Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Kỹ thuật nghiệp vụ nhập khẩu tại Công ty Dịch vụ Du lịch và thương mại TST

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.4 KB, 73 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cơ
chế quản lý kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở rộng quan
hệ ngoại thương. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng
trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu là nguồn tăng thu
ngoại tệ, nâng cao khả năng phát triển nền kinh tế. Song nhập khẩu lại là điều
kiện cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu cho phép tận dụng được tiềm năng về khoa
học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết
bị, vật liệu vật tư không ngừng tăng lên . Cùng với tiến trình phát triển của đất
nước, công ty Thương mại du lịch và dịch vụ TST đã không ngừng vươn lên
tự hoàn thiện mình. Hoạt động kinh doanh XNK nói chung và kinh doanh
nhập khẩu máy móc thiết bị, vật liệu vật tư nói riêng đã đạt được những kết
quả bước đầu tương đối khả quan. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ công nhân viên
trong công ty không thoả mãn với những việc đã làm được mà luôn trăn trở
để thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ mà Bộ Thương mại giao phó.
Trong điều kiện bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới có nhiều thay đổi
theo chiều hướng xấu, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu á vẫn còn
dư âm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nước trong khu
vực. Bên cạnh đó chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước cũng còn nhiều
tồn tại như biểu thuế nhập khẩu chưa khoa học, thủ tục hành chính còn nhiều
phiền phức Trước rất nhiều khó khăn như vậy làm thế nào để hoạt động
nhập khẩu của công ty đạt hiệu quả cao? làm thế nào để phát huy thế mạnh
của công ty có uy tín trong và ngoài nước? đó là những câu hỏi đặt ra từ thực
trạng hoạt động nhập khẩu ở công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST.
1
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty em đã tập trung nghiên
cứu thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty và đã chọn đề tài:


"Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST" làm luận văn
tốt nghiệp.
Do tính phức tạp của vấn đề, sự hạn hẹp về thời gian nên bài viết của em
còn nhiều điểm chưa hoàn chỉnh, không thể tránh khỏi những sai sót, em rất
mong sự góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn Bùi Đức Dũng
cùng tập thể cán bộ phòng kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn
của mình.
2
CHƯƠNG I
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ - MỘT HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN
CỦA KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế.
1.1. Khái niệm và vai trò của Thương mại Quốc tế đối với sự phát
triển của mỗi Quốc gia.
Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một
quốc gia với quốc gia khác, là một bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc tế của
một nước với các nước khác trên thế giới.
Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia.
Từ sự khác biệt về tài nguyên, khoáng sản, lực lượng sản xuất, kỹ thuật công
nghệ… đã làm cho chi phí để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác biệt giữa
nước này với nước khác.
Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia.
Thương mại Quốc tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn
đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh
doanh Thương mại Quốc tế.

Thương mại Quốc tế cho phép mua được những hàng hoá và dịch vụ ở
những thị trường có giá rẻ hơn, sau đó bán chúng ở những thị trường có giá
cao. Nhưng điều lý thú hơn cả là không phải lúc nào ta cũng mua được các
sản phẩm có giá rẻ và bán chúng với giá đắt mà cái chính là chúng ta lợi dụng
được lợi thế so sánh, nhờ đó qua trao đổi Quốc tế mà cả hai bên đều có lợi.
Nói đến Thương mại Quốc tế không thể không tìm hiểu về các lý
thuyết kinh tế, đặc biệt là quy luật lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế so sánh
3
nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của phương
thức thương mại. Một quốc gia phải tập trung vào sản xuất và trao đổi sản
phẩm mà ở đó thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn giữa các mức chi phí cá
biệt của Quốc gia đó với mức chi phí trung bình Quốc tế trên thị trường Thế
giới. Do đó có thể thấy cốt lõi của lợi thế so sánh là sự khéo léo lựa chọn, biết
kết hợp giữa ưu thế của một nước với ưu thế của nước khác để đạt được lợi
thế tối đa trên cơ sở một khả năng hạn chế.
Như vậy, một Quốc gia muốn phát triển thì phải bảo đảm hiệu quả tối
đa của việc chuyên môn hoá trên cơ sở lợi thế so sánh. Làm được điều đó thì
bất cứ một quốc gia nào cũng có thể tham gia vào thị trường Thương mại
Quốc tế một cách có lợi nhất.
1.2. Vị trí của công tác nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế đối với
một quốc gia.
Nước ta cũng như nhiều nước khác có khả năng rất lớn về nhiều mặt
như: tài nguyên thiên nhiên, lao động song không chỉ nhằm vào chúng một
cách độc lập mà hy vọng đạt hiệu quả cao. Tức là nói ngắn gọn không thể có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở hoàn toàn tự cấp tự túc.
Để khai thác hiệu quả tiềm năng trên, chúng ta phải có vốn, khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để có những yếu tố này chúng ta có thể sử
dụng nhiều phương pháp mà phương pháp cơ bản nhất là thông qua Thương
mại Quốc tế trong đó chủ yếu và giữ vị trí chủ động là hoạt động nhập khẩu.
Trong điều kiện chúng ta còn tương đối lạc hậu về kinh tế công nghệ kỹ thuật

thấp kém thì việc thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc hiện đại
hoá lực lượng sản xuất không thể ngày một ngày hai mà chỉ có thể tiến hành
từng bước bằng nhập khẩu trong một thời gian dài. Việc thay đổi chiến lược
kinh tế từ "đóng cửa” sang "mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở
sẽ tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm
năng của nước chúng ta trong phân công lao động Quốc tế một cách có lợi
4
nhất. Thương mại Quốc tế chỉ ra cho một nước lợi thế của mình, nên đầu tư
vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất. Nhập khẩu sẽ giúp chúng ta gỡ
những vướng mắc mà những nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó
là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại
thương. Có thể hiểu đó là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục
vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập
khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia
với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều có xu hướng chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền kinh tế Thế
giới thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng.
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức
sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu
mã cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển
vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều
về trình độ phát triển trong xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra
động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên,
tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.

- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế
đóng, chế độ tự cấp, tự túc.
- Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc
quá hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được).
5
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài
nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy
được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
3. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động
của môi trường, điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của
người kinh doanh đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra
đây một vài hình thức nhập khẩu đang được sử dụng tại các doanh nghiệp của
nước ta hiện nay.
3.1. Nhập khẩu trực tiếp:
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và
ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng
phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế.
Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm
quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu
từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch,
đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi
trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ
phần lãi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua
lỗ.
Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập
khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu,
thuế lợi tức.

Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước
ngoài, còn hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập.
6
3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa
một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số
mặt hàng nhập khẩu nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối
tác kinh doanh nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao
dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập
khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ
thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được
quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh
nghiệp Xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn
ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu
thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn
hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt
cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính
doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài
- Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
3.3. Nhập khẩu liên doanh.
Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật
một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng
giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập

7
khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên,
cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu.
Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh thì các doanh
nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh
nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm
của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu
theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn
góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ
được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được
tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên
doanh số đó.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết
phải là doanh nghiệp Nhà nước).
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
4.1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế:
Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu buộc phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. Vì nó thể
hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó
bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên
thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể
các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động của các chính sách, chế
độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi thực hiện, sửa
đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đãi của
một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước
đó mà còn ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xã hội với những nước
8

đó. Đồng thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy
định luật pháp Quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích
chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt
động của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng
như hiệu quả cao trong hoạt động này.
4.2. Tỷ giá hối đoái.
Nhân tố này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn
hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn
trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ khi tỷ giá hối đoái của
đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và
ngược lại.
Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá
hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có
quản lý. Vì vậy khi tiến hành bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập
khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững xem hiện nay quốc gia mà mình
định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc ấn định này sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh hàng nhập
khẩu.
4.3. Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài.
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông
thương giữa hai thị trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu
bên kia là thị trường ngoài nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản
ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị
trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng nào đó
9
trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập khẩu
và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn
các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung

cấp, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu
nhập khẩu để tác dụng đến thị trường nhập khẩu.
4.4. Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp
Thương mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ
đó làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu. Còn nếu như sản xuất kém phát triển
không sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng
nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó nó ảnh hưởng đến hoạt động
nhập khẩu.
Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng
của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn
nhu cầu nhập khẩu đẩy nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt
động bị thu hẹp, mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh,
hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để
bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì
hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và
ngoài nước, sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết
định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các
nền kinh tế. Chính vì vậy, nó tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác
do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một
cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh
10
nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu
của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động,
tinh thần sáng tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách
trong nền kinh tế.

4.5. Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh,
nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới
hình thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào.
Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động
quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính
xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực
hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các
thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho
họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như xã hội và cũng nhiều trường hợp do có
lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp thời tạo
điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh.
4.7. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc:
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động
vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công
việc có thể tiến hành thuận lợi, kịp thời. Còn việc vận chuyển hàng hoá từ
nước này sang nước khác là một công việc hết sức quan trọng trong hoạt động
nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc nghiên cứu và áp dụng những
công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống thông tin và giao
thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính
chất quyết định đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên
cạnh đó cũng còn rất nhiều nhân tố khác. Vì vậy hoạt động nhập khẩu hết sức
11
phức tạp và có mối tác động qua lại tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong
nền kinh tế.
II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
Hoạt động nhập khẩu là một quá trình bao gồm rất nhiều khâu từ khâu
nghiên cứu thị trường đến khâu tiếp nhận và bảo quản hàng hoá. ở mỗi khâu
đều cần phải nghiên cứu thực hiện một cách đầy đủ kỹ lưỡng, đồng thời phải

đặt các khâu trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Có như vậy hoạt động nhập
khẩu mới đạt được hiệu quả cao, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu
tái sản xuất mở rộng trong nước, thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao đồng
thời cũng đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động nhập khẩu rất phức tạp và biến động muôn hình muôn vẻ
nhưng nhìn chung các hoạt động nhập khẩu đều bao gồm các bước sau:
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển
của nền sản xuất hàng hoá.
Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đòi
hỏi cần được tiến hành liên tục thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản
phẩm nhập khẩu, từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như
vậy phải trả lời được những câu hỏi sau:
* Thị trường trong nước cần những mặt hàng gì? Tình hình tiêu thụ
mặt hàng đó ra sao?
Cần phải xác định được nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng
một cách cụ thể về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, số lượng
để nhập khẩu hàng hoá về thoả mãn đúng, đủ, kịp thời những nhu cầu đó.
12
* Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Tình hình sản
xuất mặt hàng đó ở trong nước như thế nào?
Mỗi sản phầm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của
mỗi sản phẩm bao gồm các pha: pha giới thiệu, pha phát triển, pha hưng
thịnh, pha bão hoà, pha suy thoái, ở mỗi pha chu kỳ sống, nhu cầu của người
tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra thành hành động mua
cũng cũng rất khác nhau. Do vậy để kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao
cần thiết phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm và nắm bắt được sản

phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống.
Bên cạnh nghiên cứu nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu, cần phải nghiên
cứu để biết được cung trong nước về hàng hoá đó. Chênh lệch nhu cầu về
hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá
nhập khẩu. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến cung của một hàng hoá
là khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó. Do vậy,
muốn biết được nên kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gì với số lượng là bao
nhiêu cần phải nghiên cứu tình hình trong nước về sản xuất mặt hàng đó như
thế nào.
1.2. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế.
Một trong những yếu tố quan trọng của thị trường là cung về hàng hoá.
Kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là
một yếu tố khách quan.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế bao gồm việc nghiên cứu toàn
bộ quá trình tái sản xuất trên phạm vi quốc tế. Tức là việc nghiên cứu không
chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu thông mà còn nghiên cứu cả trong lĩnh vực sản
xuất và phân phối hàng hoá.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật hoạt động
của chúng- thể hiện qua nhu cầu, cung ứng, và giá cả - liên hệ với điều kiện
13
của doanh nghiệp và nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu ở trong nước để quyết
định kinh doanh mặt hàng gì và lựa chọn đối tác kinh doanh thích hợp.
1.3. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến
dung lượng thị trường hàng hoá.
Có thể hiểu dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng
hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc
gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kỳ nhất định thường là
một năm.
Dung lượng thị trường không phải là yếu tố tĩnh mà thường xuyên biến
động do nó chịu sự tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên

cứu dung lượng thị trường nhằm mục đích xác định được vị trí của doanh
nghiệp trên thương trường. Còn việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung
lượng thị trường để có thể dự đoán được sự biến động của nó trên cơ sở đó vạch
ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tập trung
vào những nhân tố chủ yếu sau:
* Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: bao
gồm: sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của
sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá.
- Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan
trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nắm vững ảnh hưởng
của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa
quan trọng trong việc vận dụng các kết quả nghiên cứu thị trường và giá cả để
chọn thời gian giao dịch thích hợp nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
- Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên
cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Một số hàng hoá chịu ảnh hưởng
của các yếu tố mang tính chất thời vụ do đó việc sản xuất, lưu thông, tiêu
dùng những hàng hoá này cũng rất khác nhau nên sự tác động của nhân tố
14
thời vụ đến dung lượng thị trường của những hàng hoá khác nhau cũng rất
khác nhau. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm của mặt
hàng kinh doanh và tính chất thời vụ của nó để ra các quyết định đúng đắn về
hành động mua, vận chuyển và phân phối hàng hoá đó trong nước.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài.
Có những nhân tố không làm thay đổi dung lượng thị trường hàng hoá
một cách nhanh chóng mà ta có thể dễ dàng nhận biết ngay được. Những
nhân tố này có thể gây những biến động rất lớn về dung lượng thị trường
nhưng phải trải qua một quá trình chứ không phải trong một thời gian ngắn.
Có thể đến các nhân tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính
sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán

người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời:
Các nhân tố có thể kể đến là: các yếu tố tự nhiên, thiên tai, bão lụt, hạn
hán gây ra sự biến đổi cung cầu của một số mặt hàng nhất định. Cần phải
nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó được với các tình huống bất ngờ
xảy ra.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới.
Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết
cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả
Thương mại Quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và
giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
* Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng
đến xu hướng ấy.
Tuỳ theo mục đích mà dự báo xu hướng biến động của giá cả trong thời
gian ngắn và dài. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được
15
sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm. Dự báo trong thời gian
ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại.
* Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá.
Các nhân tố tác động lâu dài:
- Nhân tố chu kỳ: sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu
về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường
thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu.
- Nhân tố lũng đoạn và giá cả: lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá
khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu
vực thị trường tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán.
- Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo
những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xảy ra khi trên

thị trường có xu hướng cung lớn hơn cầu khiến cho giá có xu hướng giảm
xuống. Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có
xu hướng lớn hơn cung làm cho giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên.
Đây cũng chính là mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả.
- Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những được quyết định bởi
giá trị của nó, mà còn được quyết định bởi giá trị của một đơn vị tiền tệ hiện
hành.
Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường là sự biểu hiện giá trị
của nó thông qua những đồng tiền mạnh (như Đôla Mỹ, Demac Đức, Bảng
Anh ). Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường, bản thân giá trị của đồng tiền
cũng có thể bị thay đổi. Lạm phát và giảm phát làm cho giá cả của hàng hoá
tăng lên hay giảm xuống một cách bất thường.
* Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch.
16
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự
đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác
định được mức giá cho từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập.
Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các
trung tâm giao dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới
về hàng hoá đó. Đồng thời cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ
khu vực thị trường các nước bạn hàng đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý
tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định giá cho chính xác.
Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào
hàng của các đơn vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính
đến các thay đổi của sản phẩm và các yếu tố có liên quan để đưa ra một mức
giá nhập khẩu hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
2. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu.
2.1. Lựa chọn đối tượng giao dịch
Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề lựa chọn đối tượng để
giao dịch và lựa chọn thương nhân. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá

nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chúng ta cần nghiên
cứu tình hình chung của nước đó như khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu
của họ, chính sách, luật pháp, tập quán thương mại Khi lựa chọn thương
nhân để giao dich, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn người
sản xuất để nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi muốn thâm nhập vào thị
trường mới, mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại
lý môi giới lại có ý nghĩa quan trọng. Để lựa chọn được chính xác và đúng
đắn, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần phải
tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính,
quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, uy tín và mối quan hệ của họ
trong kinh doanh.
17
Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương
pháp chủ yếu sau:
- Điều tra qua tài liệu và sách báo hay còn gọi là điều tra tại phòng làm
việc. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương đối tốn kém. Tài liệu
thường dùng để nghiên cứu là các bản tin giá cả thị trường của VNTTX và
của trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo cáo của cơ quan thường vụ
Việt Nam ở nước ngoài, các báo tạp chí như: MOCI (Pháp), Far Eastern
Economic Review (Anh), Financial Time (Anh)
- Điều tra tại chỗ (Fiel reseach) theo phương pháp này người ta cử
người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân.
Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm
được những thông tin chắc chắn và toàn diện.
Ngoài hai phương pháp trên đây, người ta còn có thể sử dụng các
phương pháp sau: mua, bán thư, mua dịch vụ thông tin của các công ty điều
tra tín dụng, thông qua người thứ ba để tìm hiểu
2.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
a. Thương lượng, đàm phán hợp đồng nhập khẩu.
Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lựa chọn đối tượng giao

dịch, các doanh nghiệp tiến hành xúc tiến việc chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập
khẩu. Nhưng để tiến tới ký hợp đồng mua bán với nhau, người nhập khẩu
thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều
kiện giao dịch, công việc này trong hoạt động ngoại thương gọi là đàm phán
có thể đàm phán giao dịch qua thư tín, điện thoại nhưng đối với những hợp
đồng lớn, phức tạp, cần giải thích thoả thuận cụ thể với nhau thì nên giao dịch
đàm phán với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán theo phương pháp
này tuy chi phí cao nhưng đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng.
Trình tự đàm phán như sau:
18
- Hỏi giá: do bên mua (bên nhập khẩu) đưa ra, tức là phải nêu rõ tên
hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh
toán (loại tiền thanh toán, thể thức thanh toán ). Về phương diện pháp lý thì
đây là lời thỉnh cầu trước khi bước vào giao dịch, về phương diện thương mại
thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả hàng hoá và các
điều kiện mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá.
- Phát giá: luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Phát giá có
thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán ngoại
thương, phát giá là chào hàng thường do người xuất khẩu thể hiện ý định bán
hàng của mình bằng cách nêu rõ các điều kiện đã nêu trong hỏi giá (chú ý có
thêm điều kiện giao hàng).
- Hoàn giá: bên mua không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa
ra đề nghị mới.
- Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng.
- Xác nhận: hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất với nhau về điều kiện
giao dịch có thể lập hai văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho nhau.
Trong các bước giao dịch đàm phán trên thì chào hàng và đặt hàng là
hai khâu được quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến ký kết hợp đồng
nhập khẩu. Việc giao dịch, đàm phán sau khi đã có kết quả sẽ dẫn đến ký kết
hợp đồng nhập khẩu.

b. Hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng kinh tế ngoại thương, trong đó
có sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhau về chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá, nghĩa vụ thanh toán, trả tiền nhận hàng.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương của nước ta bắt buộc phải thể hiện dưới
hình thức văn bản. Bởi đây là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi
của hai bên, nó xác định rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và
19
bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện.
Hợp đồng nhập khẩu có các điều khoản chủ yếu như sau:
+ Phần mở đầu: Ghi thông tin về số hợp đồng, ngày và nơi ký hợp
đồng, về chủ thể hợp đồng (tên giao dịch Quốc tế, địa chỉ, số điện thoại )
+ Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải ghi rõ, chính xác để không xảy
ra hiểu lầm, có thể ghi rõ địa danh sản xuất (xuất xứ hàng hoá), nhà sản xuất,
quy cách, tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học (nếu có)
+ Điều khoản số lượng: Ghi rõ số lượng, khối lượng, trọng lượng, quy
cách, đơn vị đo lường Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải dự liệu
theo một sai số có thể chấp nhận được. Trọng lượng hàng hoá có thể tính cả
trọng lượng bì hoặc không (phải ghi rõ). Cũng có thể tính trọng lượng hàng
hoá theo trọng lượng thương mại tức là có độ ẩm tiêu chuẩn.
+ Điều khoản phẩm chất: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn quy định
phẩm chất của hàng hoá, tính năng cơ, lý, hoá, công suất, hiệu suất (máy
móc), thẩm mỹ để phân biệt hàng hoá này với hàng hoá khác. Cũng có thể
căn cứ vào mẫu mã hàng hoá và các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá hay
căn cứ vào một tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán Thương mại Quốc tế.
+ Điều khoản bao bì: Điều quan trọng nhất trong kinh doanh Thương
mại Quốc tế là phải bảo đảm hàng hoá có bao bì phù hợp tính năng, hình dáng
kích thước của hàng hoá và phương thức vận tải.
Còn về phương thức xác định giá cả của bao bì: nếu bên bán chịu trách

nhiệm cung cấp bao bì, thì việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp:
giá cả bao bì được tính vào giá cả hàng hoá (không tính riêng), giá cả của bao bì
do bên mua trả riêng, và giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hoá.
+ Điều khoản cơ sở giao hàng: Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp tham
gia hoạt động kinh doanh XNK đều có thể áp dụng một trong 13 điều khoản
cơ sở giao hàng Incoterm 2000
20
+ Điều khoản giá cả: bao gồm đồng tiền tính giá và mức giá. Đồng tiền
tính giá có thể dùng tiền của nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc của nước thứ
ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá tức
mức giá Quốc tế mà các bên phải tuân theo. Phương pháp quy định giá có thể
theo các loại sau:
Giá cố định: tức là giá được quy định khi ký kết hợp đồng mà không
sửa đổi.
Giá quy định: được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Giá linh hoạt: là giá có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện
hợp đồng.
Giá di động: người ta quy định mức giá ban đầu, sau đó tính toán lại
trong khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá ban đầu.
Nhưng trong việc xác định giá cả, thông dụng hơn cả người ta luôn
luôn định rõ điều kiện cơ sở giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy
là vì điều kiện giao hàng đã bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người
bán phải chiụ trong việc mua hàng như: vận chuyển, bốc dỡ, mua bảo hiểm,
chi phí lưu kho, làm thủ tục hải quan Vì vậy trong các hợp đồng mua bán,
mức giá bao giờ cũng được xác định căn cứ và điều kiện cơ sở giao hàng và
điều kiện cơ sở giao hàng ấy thường được ghi bên cạnh rõ ràng.
+ Điều khoản giao hàng: nội dung của điều khoản này xác định thời
hạn, địa điểm, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao
hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các
bên không có thoả thuận gì khác thì thời hạn này là lúc di chuyển rủi ro, tổn

thất từ người bán sang người mua. Giao hàng không đúng hạn có thể thiệt hại
và phải bồi thường. Có ba kiểu quy định giao hàng: giao hàng có định kỳ,
giao hàng không có định kỳ và giao hàng ngay.
21
Phương thức giao hàng: có thể quy định tiến hành tại một địa điểm nào
đó, có thể giao sơ bộ, giao cuối cùng hoặc có thể giao nhận về số lượng, chất
lượng
Thông báo giao hàng: các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm
nghĩa vụ thông báo giao hàng. Tức là quy định nội dung và số lần thông báo
khi người bán giao hàng xong.
+ Điều khoản thanh toán trả tiền: trong việc thanh toán trả tiền hàng,
các bên thường phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn
trả tiển, phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái.
Đồng tiền thanh toán: giống như các điều khoản trên quy định trong
Thương mại Quốc tế, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do
chuyển đổi được.
Thời hạn thanh toán: trong Thương mại Quốc tế, bên nhập khẩu có thể
trả tiền trước, trả tiền sau hoặc trả tiền ngay.
Phương thức thanh toán: trong giao dịch Quốc tế, phương thức thanh
toán phổ biến nhất là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi và an toàn nhất. Nó là
sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua trả tiền
cho bên bán hoặc bất cứ người nào theo lệnh của bên bán trong một thời hạn
nhất định khi bên bán xuất trình bộ chứng từ đầy đủ và đã thực hiện mọi yêu
cầu được quy định trong một văn bản được gọi là thư tín dụng (letter of credit
L/C). Có hai loại thư tín dung: thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C)
và thư tín dụng không thể huỷ ngang (ỉnevocable L/C).
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại L/C do ngân hàng mở (ngân hàng
phát hành L/C) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào không cần báo trước
cho người hưởng lợi (bên bán). Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại L/C

mà trong thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ
22
hoặc sửa đổi nội dung, đó là cam kết chắc chắn đối với người bán trong thanh
toán tiền hàng, đồng thời bảo đảm hàng hoá cho người mua.
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán khi
giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền. Có
hai loại phiếu nhờ thu được sử dụng đó là: nhờ thu không kèm chứng từ và
nhờ thu kèm chứng từ. Loại phiếu nhờ thu không kèm chứng từ là phương
thức trả tiền nhờ thu phiếu trơn (clean collection). Theo phương thức này,
ngân hàng không nắm được chứng từ, người mua có thể dùng bộ chứng từ
nhận được từ nước ngoài để đi nhận hàng mà không cần qua ngân hàng xong
vẫn trì hoãn được việc trả tiền. Loại phiếu nhờ thu kèm chứng từ là phương
thức trả tiền phải kèm chừng (documentary collection). Theo phương thức
này, ngân hàng khống chế bộ chứng từ, người mua muốn có chứng từ để nhận
hàng thì phải trả tiền và chấp nhận trả tiền.
+ Điều khoản bảo đảm hối đoái: vì đồng tiền trên thế giới luôn bị lạm
phát, mất giá hay bị thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy các bên
có thể thoả thuận quy định những điều kiện bảo đảm tỷ giá hối đoái. Có thể
dùng vàng hoặc đồng tiền mạnh, ổn định.
+ Điểu khoản bảo hành: là sự bảo đảm của người bán về chất lượng
hàng hoá trong thời gian nhất định được gọi là thời hạn bảo hành. Người ta
thường thoả thuận về phạm vi đảm bảo của người bán, thời hạn bảo hành và
trách nhiệm của người bán trong thời hạn bảo hành.
+ Điều kiện bất khả kháng: trong trường hợp nếu có rủi ro xảy ra, bên
đương sự được hoàn toàn và trong một chừng mực nào đó được miễn trách
nhiệm nếu rủi ro đó có tính chất khách quan mà không thể khắc phụ được.
Trách nhiệm của bên gặp rủi ro là phải lập tức thông báo cho bên kia bằng
văn bản. Người ta thường thoả thuận chỉ định một tổ chức chứng nhận sự việc
xảy ra, thường là phòng thương mại.
3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.

23
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký hợp đồng phải tổ chức hợp
đồng đó. Đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ
luật pháp Quốc gia, Quốc tế, đảm bảo uy tín của cả hai bên. Về mặt kinh
doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, đơn vị kinh doanh phải
cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của
các nghiệp vụ giao dịch.
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến
hành các khâu công việc sau:
3.1. Xin giấy phép nhập khẩu:
Hiện nay, việc xin giấy phép nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh
doanh XNK ở Việt Nam vẫn được áp dụng trong trường hợp:
- Nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp
phải xin giấy phép XNK của Bộ Thương mại.
- Nếu là hàng hoá không thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh
nghiệp không cần phải xin giấy phép.
3.2. Mở L/C.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán bằng L/C thì bên mua
phải lập L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ
thuộc vào thời gian giao hàng, thông thường thì L/C được mở khoảng 20-25
ngày trước thời hạn giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản trong hợp
đồng nhập khẩu. Người nhập khẩu phải căn cứ vào đó để điền vào mẫu xin
mở L/C gọi là giấy mở tín dụng khoản nhập khẩu.
3.3. Thuê tàu lưu cước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng
được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: những điều khoản của hợp đồng mua
bán, đặc điểm của hàng hoá nhập khẩu và điều kiện vận tải. Chủ hợp đồng
24
phải chú ý tới từng loại hàng hoá để thuê phương tiện vận tải cho phù hợp.

Hàng hoá có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, hàng hoá có khối lượng nhỏ
thì thuê tàu chậm, hàng lỏng thì thuê Tanker, hàng tươi sống thuê phương tiện
vận tải có thiết bị làm lạnh Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm
nghiệp vụ, có thông tin về thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê
tàu. Vì vậy thông thường, chủ hàng thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước
cho một công ty vận tải chuyên nghiệp. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ
giữa hai bên nhận uỷ thác thuê tàu và uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác.
Có hai loại hợp đồng uỷ thác:
- Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm.
- Hợp đồng uỷ thác chuyến.
Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển của hàng
hoá để lựa chọn loại hình hợp đồng uỷ thác cho thích hợp.
3.4. Mua bảo hiểm.
Hàng hoá chuyên chở trên đường thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất vì
thế chủ hàng nhập khẩu thường mua bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm có uy
tín. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm hoặc là bảo hiểm
chuyến. Để ký hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững những điều kiện bảo hiểm:
- Bảo hiểm mọi rủi ro.
- Bảo hiểm có tổn thất riêng.
- Bảo hiểm miễn tổn thất riêng.
Ngoài ra có một số loại bảo hiểm phụ: vỡ, rò, rỉ, mất trộm, ôxi hoá và
bảo hiểm đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo động, dân biến
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ:
- Điều khoản hợp đồng.
- Tính chất hàng hoá.
- Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
25

×