quả thể. Nếu gặp điều kiện không thích hợp, sợi thứ cấp
có tạo thành bào tử gọi là bì bào tử (chlamydospore) (còn gọi là hậu bào tử,
bào tử có áo, bào tử vách dày) thường thấy ở các túi giống nấm rơm có sợi
nấm trưởng thành.
Bì bào tử là một kiểu sinh sản vô tính của nấm rơm tạo bào tử có 2n
nhiễm sắc thể. Bì bào tử được hình thành khi các sợi nấm thứ cấp già hoặc
môi trường kém dinh dưỡng. Khi gặp điều kiện thuận lợi các bì bào tử nảy
mầm cho hệ sợi nấm thứ cấp 2n.

- Qúa trình tạo quả thể nấm rơm gồm 6 giai đoạn:
+ Giai đọan sợi nấm biến thành đầu đinh ghim (pinhead:meo nấm).
+ Giai đoạn hình thành nút nhỏ (tinny button).
+ Giai đoạn hình thành nút (button).
+ Giai đoạn hình thành trứng (egg).
+ Giai đoạn hình chuông, hình trứng kéo dài (elongation).
+ Giai đoạn trưởng thành (mature:nở xòe).
Chu trình sinh trưởng và phát triển của nấm rơm rất nhanh chóng. Từ
lúc trồng đến khi thu hoạch chỉ sau 12-14 ngày. Đối với từng lọai nguyên
liệu khác nhau mà hệ sợi phát triển nhanh chậm khác nhau. Đối với nguyên
liệu là bông phế liệu thì thời gian cho ra đinh ghim kéo dài hơn 11-14 ngày.
Sau khi ra đinh ghim 2-3 ngày nấm lớn rất nhanh bằng hạt ngô, quả táo,
quả trứng (giai đoạn hình trứng); lúc trưởng thành (giai đoạn phát tán bào
tử, nở xòe) trông giống như một chiếc ô dù có cấu thành các phần hoàn
chỉnh(cả vòng đời khoảng 1tháng Nấm rơm thường cho thu hoặch từ 2-3
lứa(thường là 2 lứa) trong đó lứa 1 chiếm 80% sản lượng.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
7
Chõn n?m
N? xũe
Mu n?m
Bỡ bo t?
N?y m?m
T?o m?ng n?i
?m bo t?
T?o bo t?
Di?n bi?n c?a
nhõn trong d?m
n
n

n
n
H?p nhõn
Kộo di hay hỡnh chuụng
Hỡnh tr?ng
Hỡnh nỳt
Hỡnh nỳt nh?
?u dinh ghim
(n? n?m)
To th? c?p
tang tru?ng
Kh?i s? t?o qu? th?
Hỡnh 2.1: Chu trỡnh sng ca nm rm(Ti liu 1)
2.1.1.5 Cỏc yu t nh hng n s sinh trng v phỏt trin ca nm
rm
- Nhit : Nm rm rt thich hp sinh trng v phỏt trin trong
iu kin nhit cao 30-32
0
C, Nu m vt qua khong thớch hp (15-
42
0
C) thỡ vic ra qu th hoc t ngay giai on u inh ghim cng khụng
th ra c
- m ca nguyờn liu (c cht) l t 65 - 75%, m khụng khớ
thớch hp l 80%, pH = 7, a thụng thoỏng y oxy, ỏnh sỏng yu nhit
gia ngy v ờm khụng chờnh lch quỏ 10
0
C v nm rm s dng
ngun dinh dng xenlulụ trc tip t nguyờn liu rt tt.
- Ch chm súc ti nc m bo m v nhit , ỏnh sỏng

- Sõu bnh hi gõy thi hng cht ging,cnh tranh c cht
Bỏo cỏo thc tp tt nghip Nguyn Vn t K 8K
8
Hình nút
Nở xòe
Hình trứng
Kéo dài hay hình
chuông
Hợp nhân
n
n
n
Diễn biến
của nhân
trong đảm
Mũ nấm
Đảm bào tử
Tạo mạng nối
Tơ thứ cấp tăng tr/ởng
Nảy mầm
Bì bào tử
Đầu đinh ghim (nụ
nấm)
Khởi sự tạo quả thể
Tạo bào tử
Chân nấm
- Cơ chất trồng nấm rơm :tùy loại cơ chất nấm rơm có thể sinh trưởng
nhanh hay chậm…
Các giai đoạn phát
triển

NHIỆT ĐỘ (
0
C)
Cực tiểu Tối ưu
Cực
đại
Nẩy mầm bào tử 30 40 42 80 Không cần
Tăng trưởng của hệ
sợi tơ
15 35 40 80-90 Không cần
Khởi sự tạo quả thể 20 30 35 80-90 Cần có
Sự phát triển của
quả thể
28 30 35 80 Ảnh hưởng đến
Hình 1.1.5 :Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đối với nấm rơm
2.2. Giá trị dinh dưỡng của nấm rơm
Nấm rơm được xem là một loại rau sạch, thịt sạch, rau cao cấp. Nấm
rơm rất giàu dinh dưỡng như: protein, lipit, gluxit, các axit amin.….
Nếu nhận xét về hàm lượng đạm (protein) có thấp hơn thịt, cá nhưng
lại cao hơn bất kỳ một loại rau quả nào khác. Đặc biệt là có sự hiện diện
gần như đủ các loại axit amin không thay thế, trong đó có 9 loại axit amin
cần thiết cho con người như VTM-A, VTM-D,VTM-C…. Nấm rơm rất
giàu leucin và lysin là hai loại axit amin ít trong ngũ cốc. Do đó xét về chất
lượng thì đạm ở nấm rơm không thua gì đạm ở thực vật. Xét trong nấm ăn
thì nấm rơm chiếm (20-40%) lượng đạm tỷ lệ % so với 100g chất khô.
Nấm ăn nói chung, nấm rơm nói riêng có đặc điểm dinh dưỡng là
chứa nhiều đạm, ít calo ngoài ra còn có các chất có ích cho cơ thể con
người như đường đa, khoáng và sinh tố. Người ta xem nguồn chất đạm của
nấm ăn, của thực vật, của động vật sẽ là 3 nguồn đạm quan trọng của con
người sau này.

Theo phân tích của các nhà khoa học trong 112 loại nấm ăn có hàm
lượng bình quân: protein 25%; lipit 8%; gluxit 60% (trong đó đường là 5%,
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
9
xơ là 8%); chất tro 7% đặc biệt là nấm mỡ (A.bisporus) có hàm lượng
prôtêin cao tới 44% (Trạch Điền Mãn Hỷ 1983 – AdriAno and cruz 1933),
xếp sau nấm mỡ là nấm rơm có hàm lượng protêin cao nhất 40%. Tỷ lệ %
tính theo 100g chất khô
Bảng1:thành phần phân tích của nấm rơm
Mẫu
phân
tích
Độ
ẩm
ban
đầu
(%)
Protei
n thô
(%)
Chất
béo
(%)
Các
bonhydra
t
(%)
Tro
(%)
Năng

lượng
cung
cấp
(Kcal)
Nguồn
tham
khảo
Tươi 90,1 21,2 10,1 58,6 10,1 369 FAO
Đóng
hộp
89,6 22,1 10 65,4 11,5 323 1972
Khô 8,3 21,9 13,3 54,8 10 406 1976
(Tài liệu 1)
* Hàm lượng protein của nấm ăn
Theo phân tích của sinh hóa học và sinh học phân tử đã chứng minh
protein và axit nucleic là cơ sở vật chất quan trọng nhất trong quá trình hoạt
động của sự sống. Hoạt động của các hệ thống enzim trong cơ thể cũng có
bản chất là protein, chất kích thích có tác dụng điều tiết quá trình trao đổi
chất là prôtêin hoặc dẫn xuất của prôtêin. Các hoạt động co duỗi của cơ
chính là prôtêin tạo thành, các phản ứng miễn dịch của cơ thể đều nhờ có
protein mà thực hiện được. Cơ thể con người được cung cấp nguồn protein
từ nấm có lợi ích là không chứa cholesteron như nguồn protein từ động vật.
Trong nấm có khoảng 17-19 loại axit amin. Trong đó có đủ 9 loại axit
amin không thay thế. Theo tài liệu thống kê trong 9 loại nấm thường dùng
như nấm mỡ, nấm rơm, nấm hương, nấm kim châm, nấm sò, nấm mộc nhĩ
đen, nấm mộc nhĩ trắng, nấm đầu khỉ, nấm đùi gà (sò vua) có tổng hàm
lượng axit amin bình quân là 15,75% (tính theo trọng lượng 100g chất khô)
hàm lượng axit amin không thay thế là 6,43% chiếm 40,53% tổng hàm
lượng axit amin.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K

10
- Hàm lượng axit nucleic: axit nucleic là chất cao phân tử có tác
dụng quan trọng trong quá trình sinh trưởng và sinh sản của cá thể sinh vật
và cũng là vật chất cơ bản di truyền. Trong nấm mỡ, nấm sò, nấm rơm hàm
lượng axit nucleic đạt tới 5,4% - 8,8% (trọng lượng khô) (Trương Thụ
Đình 1982). Theo tài liệu của liên hợp quốc 1970 mỗi ngày người trưởng
thành cần khoảng 4g axit nucleic trong đó tới 2g có thể lấy từ vi sinh vật,
vì vậy ăn nấm tươi là nguồn cung cấp rất tốt axit nucleic cho cơ thể.
- Hàm lượng Lipit: Hàm lượng chất béo thô trong nấm ăn dao động
từ 1% tới 15% - 20% theo trọng lượng khô, nhưng tất cả đều thuộc các axit
béo không no như mono, di, tri- glyceride, steral, sterol ester và photpho
lipide (Holtz và Schider 1971).
* Hàm lượng Gluxit và Xenlulo:
Trong nấm ăn có tới 30- 93% là chất gluxit nó không chỉ là chất dinh
dưỡng mà còn có chất đa đường (poly saccharide) và hợp chất của đa
đường có tác dụng chữa bệnh, nhất là chống khối u. Thành phần đa đường
trong nấm ăn là các đường đơn như Glucose, Semi – lactose, xylose,
arabinose, các chất đường đơn như hexose (6 cácbon) vừa là nguồn năng
lượng vừa là hợp chất đường đa.
- Nấm chứa ít chất đường với hàm lượng thay đổi từ 3-28% trọng
lượng tươi. Ở nấm rơm, lượng đường tăng lên trong giai đoạn phát triển từ
dạng nút sang dạng kéo dài, nhưng lại giảm khi trưởng thành.
- Nấm rơm chứa nhiều sinh tố A, B, C, K, E…
- Nấm rơm được ghi nhận là dòng giàu Na, K, Ca, P và Mg, chúng
chiếm từ 56-70% lượng tro tổng cộng.
Nấm rơm là món ăn có tác dụng ngăn ngừa ung thư. Đặc biệt trong
nấm rơm đều có chất chống lão hóa mang tên L – ergothionrine, chất này
chỉ có ở nấm và không bị mất đi trong quá trình chế biến.
Trong thành phần của nấm rơm có hàm lượng khoáng chất potassium
cao, có khả năng ngăn chặn chứng cao huyết áp rất nguy hiểm ở người.

Người ăn nấm nhiều còn có tác dụng làm đẹp cho làn da cơ thể.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
11
Nấm rơm được người đời sử dụng rộng rãi. Loại nấm dân dã này
được từ vua cho tới dân thường ai cũng sử dụng được cả. Nấm rơm tính
mát, thanh nhiệt giải độc.
1.1.3. Ý nghĩa kinh tế
Nấm rơm không những có giá trị dinh dưỡng câo mà con mang lại
hiệu quả kinh tế cao cho người trồng nấm, nó vừa góp phần vào việc xóa
đói giảm nghèo cho người dân vừa là mặt hàng xuất khẩu khẩu có giá trị
kinh tế cao đối với các tỉnh trồng nấm như: An Giang, Long An, Bình
Dương, Ninh Bình, Nam Định, Cần Thơ,…Mỗi năm nó đã thu về hàng trục
tỷ USD.
Sản xuất nấm rơm còn tranh thủ được thời vụ, thời gian sinh trưởng
ngắn khoảng một tháng là thu hoạch xong.
Việc phát triển nấm rơm còn giẩi quyết được công ăn việc làm tăng
thu nhập cho người lao động tận dụng được các sản phẩm thừa từ nông
nghiệp như rơm rạ, mùn cưa bông phế liệu…làm cẩi thiện đời sống,cải
thiện bũa ăn cho người dân.
Nấm rơm còn là cây thực phẩm sạch có giá trị kinh tế cao, nguyên
liệu của nấm rơm còn là nguyên liệu dể sản xuất các nấm khác như: nấm
sò, mộc nhĩ, phân vi sinh,…
Nấm rơm còn để làm thuốc, nước thanh nhiệt, và các sản phẩm đã
qua chế biên như rượu, nấm muối, nấm sấy…
Nghề sản xuất nấm rơm còn góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tăng
thu nhập quốc dân GDP, ngoài ra còn kéo theo các ngành khác phát triển
như công nghiệp, chế biến,…
Ngoài ra sản xuất nấm rơm còn góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế
sự ô nhiễm môi trường do câc sản phảm thừa của nông nghiệp.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K

12
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nấm rơm trên thế giới
Ngành sản xuất nấm nói chung và ngành sản xuát nấm rơm nói riêng
đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng trục năm nay. Nấm rơm
được trồng đầu tiên tại Trung Quốc sau đó lan rộng sang các nước Đông
Nam á và Bắc Phi và dần lan rộng ra khắp các nước trên thế giới.
Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và sản xuất
nhiều loại nấm ăn như nấm rơm, nấm mỡ, nấm hương, nấm sò…, khu vực
Bắc Mỹ và Châu Âu, trồng nấm theo phương pháp công nghiệp. Những
nhà máy sản xuất nấm có công suất từ 200 - 1000 tấn/năm được cơ giới hóa
cao. Khu vực Châu á (Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung
Quốc…).
Thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài
Loan, các nước Châu Âu…, hàng năm các nước này phải nhập khẩu từ
Trung Quốc (nấm muối và nấm đóng hộp). Tại các nước này do khó khăn
về nguồn nguyên liệu và giá công lao động rất đắt nên những người nuôi
trồng nấm và kinh doanh mặt hàng này đang chuyển dịch sang các nước
chậm phát triển để mua nguyên liệu và chế biến tại chỗ. Nguồn nguyên liệu
rơm rạ ở các nước có nền nông nghiệp lúa nước, lúa mạch phát triển rất
nhiều không được sử dụng vào trồng nấm, mà người dân đem đốt trên các
cánh đồng, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt của
con người, phá hoại các vi sinh vật, động vật có ích cho công tác sản xuất
cho nông nghiệp.
Bảng 2: Sản lượng nấm rơm trên thế giới trong nhưng năm gần đây
Năm 1975 1979 1986 1990 1997
Sản lượng 42 49 178 253 181
(Tài liệu 2)
Thị trường nấm ăn trên thế giới rất lớn, hiện nay là Mỹ Nhật Bản,
Hồng Công, Đài Loan, và các nước Châu Âu hàng năm các nước này đã
nhập khẩu từ các nước như: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, chủ yếu ở

Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
13
dạng đóng hộp, nấm khô. ở các nước này do khó khăn về điều kiện khí hậu,
giá nhân công lao động, nguyên vật liệu nên các nước này đang có xu
hướng là đầu tư khoa học kỹ thuật, vốn vào các nước chậm phất triển.
Các nước ở khgu vực Châu á như Đài Loan, Singgapo, Thái Lan,
Trung Quốc, Malayxia, Indonesia, Triều Tiên,…nghề trồng nấm cũng phát
triển mạnh một số nấm như nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ…. Sản phẩm được
tiêu thụ dưới dạng đóng hộp, muối, sấy khô, và làm thuốc bổ.
Hàng năm trên thế giới tiêu thụ khoảng 15 triệu tấn nấm rơm, giá của
nấm rơm là từ 1.700-6.500 USD/tấn. Nhưng nhìn chung là nấm tươi đối
với các nước thi thường tiêu thụ trong nước
Trên thế giới, tập trung nghiên cứu và sản xuất nhiều loại nấm ăn,
Trung Quốc là nước có nền sản xuất nấm lớn nhất thế giới (gồm hơn 2000
cơ quan sản xuất, nuôi trồng, nghiên cứu. Doanh thu 5000 tỷ USD; xuất
khẩu từ 400 – 600 nghìn tấn nấm các loại /năm). Đứng thứ hai sau Trung
Quốc là Thái Lan, có lượng nấm lớn chủ yếu là nấm đông cô, kim châm,
trân châu, nấm rơm và các loại nấm khác.
Ở Châu á, trồng nấm mang tính chất thủ công, năng xuất không cao,
nhưng sản xuất ở gia đình đông, nên tổng sản lượng lớn.Hiện nay nghề
trồng nấm đã phổ biến rất rộng rãi tại Trung Quốc và đạt tới sản lượng nấm
cao nhất thế giới. Hiện đã có rất nhiều cơ quan nghiên cứu và chỉ đạo triển
khai nuôi trồng nấm ăn ở Trung Quốc và trên các nước đều có cơ quan
nghiên cứu về nấm rơm.
- Viện vi sinh vật học, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc (phụ
trách việc phân loại và bảo quản các loại nấm ăn).
- Viện nghiên cứu Nấm ăn, Viện khoa học Nông nghiệp Thượng Hải
ở Trung Quốc.
- Ở Việt Nam Viện Di Truyền,Trung tâm khuyến nông khuyến ngư
Việt Nam, Cơ quan khuyến nông,Sở nông nghiệp… của các tỉnh.

Ngoài Trung Quốc, nghề nuôi trồng nấm ăn cũng phát triển trên mọi
châu lục. Các kết quả nghiên cứu nấm ăn và nuôi trồng nấm ăn trên thế giới
được công bố, trên các tạp chí như Mushrooms ( Nhật Bản), Transaction of
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
14
the Mycologicial Society of Japan (Nhật Bản), Mushrooms Journal (Anh),
Mushrooms News (Mỹ), Mushrooms Information (Italia), Mushrooms
Journal for the Tropios (Hội nấm nhiệt đới quốc tế), Mushrooms Science
(Các hội nghị quốc tế về nấm),v.v…
Nhìn chung, nghề trồng nấm phát triển mạnh và rộng khắp. Nhất là
trong 20 năm gần đây. Theo đánh giá của Hiệp hội khoa học nấm ăn Quốc tế
(ISMS), có thể sử dụng 250 phế phụ liệu của Nông – Lâm nghiệp để trồng
nấm, đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội. Sản xuất đem lại nguồn thực phẩm
sạch, tạo công ăn việc làm tại chỗ, vệ sinh môi trường đồng ruộng, chống lại
việc đốt rơm rạ, xử lý gọn các phế liệu bông khi đã thu lấy sợi xong, tạo ra
nguồn phân hữu cơ cho cải tạo đất, góp phần vào chu trình chuyển hóa vật
chất. Trong sinh học, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong nghề nấm
về chọn, tạo giống nấm, về kỹ thuật nuôi trồng và sự bùng nổ thông tin. Nghề
trồng nấm đã và đang trên toàn thế giới được coi là nghề xóa đói giảm nghèo
và làm giàu, thích hợp với các vùng nông thôn, miền núi.
2.3. Thực trạng về tình hình sản xuất và tiêu thụ nấm rơm ở Việt Nam
Ở Việt Nam nấm ăn cũng được biết đến từ lâu, từ những năm 70 của
thế kỷ XX nhân dân ta đã biết trồng nấm. Tuy nhiên chỉ khoảng 10 năm
gần đây nghề trồng nấm mới được xem như một nghề mang lại hiệu quả
kinh tế và mới thật sự phát triển.
Khoảng hơn 10 năm trở lại đây đời sống nhân dân tăng lên cùng với sự
phát triển của các khoa học công nghệ, thông tin… Thì cây nấm mới được
quan tâm và nghiên cứu về nó với việc tạo ra hàng loạt các chủng giống có
năng suất cao mang lại hiệu quả kinh tế giúp xóa đói giảm nghèo cho bà con
nông dân thì nghề trồng nấm mới thu hút được sự quan tâm có các nhà khoa

học, các trung tâm, viện nghiên cứu các giống và đưa vào sản xuất cho phù
hợp với từng vùng, khí hậu.Và cũng từ đó lập ra hàng loạt các trung tâm
nghiên cứu.
- Năm 1984, thành lập trung tâm nghiên cứu nấm ăn thuộc Đại học
Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội).
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
15
- Năm 1985, tổ chức FAO tài trợ và ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
quyết định thành lập trung tâm sản xuất giống nấm Tương Mai – Hà Nội (nay
đổi tên thành công ty sản xuất giống, chế biến và xuất khẩu nấm Hà Nội.
- Năm 1986, được tổ chứ FAO tài trợ, ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh quyết định thành lập xí nghiệp nấm thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn một số đơn vị: Công ty nấm Thanh Bình (tỉnh Thái Bình), xí
nghiệp nấm thuộc công ty rau quả Vegetexco, các công ty liên doanh sản
xuất và chế biến nấm ở niềm nam (công ty MeKo ở Cần Thơ, Đà Lạt, ),.
- Năm 1991 – 1993, Bộ khoa học công nghệ và môi trường triển khai
dự án sản xuất nấm theo công nghệ Đài Loan (xuất phát t21ừ Unimex Hà
Nội mua công nghệ của Đài Loan năm 1990).
- Năm 1992 – 1993, công ty nấm Hà Nội nhập thiết bị chế biến đồ
hộp và nhà trồng nấm chuyên nghiệp của Italia
- Năm 1994, thành lập trung tâm Công nghệ sinh học thực vật – Viện
Di truyền nông nghiệp. Với tổng diện tích trên 5000m2 .Trung tâm Công
nghệ sinh học thực vật là đơn vị hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà
nước (Quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước số 360/NN- TCCB/QĐ
ngày 27/01/1994 của Bộ Nông Nghiệp và Công Nghiệp thực phẩm).
- Năm 2007 Trung tâm giống nấm Bắc Giang chính thức hoạt động
cung cấp giống cho nhân dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp cho sản xuất
nấm ăn nhất là các tỉnh phía Nam có khí hậu thuận lợi, nhiệt độ cao nhiệt
độ chênh lệch giữa ngày và đêm không quá 10

0
C nên có thể sản xuất quanh
năm. Nơi đây lại là nơi vựa lúa của cả nước nên có nguồn nguyên liệu dùng
để sản xuất rất dồi dào. Nguồn lao động ở các vùng nông thôn, những ngày
nông nhàn, thậm chí trong mùa vụ số lượng không có việc làm rất lớn. Trên
cơ sở đó, thì con đường phát triển nuôi trồng nấm tương đối dễ thực hiện.
Sản lượng nấm tính theo cấp số nhân: Từ trước năn 1990 mới đạt con
số vài tấn /năm. Đến năm 2001 đạt trên 40.000 tấn/năm. Tới nay, năng suất
đạt trên 150.000 tấn/năm. Sản lượng các tỉnh phía Nam chiếm tới 90% tổng
sản lượng nấm rơm của cả nước chủ yếu ở các tỉnh như: Long An, An
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
16
Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Tiền Giang…Các tỉnh
này phát triển rất nhanh và ngày càng quy mô hơn.
* Ở miền Bắc : do sự ảnh hưởng của khí hậu có hai mùa nóng và lạnh
rõ rệt nên ngành sản xuất nấm rơm còn có sự hạn chế và các tỉnh chủ yếu
sản xuất nấm Sò, nấm Linh Chi, Mộc Nhí, nấm Mỡ. Còn nấm rơm thì tranh
thủ vào mùa hè trồng với diện tích là không lớn lắm, nên sản lượng còn
thấp chủ yếu là dùng trong nội địa như các tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định,…Thị trường tiêu thụ chủ yếu là các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải
Phòng. Giá bán ở Hà Nội từ 20.000 - 30.000 đồng/Kg nấm tươi.
Bên cạnh đó, do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên
dẫn tới tình trạng nấm làm ra không biết bán cho ai, trong khi doanh nghiệp
thì khan hàng.Theo như nhận định của GS. TS Nguyễn Hữu Đống (Trung
tâm Công nghệ Sinh học Thực vật - Viện Di truyền Nông nghiệp) cho rằng:
“Việt Nam có nhiều khả năng xuất khẩu nấm nhưng do vùng sản xuất
nguyên liệu chưa đủ lớn nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
việc thu mua, chế biến và xuất khẩu". Hàng năm việc sản xuất nấm rơm đã
mang lại cho ngân sách nhà nước hàng trục tỉ đồng nhờ vào suất khẩu chủ
yếu là các tỉnh phía Nam và mặt hàng là nấm khô và nấm muối vào các

nước là: Mỹ, Bắc Âu, Nhật Bản, Đức…Và một số công ty của một số nước
này cũng đã liên kết với các cơ sở sản xuất nấm rơm ở các tỉnh nước ta.
Nhờ vào thịt trường rộng lớn nên việc sản xuất nấm rơm đang dần phát
triển ở nước ta và ngày càng được các cấp chính quyền quan tâm .
Trước đây nguồn rơm rạ của vụ Đông Xuân, Hè Thu của Đồng Bằng
Sông Cửu Long bỏ đi rất lãng phí gây ôi nhiễm môi trường, bầu khí quyển
khi đốt rơm rạ, làm tắc nghẽn dòng chảy. Từ khi nghề trồng nấm phát triển
thì rơm rạ trở thành mặt hàng có giá trị kinh tế lớn. Giá trị kinh tế từ phong
trào sản xuất nấm rơm đến năm 2006 thu được gần 43 tỷ đồng, góp phần
cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa,
tạo việc làm cho hơn 51.000 lao động nông nhàn và tăng thu nhập cho hộ
nông dân đồng thời tận dụng nguồn rơm phế thải sau khi chất nấm sử dụng
làm phân bón cho vườn cây ăn trái. Tại huyện Vũng Liêm - vùng chuyên
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
17
sản xuất nấm rơm đang từng bước hình thành các làng nghề sản xuất – thu
mua – sơ chế nấm rơm tại 5 xã Trung Nghĩa, Trung Chánh, Trung Hiếu,
Hiếu Thành và Trung Thành Tây cung ứng cho các công ty chế biến xuất
khẩu ở trong và ngòai tỉnh. Hiện nay, phong trào sản xuất nấm rơm tiếp tục
phát triển tại các huyện Tam Bình 2.851 ha, Bình Minh 1.000 ha, Long Hồ,
Mang Thít mỗi huyện từ 390 – 500 ha. Tuy nhiên tỉnh chỉ mới khai thác từ
20 – 25% lượng rơm trong 2 vụ sản xuất Hè Thu và Thu Đông để sản xuất
nấm. 2 khó khăn lớn nhất hiện nay trong phát triển phong trào sản xuất nấm
rơm là xây dựng kênh tiêu thụ đa dạng và thương hiệu cho nấm rơm. Hai
doanh nghiệp chế biến nấm rơm tỉnh Vĩnh Long là công ty chế biến thực
phẩm Phú Quý và công ty chế biến xuất khẩu Cửu Long chưa thật sự gắn
kết với người trực tiếp sản xuất và vùng sản xuất mà chủ yếu mua qua
thương lái thu mua lưu động, chưa hướng dẫn kỷ thuật trồng, thu họach và
sơ chế đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Tuy các sản phẩm nấm hộp, nấm
muối, nấm luộc có thị trường tiêu thụ rộng lớn ở Đài Loan, Hồng Kông,

Mỹ, Canada, sản lượng nấm rơm xuất khẩu năm nay tăng so với năm 2005
nhưng chỉ đạt 92% kế họach năm.
*Một số tỉnh trồng nấm rơm tiêu biểu như:
- Tỉnh An Giang trong chương trình khai thác thế mạnh kinh tế
chuyển đổi cũng xem trồng nấm rơm mang lại cho nông dân nhiều mối lợi
cần phát huy đúng mức. Lợi nhuận thu được 4 triệu đồng/công. Chưa kể
khoản tiền thu được từ việc bán tro rơm (nông dân đốt nền rơm sau khi thu
hoạch nấm). Bình quân 1 công nấm, tận thu được 280 giạ tro, giá bán
2.500đ/giạ. Như vậy, nhà nông phụ thu thêm được 700.000đồng.
Theo báo cáo của Trung tâm Khuyến nông An Giang, về tình hình
hình phát triển trồng nấm rơm trong thời gian qua, cho thấy phần lớn các
hộ sản xuất đều mang tính cá thể, tự phát. Việc tiêu thụ chủ yếu lệ thuộc
vào thương lái, giá cả thường không ổn định, do chưa hình thành được
vùng sản xuất tập trung cần tiêu thụ 10 – 30 tấn nấm mỗi ngày. Hiện nay,
thị trường đang thiếu nấm rơm cho xuất khẩu và sản phẩm nấm rơm Việt
Nam đang được ưa chuộng trên thị trường nước ngoài. Toàn tỉnh có 51 tổ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
18
sản xuất nấm, trong đó có 3.400ha nấm rơm sản xuất luân vụ quanh năm
cho thu nhập trên 50 triệu đồng/ha, cao gấp 3 lần so với trồng lúa. Năng
suất cao tập trung tại các huyện: Thoại Sơn, Chợ Mới, Châu Phú. Nằm
trong chương trình khuyến nông chuyển đổi sản xuất trên nền trồng lúa.
Tỉnh An Giang trong năm 2007 đã hỗ trợ 1 tỷ đồng tiền vốn ưu đãi cho
hàng chục cơ sở chế biến và tiêu thụ nấm rơm trên địa bàn phục vụ mục
đích mở mang nghề trồng nấm rơm. Nhờ vậy, đã giúp tạo công ăn việc làm
cho trên 3.500 lao động thường xuyên và gần 20.000 lao động mùa vụ.
Việc gắn sản xuất với tiêu thụ hàng hóa cho nông dân trong chương trình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi khẳng định hướng đi đúng của An
Giang trong tầm nhìn về cây nấm rơm trong tương lai.
- Tỉnh Sóc Trăng, gần đây còn xây dựng đề án khuyến khích trồng

nấm ăn và nấm dược liệu trong đồng bào Khơme, nhằm giúp bà con tháo
gỡ bế tắc, nhanh chóng có thêm thu nhập, ổn định đời sống. Hiện nay, nghề
trồng nấm rơm đang phát triển tại các huyện thuần nông của tỉnh Sóc
Trăng: Thạch Trị, Mỹ Tú, Ngã Năm với hàng ngàn hộ nông dân tham gia
cho sản lượng nấm rơm mỗi năm và ba ngàn tấn phục vụ tiêu dùng và chế
biến xuất khẩu. Nghề trồng nấm rơm phát đạt đã kéo theo mở mang các cơ
sở dịch vụ cần thiết như: cung ứng meo giống, thu mua, sơ chế tiêu thụ
nấm rơm thương phẩm cũng giúp thu hút một lượng lao động nông thôn.
- Cư dân 2 huyện Thốt Nốt và Ô Môn (Cần Thơ) xem trồng nấm rơm
là nghề truyền thống của họ. Người có tuổi nghề ít nhất là 20 năm cho
nên.Một số năm trở lại đây, nghề trồng nấm rơm ở Cần Thơ phát triển rất
mạnh. Theo tin của thông tấn xã Việt Nam, các doanh nghiệp ở Cần Thơ
vừa xuất khẩu 753 tấn nấm rơm muối và đóng hộp trị giá hơn 6.900 USD,
sang 14 nước châu á, châu Âu, châu Mỹ. Cần Thơ là địa phương có lượng
nấm rơm cao nhất trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong thời gian
qua, các doanh nghiệp sản xuất nấm rơm của tỉnh cũng đã ký được nhiều
hợp đồng xuất khẩu sang Ai Cập, Pakistan, Oxtraylia. Năm nay Cần Thơ
có xuất khẩu từ 4.000 – 5.000 tấn nấm rơm các loại. Và hiện nay có rất
nhieuf cơ sở tổ chúc xấy nấm
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
19
- Hải Phòng là địa phương có rất nhiều tiềm năng để phát triển nghề
trồng nấm.Thực ra nghề trồng nấm, đã có thời kỳ phát triển thành phong
trào ở Hải Phòng. Đó là vào những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên thời
kỳ đó người tiêu dùng không có thói quen sử dụng nấm như một loại thực
phẩm nên nấm không có đầu ra, không thu được lợi ích kinh tế, phong trào
sản xuất nấm cũng vì thế mà lắng xuống, hay mai một dần. một vài năm
gần đây, việc phát triển nghề trồng nấm trở nên sôi động tại rất nhiều địa
phương trong cả nước: Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải
Dương, Cần Thơ, An Giang, Mỹ Tho,…

Nhận thấy hiệu quả mà nghề trồng nấm mang lại, cho người nông dân
tại các tỉnh thành phố, liên minh hợp tác xã, thành phố Hải Phòng đã tiến
hành triển khai sản xuất nấm thương phẩm tới một số huyện trên địa bàn và
đem lại một số hiệu quả kinh tế cao. Sau 9 tháng triển khai ở một số hợp
tác xã, doanh nghiệp và 42 hộ gia đình với 100 tấn nguyên liệu, thu được
24.000 kg nấm thương phẩm, trị giá 300 triệu đồng, lãi gần 200 triệu đồng.
Tính hiệu quả kinh tế, đạt gần 600 triệu đồng/ ha trong thời gian 4 tháng,
vượt xa so với cây lúa.
- Nghề trồng nấm ở tỉnh ven biển như Nam Định mấy năm trở lại đây
rất phát triển, một số huyện như: Nghĩa Hưng, Xuân Trường,…, hàng năm
đưa ra thị trường hàng trăm tấn nấm. Nghề nấm ở đây phát triển rộng khắp
trên toàn tỉnh, giảm bớt được lượng phế liệu đáng kể của nông nghiệp,vừa
giảm thiểu ôi nhiễm môi trường mà thu hút được sự chú ý của nhiều dân
nghèo nhất là đối với chị em hội phụ nữ ở đây giảm bớt gánh nặng gia đình
và nhất là cho hộ gia đình đang muốn thoát nghèo của tỉnh.
Cùng với sự phát triển nấm của các tỉnh phía Bắc, Tỉnh Bắc Giang từ
năm 1995 Giáp Tết, nấm, mọc nhĩ khô được đóng vào từng bao tải lớn đưa
đi tiêu thụ ở Hà Nội, Quảng Ninh, Lạng Sơn Còn với nấm sò, nấm
mỡ,nấm rơm thu hái đến đâu được bán tươi đến đó. So với trồng rau và cấy
lúa, trồng nấm có thu nhập cao hơn hẳn. Thế nhưng, chỉ được chừng 5 năm
sôi động, Xác định Bắc Giang có điều kiện thuận lợi để phát triển nghề
trồng nấm bởi nguồn lao động và nguyên liệu dồi dào, thị trường tiêu thụ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
20
ngày càng mở rộng, từ năm 2005, ngành Nông nghiệp đã chuẩn bị một kế
hoạch dài hạn phát triển nghề trồng nấm. Việc đầu tư trang thiết bị cho cơ
sở sản xuất giống nấm được xúc tiến với tổng số vốn gần 1 tỷ đồng. Công
tác chuyển giao kỹ thuật, mô hình liên kết sản xuất, thu mua nấm được xây
dựng với mục đích thăm dò thị trường và tạo điểm để nhân rộng. Năm
2006, thì 6 xã trong huyện Yên Dũng được chọn xây dựng mô hình điểm

trồng nấm mỡ và nấm rơm. Thành công ở mô hình điểm tại Yên Dũng cũng
như các điều kiện cơ sở vật chất khác đã tạo tiền đề để năm 2007, UBND
tỉnh triển khai Đề án phát triển sản xuất nấm giai đoạn 2007-2010. Tổng
kinh phí hơn 43,7 tỷ đồng, trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ hơn 6 tỷ đồng,
còn lại là vốn đối ứng của nhân dân. Đây là đề án có quy mô, mức hỗ trợ
lớn nhất từ trước tới nay về phát triển nghề trồng nấm trên địa bàn. Khắc
phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, đề án nêu rõ vùng quy hoạch trồng nấm
bao gồm các huyện: Yên Dũng, Lạng Giang, Tân Yên, Việt Yên, Lục Nam,
nơi có nhiều rơm rạ và các sản phẩm phụ khác từ nông nghiệp. Với sự trợ
lực từ Đề án phát triển sản xuất nấm giai đoạn 2007-2010, sự đổi mới trong
phương thức tổ chức sản xuất, nghề trồng nấm đang đứng trước cơ hội phát
triển rất lớn.
Từ thực tế trồng nấm ở xã Khánh Phú Yên Khánh – Ninh Bình, việc
hình thành các trung tâm thu mua nấm là cần thiết để điều tiết cung – cầu.
Đây cũng là điều kiện tốt để đẩy mạnh việc xúc tiến mặt hàng nấm vào thị
trường EU, Mỹ, Nhật Bản Thông thường, các doanh nghiệp chỉ thu mua
nấm đã qua sơ chế, thương lái cũng chỉ tập trung thu mua ở những khu vực
sản xuất lớn.
Trong những năm qua, tổng quan ngân sách nhà nước và các địa
phương đã được đầu tư hàng chục tỷ đồng cho việc nghiên cứu và triển
khai sản xuất nấm ở các tỉnh phía Bắc, bên cạnh những thành công đáng kể,
thì không tránh khỏi những thành công và thất bại dẫn đến kết quả đạt được
rất thấp. Nhiều cơ sở sản xuất nấm thua lỗ, làm mất vốn của nhà nước,
chưa tạo được uy tín trên thị trường, mặc dù tiềm năng để phát triển nghề
nấm là rất lớn
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
21
* Tiềm năng phát triển nấm rơm ở nước ta :
- Nguồn nguyên liệu trồng nấm sẵn có như: rơm rạ, mùn cưa, bông
phế liệu,… Ở các nhà máy dệt, bã mía ở các nhà mày đường. Ước tính cả

nứơc có trên 40 triệu tấn phế liệu, chỉ cần sử dụng khoảng 10 – 15% lượng
nguyên liệu này để nuôi trồng nấm, đã tạo ra trên 1 triệu tấn nấm/năm và
hàng trăm ngàn tấn phân hữu cơ.
- Trong những năm gần đây, nhiều đơn vị nghiên cứu ở các viện,
trường, trung tâm đã chọn, tạo ra được một số chủng giống nấm có khả
năng thích ứng với môi trường Việt Nam cho năng suất khá cao, các tiến bộ
kỹ thuật về nuôi trồng, chăm sóc, bảo quản và chế biến ngày càng được
hoàn thiện. Trình độ và kinh nghiệm của người dân được nâng cao. Năng
suất trung bình các loại nấm đang nuôi trồng hiện nay cao gấp 1,5 - 3 lần so
với 10 năm về trước.
- Vốn đầu tư để nuôi trồng nấm, so với các ngành sản xuất khác
không lớn vì đầu tư chủ yếu là công lao động (chiếm khoảng 30% - 40%
giá thành một đơn vị sản phẩm). Nếu tính trung bình để giải quyết việc làm
cho một lao động chuyên trồng nấm ở nông thôn hiện nay có mức thu nhập
800.000 - 900.000đồng/tháng, chỉ cần một số vốn đầu tư khoảng 10 triệu
đồng và 100m2 diện tích đất để làm lán trại.
- Thị trường tiêu thụ nấm trong nước và xuất khẩu ngày càng mở rộng
như EU, Trung Quốc, Nhật Bản,Mỹ…
- Vòng đời của nấm rơm là rất ngắn nhanh thu hoạch, nhanh thu hồi
được vốn do đó có thể lấy ngắn nuôi dài để sản cuất mặt hàng khác và cũng
có thể ngừng sản xuất nếu thị trường nấm rơm biến động đây cũng là lợi
thế của việc sản xuất nấm rơm
- Phát triển nghề sản xuất nấm rơm còn có ý nghĩa góp phần giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. Phần lớn, rơm rạ sau khi thu hoạch lúa ở
một số địa phương đều bị đốt bỏ ngoài đồng ruộng, hoặc ném xuống kênh
rạch, sông ngòi gây tắc nghẽn dòng chảy. Đây là nguồn tài nguyên rất lớn
nhưng chưa được sử dụng, nếu đem trồng nấm, không những tạo ra nguồn
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
22
thực phẩm có giá trị cao mà phế liệu sau khi trồng nấm được chuyển sang

làm phân bón hữu cơ, tạo độ phì nhiêu cho đất.
* Với những tiềm năng phát triển nghề trồng nấm của nước ta là
tương đối thuận tiện cho nghề trồng nấm, để đi đến được những thành công
thì không tránh khỏi những thất bại. Sau đây là những nguyên nhân chưa
thành công của nghề trồng nấm (đối với các tỉnh phía Bắc) là:
- Việc tổ chức sản xuất nấm của các đơn vị chuyên ngành về nấm còn
nhiều yếu kém:
+ Chất lượng giống nấm chưa được đảm bảo từ khâu sản xuất cho
đến quá trình nuôi giống, bảo quản, cách sử dụng. Các loại giống nấm đã
đang được nuôi ở Việt Nam, từ nhiều nguồn giống khác nhau. Một số
giống nhập từ Hà Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Italia, Nhật Bản,… Một số
khác được sưu tầm trong nước, song việc chọn lọc, kiểm tra, để đánh giá
tiềm năng về năng suất và chất lượng của từng loại từ đó để nhân giống đại
trà phục vụ sản xuất hầu như chưa có đơn vị nào đảm trách.
+ Khâu hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng, chế biến nấm muốn đạt đến
chất lượng xuất khẩu, đến từng hộ gia dình không đầu đủ, do thiếu cán bộ
và trình độ kỹ thuật còn non kém. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và làm công
tác kỹ thuật về nấm ăn được đào tạo cơ bản tại các trường đại học, có kinh
nghiệm lâu năm, chuyên tâm với nghề nghiệp còn quá ít.
+ Hợp đồng xuất khẩu nấm thường không đủ về số lượng, chất lượng
thấp dẫn đến mất lòng tin với khách hàng nước ngoài.
- Các thiết bị, công nghệ trồng nấm nhập khẩu từ nước ngoài không
phù hợp với Việt Nam về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội: giá thành sản
xuất 1kg nấm theo công nghệ Đài Loan và Italia cao hơn nhiều so với giá
thành 1kg nấm sản xuất trong dân.
- Thiết bị trồng nấm, chủ yếu là máy băm rơm rạ, hệ thống quạt gió,
hệ thống tưới nước, máy đảo ủ nguyên liệu,…
- Nhà trồng nấm tập trung theo kiểu “trang trại”nhỏ lẻ hộ gia đình
- Công nghệ nuôi trồng và hệ thống thiết bị không đồng bộ thô sơ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K

23
- Công tác nghiên cứu về công nghệ chọn, tạo giống, công nghệ nuôi
trồng các loại nấm ăn đạt năng suất cao, giá thành hạ, công nghệ bảo quản,
chế biến nấm đạt chất lượng ở các trung tâm nghiên cứu và cơ sở sản xuất
chưa được chú trọng.
Công nghệ sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến nấm hiện nay, được
du nhập từ Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và các nước Châu Âu. Trong
quá trình nghiên cứu và triển khai sản xuất có sự thay đổi để phù hợp với
điều kiện tự nhiên, xã hội của Việt Nam, song năng suất thu hoạch còn rất
thấp (đạt 50% so với thế giới)
- Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về giá trị dinh dưỡng và
cách ăn, nấm trên các thông tin đại chúng còn quá ít. Mọi người chưa tiếp
xúc với nấm ăn còn rất nhiều, có người còn chưa được nhìn thấy, có cảm
giác lạ và sợ nấm. Phần lớn nguời dân Việt Nam chỉ biết đến nấm hương,
mộc nhĩ và nấm sò. Để tạo ra thị trường tiêu thụ nội địa được tốt, mọi
người Việt Nam đều biết ăn nấm, xem nấm như là một loại thực phẩm quý
thì công tác tuyên truyền là rất cần thiết. Hiện nay giá bán nấm tươi ngoài
thị trường rất cao (nấm rơm 20.000 - 30.000đồng/1kg) người sản xuất chỉ
bán với giá bằng 30 - 50% giá bán lẻ trên với số lượng lớn là thị trường đã
nhộn nhịp hẳn lên rồi. Nhiều nguời muốn ăn nấm mà không biết mua ở đâu
và ngược lại người trồng ra nấm không biết bán nơi nào.
- Hiện tượng “tranh mua, tranh bán”, đối với các cơ quan chức năng,
làm công tác xuất khẩu nấm đã diễn ra. Số lượng nấm rơm, thời gian qua ở
các tỉnh phía Bắc chưa đáng kể, chủ yếu là tiêu thụ nội địa, một số đơn vị
thu gom xuất khẩu mỗi nơi chào một giá khác nhau. ở các tỉnh miền Nam,
số lượng nấm rơm rất nhiều, các khách hàng nước ngoài khai thác được “
sự cạnh tranh không lành mạnh” này đã ép cấp, ép giá. Nhà nước chưa có
hệ thống tổ chức chỉ đạo tổng thể từ cơ quan nghiên cứu đến các cơ sở sản
xuất, xuất khẩu nấm.
- Nhiề hộ gia đình vẫn chưa thực sự gắn bó tâm huyết với nghề nấm

- Điều kiện thời tiết ở tỉnh phía Bắc không thuận lợi như phía Nam
nên hầu như mỗi mùa lại tr ồng một loại nấm
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
24
2.4. Những nét chính về cơ sở thực tập
Theo hướng phát triển của tỉnh Bắc Giang đến năm 2010 có từ 35
đến 40 xã sản xuất nấm rơm, nấm mỡ thành các vùng tập trung thuộc 5
huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Việt Yên, Lục Nam và Tân Yên, thu hút từ
3000 đến 4000 lao động; có từ 15 đến 20 trang trại nuôi trồng mộc nhĩ, linh
chi với qui mô sản xuất công nghiệp với mỗi trang trại có khoảng 20 đến
30 lao động có chuyên môn; sản lượng nấm tươi các loại đạt từ 5000 đến
6000 tấn và xuất khẩu khoảng 3.000 đến 4.000 tấn.
Năm 2007, các xã đã trồng nấm phấn đấu sản xuất tối thiểu 50 tấn
nguyên liệu (rơm, rạ) làm nấm rơm và 100 tấn nguyên liệu/vụ (mỗi năm 4
vụ) làm nấm mỡ; các xã mới bắt đầu trồng nấm sản xuất tối thiểu 20 tấn
nguyên liệu/vụ làm nấm rơm và 50 tấn nguyên liệu/vụ làm nấm mỡ. Trong
năm sau, mức tăng tương ứng của các xã trên là 50 tấn và 100 tấn nguyên
liệu/ vụ.
Hiện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đã triển
khai các mô hình sản xuất nấm cho hiệu quả kinh tế cao tại 6 xã của huyện
Yên Dũng, 4 huyện còn lại đang xây dựng thí điểm mỗi huyện một mô
hình trước khi triển khai trên diện rộng. Bắc Giang hiện có khoảng 700 gia
đình tham gia trồng các loại nấm ăn như nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ, mộc
nhĩ. Nhiều gia đình đã đầu tư sản xuất với qui mô 20 tấn đến 30 tấn nguyên
liệu/vụ và mức thu nhập bình quân của mỗi gia đình trồng nấm từ 30 triệu
đến 40 triệu đồng/năm.
Chính vì vậy 04- 2007 Trung Tâm Giống nấm Bắc Giang thuộc Sở
Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn tỉnh Bắc Giang , Trung tâm mới
được thành lập nên hiện có gần 15 cán bộ trong đó ( 1 Giám Đốc, 1phó
Giám đốc, 1 thư ký, 1 thủ quỹ, 8 cán bộ,…) cùng với hơn 20 công nhân là

người địa phương chủ yếu là nữ giới.
Với diện tích rất là nhỏ và chỉ có 2 lò hơi (trong đó 1 lò hoạt động) và
1 nhà ươm cùng với 10 nhà treo nấm khoảng 40m
2
trên một nhà,cùng với 1
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Nguyễn Văn Đạt K – 8K
25

×