BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
GIỚI THIỆU ĐỀ ÁN PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT"
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2011-2015
(Lưu hành nội bộ)
Hà Nội, năm 2012
Mục lục
GIỚI THIỆU ĐỀ ÁN PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT"...........................................1
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2011-2015..............................................................1
I. Giới thiệu về phương pháp "Bàn tay nặn bột".........................................................................1
Bối cảnh ra đời của phương pháp "Bàn tay nặn bột"............................................................1
Đặc trưng của phương pháp "Bàn tay nặn bột".....................................................................1
Ưu điểm của dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".................................................5
Thuận lợi và khó khăn khi triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở Việt
Nam.........................................................................................................................................6
II. Giới thiệu Đề án triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở trường phổ thông giai đoạn
2011-2015 ..................................................................................................................................8
Tình hình triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột” ở Việt Nam đến năm 2011................8
Mục tiêu của Đề án triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở trường phổ thông giai
đoạn 2011-2015.......................................................................................................................8
Các hoạt động của đề án.......................................................................................................9
Đối tượng thụ hưởng...........................................................................................................11
Dự kiến tiến độ thực hiện các hoạt động của Đề án............................................................11
Xây dựng Đề án; phê duyệt Đề án, thành lập Ban chỉ đạo Đề án;......................................11
Tập huấn giảng viên nòng cốt cấp Bộ.................................................................................12
Biên soạn tài liệu, dịch tư liệu, in, phát hành;.....................................................................12
Tập huấn giáo viên (thí điểm);............................................................................................12
Vận dụng thí điểm vào dạy học..........................................................................................12
Xây dựng và vận hành website về phương pháp "Bàn tay nặn bột"...................................12
Hội thảo trao đổi kinh nghiệm triển khai............................................................................12
Sơ kết hoạt động Đề án.......................................................................................................12
Xây dựng băng đĩa hình và hồn thiện tài liệu....................................................................12
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ.................................................................................................12
Tổ chức thực hiện và nguồn kinh phí..................................................................................12
III. Trách nhiệm của các địa phương tham gia Đề án...............................................................13
Trách nhiệm của Sở GDĐT................................................................................................13
Trách nhiệm của phòng GDĐT...........................................................................................14
Trách nhiệm của nhà trường, giáo viên, học sinh...............................................................15
Tổ chức kiểm tra, đánh giá..................................................................................................17
Trách nhiệm của cơ sở đào tạo giáo viên............................................................................18
IV. Giới thiệu tài liệu tham khảo..............................................................................................18
I. Giới thiệu về phương pháp "Bàn tay nặn bột"
"Bàn tay nặn bột", tiếng pháp là "La main à la pâte " (LAMAP), là một phương pháp dạy
học tích cực, do giáo sư Georges Charpak (đoạt giải Nobel về vật lý năm 1992), viện hàn lâm
khoa học Pháp, sáng tạo và phát triển từ năm 1995.
Bối cảnh ra đời của phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Trước năm 1995, tại Pháp, giáo dục ở cấp tiểu học có một số hạn chế :
•
chỉ chú trọng vào đọc, viết và tính tốn
•
rất ít nội dung về khoa học tự nhiên (ít hơn 3%)
•
khơng có thực nghiệm
•
khoảng 40% học sinh tốt nghiệp tiểu học khơng đủ kĩ năng ngơn ngữ (nói, viết, lập luận)
để học ở cấp trung học cơ sở.
Người Pháp nhận thấy rằng cần tăng cường dạy học khoa học, công nghệ ở tiểu học và cần
tìm kiếm phương pháp dạy học để học sinh có thể làm chủ được kĩ năng về ngôn ngữ khi tốt
nghiệp tiểu học.
Cùng thời điểm đó, phương pháp "Hands-on" gặt hái thành cơng ở Mĩ với khả năng suy
luận, kĩ năng ngôn ngữ (diễn đạt) và hợp tác làm việc nhóm ở học sinh tiểu học.
Trong bối cảnh đó, sau khi chứng kiến sự thành công của phương pháp "Hands-on" tại Mĩ,
năm 1995, giáo sư Georges Charpak đã cùng đồng nghiệp tại viện hàn lâm khoa học Pháp sáng
tạo ra phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Đặc trưng của phương pháp "Bàn tay nặn bột"
1.1. Đặc trưng cơ bản của phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Nguyên lý căn bản của phương pháp "Bàn tay nặn bột" là dạy học cho học sinh dựa trên
hoạt động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá thực tiễn. Trong phương pháp này, dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, chính học sinh khám phá thực tiễn, tiến hành thực hành thí nghiệm, thực hành
quan sát để rút ra kiến thức và hình thành kĩ năng theo yêu cầu (tiếng Anh là "Learning by
doing", có thể dịch là "học qua làm").
Sau đây là một số đặc trưng cơ bản của phương pháp "Bàn tay nặn bột":
a) học sinh quan sát một sự vật, một hiện tượng của thế giới thực tiễn, gần gũi, dễ cảm nhận
với học sinh và các em sẽ thực hành thí nghiệm, thực hành quan sát trên những cái đó;
b) học sinh là người chủ của q trình học tập của mình; chính học sinh là người thực hiện thí
nghiệm, thực hành..., khơng được làm sẵn cho các em; trong quá trình tìm hiểu, học sinh
lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận
cá nhân, từ đó có những hiểu biết và hình thành kĩ năng;
c) giáo viên giúp học sinh tự xây dựng, tự kiến tạo kiến thức của chính các em; những hoạt
động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm với mức độ
học tập nâng cao dần; trong đó, học sinh chiếm lĩnh dần các khái niệm khoa học, kĩ thuật,
củng cố ngôn ngữ viết và nói thơng qua thực hành (khơng học thuộc lịng);
d) khuyến khích sự tham gia của lực lượng giáo dục ngồi nhà trường (gia đình, cộng đồng,
cơ sở khoa học, trường sư phạm, nhà khoa học, chuyên gia...) vào thực hiện các công việc
1
của lớp học như hỗ trợ kiến thức khoa học, thí nghiệm, phương pháp sư phạm, kinh
nghiệm dạy học, quản lý hoạt động dạy học;
e) hoạt động dạy học theo phương pháp này thường được thực hiện theo chủ đề, có thể trong
nhiều tuần liên tục, với thời lượng từ 2 giờ/tuần trở lên.
1.2. Ví dụ về dạy học sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Để rõ hơn đặc trưng của phương pháp "Bàn tay nặn bột", chúng ta hãy xem xét ví dụ cụ thể
về một tiết học và một chủ đề dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Ví dụ về tiết dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Trong giờ dạy về cấu tạo của một bông hoa ở trường trung học cơ sở, thay vì thơng báo
cho học sinh các thành phần và tên gọi của từng thành phần của một bông hoa theo phương pháp
thuyết giảng truyền thống, giáo viên chia học sinh thành nhóm nhỏ (4 hoặc 5 học sinh/nhóm) để
học sinh thực hành trên hoa bưởi theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Trong giờ học theo
phương pháp "Bàn tay nặn bột" này, học sinh tiến hành các hoạt động sau :
•
hoạt động 1: bóc tách một bơng hoa
Nhóm học sinh tiến hành bóc tách bơng hoa
Ở hoạt động này học sinh sử dụng các dụng cụ đơn giản như dao, kéo, kẹp nhíp để tách các
thành phần của bơng hoa bưởi. Dụng cụ thí nghiệm, thực hành đơn giản, rẻ tiền, dễ tìm kiếm là
một trong những đặc trưng của phương pháp "bàn tay nặn bột".
•
hoạt động 2: phân loại các thành phần của bơng hoa
Nhóm học sinh tiến hành thảo luận để phân loại các thành phần của bông hoa
2
Ở hoạt động 2 này, học sinh thảo luận trong nhóm để phân loại các thành phần của bơng
hoa đã được tách ra ở bước 1. Lưu ý rằng, phân loại là một công việc thường làm trong nghiên
cứu khoa học.
•
hoạt động 3: gọi tên các thành phần của bơng hoa
Nhóm học sinh thảo luận để gọi tên các thành phần của bông hoa
Trong hoạt động 3 này, học sinh thảo luận trong nhóm để gọi tên cho các thành phần của
bông hoa. Hoạt động này minh họa một trong những mục tiêu của phương pháp là phát triển
ngôn ngữ, từ vựng cho học sinh.
•
hoạt động 4: thảo luận giữa các nhóm
Giáo viên theo dõi q trình thực hành của các nhóm học sinh, tổ chức so sánh, thảo luận giữa các nhóm để thống
nhất thành phần và tên gọi của các thành phần của bông hoa
Ở hoạt động này, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các nhóm học sinh so sánh kết quả
phân loại thành phần và gọi tên các thành phần. Học sinh phải lập luận để bảo vệ quan điểm
trước các nhóm khác. Giáo viên đóng vai như "trọng tài" cho cuộc thảo luận và chuẩn hóa việc
phân loại, gọi tên của các em. Ví dụ này minh họa nguyên lí của phương pháp "bàn tay nặn bột"
là học sinh tự tìm tịi, nghiên cứu để có được những kiến thức, kĩ năng và giáo viên chỉ đóng vai
trị hướng dẫn và điều chỉnh khi cần thiết.
•
hoạt động 4: vẽ hay cắt dán một bơng hoa
3
Học sinh làm việc cá nhân để vẽ hay cắt dán một bông hoa
Hoạt động này là một phần nội dung của môn học Công nghệ. Học sinh vẽ hay cắt dán một
bông hoa trên cơ sở những thành phần có thể nhìn thấy được hiển thị trên màn hình máy tính.
Điều này minh họa rằng dạy học theo phương pháp "bàn tay nặn bột" thường được thực hiện
theo chủ đề tích hợp nhiều mơn học.
Ví dụ về chủ đề dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Nội dung về thành phần và tên gọi ở ví dụ trên là một phần nội dung của một chủ đề tích
hợp để dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" của trường trung học cơ sở. Để xây dựng chủ đề
tích hợp này, 3 giáo viên của 3 môn học vật lý, công nghệ và môn sinh học đã cùng nhau xây
dựng một dự án, giáo án chung cho cả năm học về chủ đề về Gỗ. Nội dung của chủ đề này liên
quan đồng thời đến 3 mơn học:
•
Nghề mộc, làm đồ gỗ (mơn cơng nghệ)
•
Rừng, q trình sinh trưởng từ hạt đến cây (mơn sinh học)
•
Đồ gỗ di chuyển được (đồ chơi ôtô, máy bay bằng gỗ, môn vật lý)
Như vậy, không phải tất cả các nội dung của 3 môn học này đều dạy theo phương pháp
"Bàn tay nặn bột". Nói cách khác, 3 mơn học này vẫn độc lập, chỉ có một số nội dung được tích
hợp và dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".
1.3. So sánh với một số phương pháp dạy học khác
Giống với một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực như dạy học giải quyết vấn đề,
dạy học theo dự án, dạy học theo góc..., phương pháp "Bàn tay nặn bột" được xây dựng trên tinh
thần dạy học giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo thông qua việc tổ chức cho học sinh hoạt động
tự chủ chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Học qua trải nghiệm, học sinh là trung tâm,
học sinh chủ động trong q trình "tìm ra"
kiến thức cho chính mình dưới sự giúp đỡ của
giáo viên
Một số phương pháp dạy học khác
Phương pháp thuyết giảng truyền thống có xu
hướng lấy hoạt động dạy của giáo viên là
trung tâm, truyền đạt thông tin một chiều,
thơng báo kiến thức có sẵn, dễ dẫn đến sự thụ
động của học sinh trong quá trình học tập
Từ thực hành thí nghiệm, thực hành quan sát Nguyên lý dạy học "học đi đơi với hành" có
để đi đến làm chủ kiến thức, kĩ năng
xu hướng đi từ học lý thuyết rồi đến thực
hành thí nghiệm, quan sát để kiểm nghiệm lí
thuyết.
Giáo viên là người xây dựng dự án học tập Phương pháp "dạy học theo dự án", học sinh
4
cho học sinh và hướng dẫn học sinh thực thi
từng bước theo tiến trình sư phạm. Các hoạt
động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ
chức theo các giờ học, gắn với chương trình
và dưới sự giám sát của giáo viên. Phương
pháp "Bàn tay nặn bột" khai thác, phát huy
tính tị mị, thích khám phá, ham hiểu biết của
học sinh ở lứa tuổi nhỏ.
là người xây dựng dự án học tập và thực hiện
dự án. Phương pháp này đòi hỏi tính chủ
động, sáng tạo nhiều hơn của học sinh trong
việc lập và thực hiện kế hoạch học tập. Học
sinh tự tiến hành một số hoạt động học tập
ngoài giờ học chính khóa. Phương pháp này
được tích hợp trong Chương trình dạy học
của Intel - Intel Teach đang được triển khai ở
nhiều trường phổ thông của Việt Nam.
Phương pháp này thường phù hợp hơn với
học sinh trung học phổ thông. Một ví dụ cho
phương pháp này là hoạt động nghiên cứu
khoa học của học sinh trung học phổ thông
mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo
trong vài năm qua.
So sánh phương pháp "Bàn tay nặn bột" với thuyết giảng, "học đi đôi với hành", "dạy học theo dự án"
1.4. Những môn học và nội dung dạy học phù hợp cho việc triển khai phương pháp "Bàn
tay nặn bột"
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" được xây dựng, phát triển chủ yếu để dạy khoa học tự
nhiên và công nghệ với các chủ đề gắn liền với thực tiễn đời sống của học sinh.
Ở Pháp, ban đầu phương pháp "Bàn tay nặn bột" được sáng tạo nhằm dạy học khoa học tự
nhiên (vậy lý) ở cấp tiểu học. Phương pháp này khai thác tính tị mị tự nhiên; khả năng học tập
rất lớn của học sinh ở lứa tuổi nhỏ nhằm mục đích phát triển suy luận, lập luận cho học sinh và
cho học sinh tiếp xúc với thế giới thực tế.
Ngày nay, phương pháp này đã được áp dụng cả ở mẫu giáo và mở rộng ở lớp 6, lớp 7 để
dạy học các môn khoa học tự nhiên và công nghệ.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" phù hợp với các mơn khoa học tự nhiên, cơng nghệ có nội
dung dạy học gắn liền với đời sống thực tiễn mà học sinh dễ cảm nhận và đã có ít nhiều những
khái niệm ban đầu. Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các nội dung dạy học có liên quan đến
nhau và có thể tổ chức, hệ thống thành một chủ đề với kiến thức, kĩ năng từ thấp đến cao trong
phạm vi nội dung dạy học của một kì học, một năm học (hoặc cả cấp học); các thí nghiệm phục
vụ dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" cần đơn giản, các dụng cụ thực hành, thí nghiệm
gần gũi, an tồn với học sinh và có thể tự làm, tự tìm kiếm hay có sẵn ở phịng thí nghiệm, thực
hành của nhà trường.
Ưu điểm của dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
a) Học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", kiến thức học sinh tiếp thu được luôn gắn liền
với thực tiễn.
b) Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" phát huy khả năng sáng tạo của học sinh; rèn
luyện tác phong làm việc, nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khoa học; phát huy tính độc
lập, tự chủ, tự giác của học sinh trong học tập.
c) Tiến trình dạy học của phương pháp "Bàn tay nặn bột" phát triển đồng thời khả năng thực
nghiệm, quan sát, suy luận, lập luận và kiến thức khoa học ở học sinh.
d) Hoạt động học tập thep phương pháp "Bàn tay nặn bột" tạo ra không khí năng động trong
lớp học; trong học sinh ln có câu hỏi thường trực để tìm tịi, khám phá; học sinh ln tìm
kiếm sự logic, lời giải thích.
5
e) Tham gia hoạt động dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn giúp các em vượt
qua được sự nhút nhát, bị động; các em tự tin vào bản thân, tự tin khi nói trước cơng
chúng, năng động trong công việc...
f) Học sinh học được cách lắng nghe, cách phê bình, cách thơng cảm, giúp đỡ người khác và
tôn trọng quy tắc chung.
g) Dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức
một cách chủ động mà cịn giúp hình thành nhân cách cho trẻ em.
Thuận lợi và khó khăn khi triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở
Việt Nam
1.5. Thuận lợi
a) Phương pháp "Bàn tay nặn bột" đã được Bộ GDĐT quyết định đầu tư nghiên cứu, biên
soạn tài liệu, tổ chức tập huấn để triển khai áp dụng trong trường tiểu học và trung học cơ
sở.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" được triển khai nằm trong chủ trương chung của Bộ
GDĐT về việc tăng cường sử dụng phương pháp dạy học tích cực để học sinh tích cực, chủ động
tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và rèn luyện năng lực tự học.
Đặc biệt, phương pháp "Bàn tay nặn bột" giúp học sinh làm quen với việc nghiên cứu khoa
học. Điều này sẽ giúp nâng cao số lượng, chất lượng các đề tài khoa học, kĩ thuật của học sinh
tham dự Hội thi học sinh trung học phổ thông nghiên cứu khoa học và kĩ thuật - ViSEF (Viet
Nam Science and Engineering Fair) do Bộ GDĐT tổ chức, triển khai.
Hơn nữa, học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" học sinh được rèn luyện vận dụng, huy
động kiến thức, kĩ năng vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn. Điều này phù hợp với xu
hướng dạy học định hướng phát triển năng lực của học sinh. Do vậy, triển khai phương pháp
"Bàn tay nặn bột" góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học, cách tổ
chức dạy học cho việc đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa sau năm 2015.
b) Việc triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" được sự giúp đỡ nhiệt tình, hiệu
quả của Hội Gặp gỡ Việt Nam và một số tổ chức quốc tế khác.
c) Tiến trình của phương pháp "Bàn tay nặn bột" rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng.
d) Phương pháp "Bàn tay nặn bột" được tổ chức nghiên cứu, thử nghiệm bài bản, khoa học.
e) Tài liệu, tư liệu về phương pháp "Bàn tay nặn bột" phong phú và miễn phí.
f) Phương pháp "Bàn tay nặn bột" tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập. Theo
báo cáo của Pháp, học sinh tiểu học đã học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", khi lên
trung học cơ sở các em đề nghị giáo viên dạy theo phương pháp này.
g) Về cơ bản dụng cụ, nguyên liệu dạy học theo phương pháp này đơn giản, dễ tìm kiếm, dễ
làm, rẻ tiền.
1.6. Khó khăn
Về đội ngũ giáo viên
a) Giáo viên ngại thay đổi vì theo phương pháp này giáo viên tốn nhiều thời gian để xây dựng
dự án dạy học. Khơng ít giáo viên đã làm theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" rồi sau đó
lại quay lại phương pháp truyền thống.
6
b) Khi giáo viên hiểu không đúng tinh thần của phương pháp "Bàn tay nặn bột" sẽ khó khăn
trong việc vận dụng phương pháp hoặc áp dụng phương pháp một cách máy móc, khơng
hiệu quả.
c) Một số giáo viên khơng có kiến thức sâu về khoa học, cơng nghệ (thường gặp ở giáo viên
tiểu học) hoặc chỉ chuyên sâu về một môn học (đối với giáo viên trung học) trong khi chủ
đề dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" lại là liên môn nên đôi khi giáo viên
không thể giải thích thấu đáo, dễ hiểu những câu hỏi ngồi dự kiến do học sinh đặt ra trong
q trình dạy học. Trong một số trường hợp sẽ dẫn đến bế tắc tiến trình sư phạm của
phương pháp. Do vậy, dạy học theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có phương
pháp, cách thức và kinh nghiệm để xử lý, tránh bế tắc khi gặp tình huống sư phạm ngồi
dự kiến. Khó khăn này sẽ giảm dần khi giáo viên ngày càng được thơi thúc và tích lũy
thêm kiến thức, kinh nghiệm thơng qua q trình vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn
bột".
Về sĩ số học sinh, điều kiện phòng học, thiết bị, tư liệu dạy học, sắp xếp thời khóa biểu
d) Sĩ số học sinh phù hợp cho dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" là khoảng 25 học
sinh/lớp. Sĩ số đông (từ 30 học sinh/lớp trở lên) là khó khăn cho việc tổ chức học tập theo
nhóm, hoạt động tham quan, dã ngoại, điều tra thực tế cho học sinh.
e) Trong các lớp học hiện nay, bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, khơng thuận lợi
cho việc tổ chức học theo nhóm. Phần lớn các trường trung học cơ sở chưa có phịng học
bộ mơn và phịng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học; thiếu
thiết bị hỗ trợ trình bày, trình chiếu; tư liệu, tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tịi, nghiên
cứu của học sinh còn hạn chế.
f) Để dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" mỗi tuần cần bố trí tối thiểu 2 tiết học liên
tục/tuần và trong nhiều tuần. Nhà trường sẽ khó khăn hơn trong việc bố trí, sắp xếp thời
khóa biểu. Khó khăn này có thể khắc phục, làm giảm nhẹ theo 2 hướng: trong các bài dạy
giáo viên biết vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở mức độ hợp lí (giống như vận
dụng các mức độ khác nhau của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề) hoặc trong một
năm học giáo viên chỉ dạy 1-2 chuyên đề theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Về cơng tác quản lí, đánh giá
g) Hiện nay, cơng tác đánh giá hoạt động dạy học của giáo viên cịn mang tính hình thức,
chưa thực chất, chưa thực sự khuyến khích được việc đổi mới phương pháp dạy học. Tiêu
chí đánh giá thường tập trung vào việc dạy hết kiến thức của một bài học trong sách giáo
khoa, đảm bảo thời lượng của tiết học, sử dụng phần mềm trình chiếu, giáo viên sử dụng
thành thạo phương tiện dạy học, thực hiện thành cơng thí nghiệm. Theo những tiêu chí này
thì giờ dạy của giáo viên theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" có thể khơng được đánh giá
cao. Đây là một yếu tố cản trở quá trình áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột", cần được
khắc phục, trước hết đối với các cán bộ quản lí, cán bộ thanh tra giáo dục.
h) Nếu khơng có sự quản lí, điều phối hợp lí của nhà trường, sự phối hợp giữa các giáo viên
sẽ dễ dẫn đến sự chồng chéo hoặc gây quá tải đối với học sinh khi các em phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ cùng lúc.
7
II. Giới thiệu Đề án triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở
trường phổ thơng giai đoạn 2011-2015
Tình hình triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột” ở Việt Nam đến năm 2011
Với sự giúp đỡ của Hội gặp gỡ Việt Nam (tiếng Pháp là Recontres du Vietnam), đặc biệt là
giáo sư Trần Thanh Vân – Việt kiều tại Pháp, chủ tịch Hội, phương pháp "Bàn tay nặn bột" đến
Việt Nam từ năm 1999 với việc tổ chức "Bàn tay nặn bột" của Pháp tiếp nhận và tập huấn cho
một giáo viên vật lí dạy song ngữ tiếng Pháp.
Từ năm 2000 đến 2002, một nhóm nghiên cứu, hỗ trợ triển khai phương pháp "Bàn tay nặn
bột" tại Việt Nam đã được thành lập với sự tham gia của một số giảng viên Khoa vật lý Trường
đại học sư phạm Hà Nội và Trường Đại học khoa học tự nhiên, thuộc Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong những năm này, phương pháp "Bàn tay nặn bột" đã được giới thiệu cho sinh viên Đại học
sư phạm Hà Nội và thử nghiệm tại một số trường phổ thông tại Hà Nội.
Những năm tiếp theo, Hội gặp gỡ Việt Nam đã phối hợp với các Sở GDĐT Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Quảng Bình, Nghệ An, Ninh Bình, Hải Phòng, Thừa Thiên-Huế
tập huấn phương pháp "Bàn tay nặn bột" cho hơn 1000 giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, với
giảng viên tập huấn là chuyên gia về phương pháp "Bàn tay nặn bột" của Pháp.
Ngoài ra, phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn được triển khai ở các lớp tiểu học song ngữ
tiếng Pháp theo Chương trình phát triển tiếng Pháp ở Đông Nam Á.
Tuy vậy, từ năm học 2010-2011 trở về trước, việc triển khai phương pháp “Bàn tay nặn
bột” chưa có sự chỉ đạo chính thức của Bộ GDĐT; phương pháp "Bàn tay nặn bột" mới chỉ được
thực hiện ở một số tiết dạy thử nghiệm, thao giảng và chưa được đánh giá, rút kinh nghiệm để có
thể vận dụng phương pháp một cách hiệu quả, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Hội thảo tập huấn về phương pháp "Bàn tay nặn bột" tại thành phố Huế do Bộ GDĐT phối
hợp với Hội gặp gỡ Việt Nam tổ chức vào tháng 8/2011 là một dấu mốc quan trọng của việc đưa
phương pháp này vào Việt Nam. Hội thảo được quan tâm chỉ đạo trực tiếp, sâu sát của Thứ
trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Vinh Hiển. Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học, vị trí của phương pháp "Bàn
tay nặn bột" trong hệ thống giáo dục Việt Nam, mối liên hệ với những phương pháp dạy học
khác như phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp thực hành thí nghiệm… Qua đó, Thứ
trưởng nhấn mạnh sự cần thiết của việc đưa phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy học ở các
trường phổ thơng của Việt Nam. Bên cạnh đó, Thứ trưởng còn biểu dương một số Sở GD&ĐT
đã đi tiên phong trong việc triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột như": Đà Nẵng, Huế, Hà
Nội, Hải Phịng, Ninh Bình...
Mục tiêu của Đề án triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở trường phổ thông
giai đoạn 2011-2015
1.1. Mục tiêu tổng quát
Đề án triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học ở trường phổ thông giai đoạn
2011-2015 nhằm:
a) Nghiên cứu và triển khai vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học các môn
khoa học, công nghệ phù hợp với thực tiễn các trường phổ thơng của Việt Nam.
b) Góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn khoa
học, công nghệ.
8
c) Góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học cho việc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015.
1.2. Mục tiêu cụ thể
a) Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học ở trường phổ thông : đối với cấp
tiểu học vận dụng vào dạy học ở các môn học Tự nhiên và Xã hội, môn học Khoa học; đối
với cấp trung học cơ sở, vận dụng vào dạy học ở các mơn học Vật lí, Hố học và Sinh học.
b) Biên soạn tài liệu về phương pháp “Bàn tay nặn bột”, tài liệu tập huấn cán bộ quản lí giáo
dục về triển khai các hoạt động của Đề án và tài liệu hướng dẫn giáo viên vận dụng
phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học các môn học khoa học ở tiểu học và trung học
cơ sở.
c) Tổ chức thử nghiệm, rút kinh nghiệm, tổng kết các lý luận và thực tiễn về dạy học theo
phương pháp “Bàn tay nặn bột” để có thể triển khai rộng hơn, đồng thời góp phần về mặt
cơ sở thực tiễn trong việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015.
d) Triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong hoạt động đào tạo giáo viên của các
trường, khoa sư phạm.
e)
Phối hợp với Hội Gặp gỡ Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế để trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm về phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
f) Xây dựng trang web về phương pháp “Bàn tay nặn bột” để chia sẻ kinh nghiệm dạy học
cũng như những kết quả nghiên cứu vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học
ở trường phổ thông.
Các hoạt động của đề án
1.3. Hoạt động 1. Xây dựng Đề án, tổ chức hội thảo, hội nghị triển khai nội dung các hoạt
động của Đề án.
Xây dựng Đề án triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột", thống nhất kế hoạch triển khai,
thực hiện Đề án với các đơn vị liên quan.
1.4. Hoạt động 2. Đào tạo giảng viên cốt cán cấp Bộ
Mời chuyên gia nước ngoài về phương pháp "Bàn tay nặn bột" tập huấn cho giảng viên cốt
cán cấp Bộ về phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
1.5. Hoạt động 3. Biên soạn tài liệu, dịch tư liệu tiếng nước ngoài và phát hành
Biên soạn, dịch và cung cấp tư liệu về phương pháp “Bàn tay nặn bột” và tài liệu hướng
dẫn triển khai, vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học ở trường phổ thông cho
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
1.6. Hoạt động 4. Hội thảo, tập huấn về triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho
cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên các địa phương tham gia thí điểm
Tổ chức hội thảo tập huấn về triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" cho cán bộ quản lí
giáo dục của các địa phương tham gia thí điểm.
Báo cáo viên cốt cán cấp Bộ trực tiếp tập huấn giáo viên (khoảng 600 giáo viên tiểu học và
1200 giáo viên trung học cơ sở) về vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học ở
trường phổ thông cho giáo viên của các trường tham gia thí điểm; tăng cường hiểu biết về
phương pháp dạy học tích cực, nâng cao năng lực tự nghiên cứu về phương pháp “Bàn tay nặn
bột” trong dạy học cho giáo viên.
9
1.7. Hoạt động 5. Vận dụng thí điểm phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học trên lớp
với học sinh tại các trường tham gia thí điểm
Hỗ trợ điều kiện cần thiết cho giáo viên các trường tiểu học, trung học cơ sở tham gia thí
điểm để thực hiện vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học.
1.8. Hoạt động 6. Hội thảo trao đổi kinh nghiệm về việc thực thi vận dụng phương pháp
“Bàn tay nặn bột” vào dạy học
Tổ chức hội thảo để cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên tham thí điểm trao đổi kinh
nghiệm quản lý, trao đổi chuyên môn, chia sẻ tư liệu, kinh nghiệm triển khai vận dụng phương
pháp; phát hiện và nhân rộng điển hình trong việc vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong thực tiễn dạy học.
1.9. Hoạt động 7. Kiểm tra, giám sát, tư vấn và hỗ trợ
Hỗ trợ chuyên môn, tư vấn kĩ thuật, kiểm tra, giám sát các đơn vị trong quá trình triển khai
thực hiện các nội dung của Đề án.
Kiểm tra việc dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” tại trường phổ thơng tham gia
thí điểm; dự giờ, trao đổi chuyên môn, tư vấn, hỗ trợ kĩ thuật... về những vấn đề có liên quan tới
việc vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
1.10. Hoạt động 8. Sơ kết, đánh giá, khen thưởng
Tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả triển khai các hoạt động của Đề án ở giai đoạn thí điểm;
rút kinh nghiệm, chia sẻ kinh nghiệm trong việc quản lí, chỉ đạo triển khai Đề án và vận dụng
phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học trong trường phổ thông Việt Nam.
Khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc trong cơng tác chỉ đạo, quản lí, vận
dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện tài liệu về "Bàn tay nặn bột".
1.11. Hoạt động 9. Băng đĩa hình, hồn thiện tài liệu
Thiết kế, ghi hình một số tiết dạy mẫu; lựa chọn một số tiết dạy vận dụng phương pháp
“Bàn tay nặn bột” vào thực tiễn dạy học có chất lượng tốt để làm nguồn tư liệu tham khảo cho
giáo viên tham gia thí điểm.
Bổ sung, hồn thiện tài liệu phục vụ triển khai tập huấn cho giáo viên toàn quốc.
1.12. Hoạt động 10. Triển khai tập huấn giáo viên trên toàn quốc
Báo cáo viên cốt cán cấp Bộ và giáo viên đạt thành tích cao trong thí điểm vận dụng
phương pháp "Bàn tay nặn bột" tập huấn cho cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên cốt cán (cấp
tỉnh) của các tỉnh/thành phố trên toàn quốc do Bộ GDĐT tổ chức.
Sau khi được tập huấn, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán này sẽ tổ chức tập huấn
lại cho giáo viên của địa phương.
1.13. Hoạt động 11. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang web về phương pháp "Bàn tay
nặn bột"
Xây dựng và đưa vào hoạt động trang web để thông tin về hoạt động của Đề án, cung cấp
tư liệu về phương pháp; thiết lập diễn đàn trên mạng để trao đổi kinh nghiệm chỉ đạo, quản lí và
vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
10
Phát triển đội ngũ cộng tác viên của trang web để cung cấp thông tin về hoạt động triển
khai Đề án, duy trì hoạt động của trang web.
1.14. Hoạt động 12. Hợp tác quốc tế
Phối hợp với Hội gặp gỡ Việt Nam, tổ chức quốc tế và một số nước trên thế giới để nâng
cao hiệu quả triển khai Đề án.
Mời chuyên gia nước ngoài tham gia hội nghị, hội thảo, diễn đàn trao đổi thông tin về
phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Tổ chức đồn cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên tham quan học tập kinh nghiệm quản lí,
dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở nước ngoài.
1.15. Hoạt động 13. Đào tạo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ
Đưa phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giáo trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên
Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và Giáo dục thường xuyên.
Giới thiệu “Bàn tay nặn bột” cho các giảng viên thuộc các trường sư phạm.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu về phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Phối hợp với các trường đại học trong nước và quốc tế để nghiên cứu, đào tạo về phương
pháp “Bàn tay nặn bột”.
1.16. Hoạt động 14. Tổng kết
Đánh giá tổng kết quả triển khai Đề án, xây dựng kế hoạch triển khai đại trà phương pháp
"Bàn tay nặn bột" sau khi kết thúc Đề án.
Đối tượng thụ hưởng
1.17. Giai đoạn thí điểm
Đối với cấp tiểu học: triển khai tập huấn cho giáo viên của 150 trường tiểu học (4 giáo
viên/trường), dự kiến thuộc các tỉnh/thành phố: Hà Giang, Hà Nội, Hải Phịng, Ninh Bình, Nghệ
An, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, Bình Định, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng
Nai, Bến Tre, Cà Mau.
Đối với cấp trung học cơ sở: triển khai tập huấn cho giáo viên của khoảng 400 trường
trung học cơ sở (3 giáo viên/trường), dự kiến thuộc các tỉnh/thành phố: Hà Giang, Hòa Bình, Cà
Mau, Hà Nội, Hải Phịng, Thừa Thiên - Huế và Bình Định.
1.18. Giai đoạn triển khai đại trà trên toàn quốc từ 2014 - 2015
Triển khai tập huấn cho khoảng 650 cán bộ, giáo viên thuộc 63 tỉnh/thành phố (mỗi đơn vị
cử 10 giáo viên: 04 giáo viên tiểu học; 06 giáo viên trung học cơ sở).
Bồi dưỡng, tập huấn cho giáo viên, giáo sinh trong các trường đại học sư phạm, cao đẳng
sư phạm, các trường phổ thông và các trung tâm giáo dục thường xuyên trên toàn quốc.
Dự kiến tiến độ thực hiện các hoạt động của Đề án
1.19. Giai đoạn thí điểm
•
Năm 2011
o Xây dựng Đề án; phê duyệt Đề án, thành lập Ban chỉ đạo Đề án;
11
o Tập huấn giảng viên nịng cốt cấp Bộ.
•
Năm 2012
o
o
o
o
•
Biên soạn tài liệu, dịch tư liệu, in, phát hành;
Tập huấn giáo viên (thí điểm);
Vận dụng thí điểm vào dạy học
Xây dựng và vận hành website về phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Năm 2013
o
o
o
o
Hội thảo trao đổi kinh nghiệm triển khai
Sơ kết hoạt động Đề án
Xây dựng băng đĩa hình và hoàn thiện tài liệu
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
1.20. Giai đoạn triển khai đại trà trên toàn quốc
Từ 2014 đến 2015, tiến hành triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trên toàn
quốc.
Cuối năm 2015, tiến hành đánh giá tổng kết các hoạt động của Đề án, xây dựng kế hoạch
triển khai phương pháp "Bàn tay nặn bột" sau năm 2015.
Tổ chức thực hiện và nguồn kinh phí
Ban chỉ đạo Đề án, do Bộ trưởng Bộ GDĐT ra quyết định thành lập, có nhiệm vụ giúp Bộ
trưởng xây dựng Đề án, tổ chức và quản lý các hoạt động có liên quan để triển khai vận dụng
phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học các môn khoa học ở trường phổ thông.
Vụ Giáo dục Trung học, Vụ Giáo dục Tiểu học có nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp và chủ
động phối hợp với các đơn vị: Vụ Kế hoạch Tài chính; Cục Cơ sở vật chất và Thiết bị trường
học, đồ chơi trẻ em; Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục; Dự án Giáo dục Trung học
cơ sở vùng khó khăn nhất; Chương trình phát triển giáo dục trung học; Chương trình Đảm bảo
chất lượng giáo dục trường học; Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam; Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội; Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên (thuộc Đại học Thái Nguyên); Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Trường Đại học Sư phạm Vinh (thuộc Đại học Vinh); Khoa
Sư phạm của Trường Đại học Cần Thơ, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội và các sở GDĐT để
triển khai các hoạt động của Đề án theo đúng tiến độ và báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Dự án Giáo dục Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất, Chương trình phát triển giáo dục
trung học và Chương trình Đảm bảo chất lượng giáo dục trường học chịu trách nhiệm chi trả
kinh phí tổ chức các hoạt động của Đề án theo đúng chế độ tài chính hiện hành qui định.
Các Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh/thành phố tham gia Đề án chủ động về ngân sách, cử
người tham gia tập huấn, hội thảo, hội nghị và triển khai vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn
bột” vào dạy học ở các trường phổ thông, đồng thời thông tin, báo cáo kịp thời tình hình triển
khai Đề án tại địa phương với Ban chỉ đạo Đề án theo hướng dẫn.
Các trường sư phạm tham gia Đề án chủ động về ngân sách, tổ chức nghiên cứu, đào tạo,
bồi dưỡng phương pháp "Bàn tay nặn bột" cho giảng viên, giáo sinh.
12
III. Trách nhiệm của các địa phương tham gia Đề án
Trách nhiệm của Sở GDĐT
1.1. Giai đoạn thí điểm
a) Thành lập Ban điều hành triển khai phương pháp BTNB cấp Sở, thành phần :
•
Trưởng ban : đại diện Lãnh đạo Sở GDĐT.
•
Các thành viên : Trưởng phịng Giáo dục trung học, Trưởng phòng Giáo dục tiểu học,
Lãnh đạo Phòng GDĐT có trường tham gia Đề án.
•
Thư ký : chun viên Phòng Giáo dục trung học và chuyên viên Phòng Giáo dục tiểu học
của Sở GDĐT.
b) Đề xuất trường tham gia thí điểm
Sở GDĐT chỉ đạo các Phịng GDĐT trực thuộc đề xuất trường tiểu học và trường trung
học cơ sở tham gia thí điểm. Trên cơ sở đề xuất của Phòng GDĐT, Sở GDĐT lựa chọn và giới
thiệu trường tham gia thí điểm cho Bộ GDĐT.
c) Cử lãnh đạo, chuyên viên, giáo viên tham gia các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị do Bộ
GDĐT tổ chức.
Sở GDĐT cử lãnh đạo Sở, lãnh đạo, chuyên viên của Phòng Giáo dục trung học và Phòng
Giáo dục tiểu học tham gia các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo do Bộ GDĐT tổ chức theo đúng
yêu cầu.
Sở GDĐT chỉ đạo các đơn vị tham gia thí điểm cử cán bộ, giáo viên tham gia các lớp tập
huấn do Bộ GDĐT tổ chức theo đúng yêu cầu.
d) Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động triển khai Đề án
Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc triển khai các hoạt động của Đề án
tại địa phương.
e) Tổ chức trao đổi, rút kinh nghiệm
Tổ chức hội thảo, trao đổi, rút kinh nghiệm về việc triển khai Đề án, vận dụng phương
pháp "Bàn tay nặn bột" giữa các đơn vị tham gia Đề án của địa phương.
Tổ chức hội thảo, dự giờ, trao đổi kinh nghiệm về vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn
bột" giữa các giáo viên, các trường tham gia thí điểm của địa phương.
f) Xây dựng đội ngũ hỗ trợ, tư vấn cho việc triển khai vận dụng phương pháp
Cử cán bộ (có thể là giáo viên trung học phổ thông, giảng viên của các cơ sở đào tạo giáo
viên trên địa bàn) để hỗ trợ khi cần thiết về khoa học, kĩ thuật, thực nghiệm cho giáo viên tham
gia thí điểm; tổ chức bồi dưỡng các kiến thức khoa học thường thức cho giáo viên tham gia thí
điểm phục vụ việc dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" khi cần thiết.
g) Tổ chức nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
Tổ chức để cán bộ quản lý, giáo viên nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng về công tác
quản lý và về vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trên lớp học. Tuyển chọn và gửi sản
phẩm nghiên cứu về Bộ để chia sẻ với các đơn vị tham gia thí điểm khác.
h) Báo cáo về Bộ GDĐT
13
Sở GDĐT báo cáo về Ban điều hành Đề án tình hình, kinh nghiệm, khó khăn, thuận lợi và
đề xuất biện pháp triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy trong trường tiểu
học và trung học cơ sở.
1.2. Giai đoạn triển khai đại trà
a) Cử giáo viên đi tham dự lớp tập huấn giáo viên cốt cán về vận dụng phương pháp "Bàn tay
nặn bột" trong dạy học do Bộ tổ chức cho tất cả các Sở GDĐT.
b) Tổ chức bồi dưỡng nhân rộng giáo viên giai đoạn triển khai đại trà.
c) Đưa phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào giáo trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và Giáo dục thường xuyên.
Triển khai các hoạt động khác theo chỉ đạo.
Trách nhiệm của phòng GDĐT
a) Cử lãnh đạo Phòng GDĐT tham gia vào Ban điều hành theo yêu cầu của Sở GDĐT.
b) Đề xuất trường tiểu học, trung học cơ sở tham gia thí điểm cho Sở GDĐT.
Cần lựa chọn các trường có lãnh đạo tích cực, nhiệt tình trong cơng tác đổi mới phương
pháp dạy học.
Những trường có phịng thí nghiệm, phịng học bộ mơn và sĩ số học sinh/lớp không quá
đông sẽ thuận lợi hơn trong việc dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" với học sinh.
c) Đề cử giáo viên tham gia hội thảo, tập huấn do Bộ GDĐT tổ chức
Đề cử với Sở GDĐT giáo viên tham gia các lớp tập huấn, hội thảo do Bộ GDĐT, Sở
GDĐT tổ chức.
Giáo viên được đề cử tham gia thí điểm dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" phải
là giáo viên chủ động, tích cực, nhiệt tình trong đổi mới phương pháp dạy học, có năng lực, kinh
nghiệm trong tổ chức học sinh hoạt động nhóm và là giáo viên dạy các mơn vật lý, hóa học, sinh
học đối với các trường THCS.
d) Chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá, giám sát việc thực thi thí điểm vận dụng phương pháp "Bàn
tay nặn bột" vào dạy học tại các trường trực thuộc tham gia thí điểm
Chỉ đạo, hướng dẫn các trường tham gia thí điểm xây dựng kế hoạch triển khai vận dụng
phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy học trên lớp với học sinh. Phê duyệt kế hoạch dạy học
có ứng dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" của trường tham gia thí điểm trực thuộc.
Xây dựng kế hoạch triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" của Phòng GDĐT
(bao gồm cả kế hoạch của các trường trực thuộc tham gia thí điểm) và báo cáo, xin ý kiến chỉ
đạo, phê duyệt của Sở.
Chỉ đạo các trường thực thi kế hoạch đã được Sở GDĐT phê duyệt.
Phòng GDĐT tổ chức để giáo viên giữa các trường tham gia thí điểm thảo luận, trao đổi
kinh nghiệm về việc triển khai, vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" nhằm rút kinh nghiệm
triển khai, vận dụng hiệu quả phương pháp vào dạy học.
Triển khai các hoạt động khác theo chỉ đạo.
14
Trách nhiệm của nhà trường, giáo viên, học sinh
1.3. Nhà trường
a) Đề cử giáo viên tham dự lớp tập huấn, hội thảo theo yêu cầu
Giáo viên được đề cử tham gia thí điểm vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" cần có
năng lực chun mơn tốt, giỏi nghiệp vụ, nhiệt tình, hăng hái và chủ động trong việc đổi mới
phương pháp dạy học; có khả năng hợp tác, chia sẻ với đồng nghiệp; có kinh nghiệm trong việc
tổ chức, quản lý hoạt động học tập theo nhóm của học sinh.
Mỗi trường tiểu học cử 4 giáo viên tham gia lớp tập huấn phương pháp "Bàn tay nặn bột"
do Bộ tổ chức. Mỗi trường trung học cơ sở cử 3 giáo viên (vật lý, sinh học, hóa học, mỗi mơn 1
giáo viên).
b) Xây dựng kế hoạch thực thi vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Tiến hành xây dựng kế hoạch thực thi việc dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
trên lớp học với học sinh và trình Phòng GDĐT phê duyệt trước khi thực hiện.
Ưu tiên bố trí, sắp xếp thời khóa biểu thuận lợi cho việc dạy học theo phương pháp "Bàn
tay nặn bột" (ít nhất 2 tiết liền nhau/tuần) cho những nội dung thí điểm vận dụng phương pháp
"Bàn tay nặn bột".
Tạo điều kiện về vật liệu, trang thiết bị dạy học, phòng học… cho việc thực thi vận dụng
phương pháp "Bàn tay nặn bột".
c) Tổ chức tuyên truyền, giới thiệu về phương pháp
Trong một số trường hợp, hoạt động học tập của học sinh theo phương pháp "Bàn tay nặn
bột" không chỉ tiến hành trong giờ học ở trường, do vậy cần có có sự giám sát, giúp đỡ của cha
mẹ học sinh và cộng đồng. Nhà trường cần chỉ đạo, tổ chức việc tuyên truyền, giới thiệu về
phương pháp "Bàn tay nặn bột" với cha mẹ học sinh, cộng đồng dân cư; và đề nghị cha mẹ học
sinh, các đơn vị, tổ chức cộng đồng cùng hợp tác, hỗ trợ quản lý, giám sát, hoạt động dạy học
học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" với học sinh.
Khi cần thiết, nhà trường liên hệ (hoặc hỗ trợ giáo viên trong việc liên hệ) với các đơn vị,
tổ chức, cá nhân để được hỗ trợ về chun mơn, thiết bị thí nghiệm, thực hành, cơ sở thực địa,
hoạt động ngoại khóa… cho hoạt động dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".
d) Dự giờ, thảo luận, tự học về dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Nhà trường tổ chức và tạo điều kiện để giáo viên (cả giáo viên tham gia thí điểm và giáo
viên khơng tham gia thí điểm) trong trường dự giờ, thảo luận, góp ý, rút kinh nghiệm về vận
dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột"; tạo điều kiện để giáo viên dự giờ, trao đổi, chia sẻ với giáo
viên ở trường khác (trường tham gia thí điểm), chuyên gia giáo dục bên ngoài nhà trường về
phương pháp "Bàn tay nặn bột.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tự học, tìm hiểu về phương pháp "Bàn
tay nặn bột" để nâng cao trình độ.
e) Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
Lãnh đạo nhà trường tích cực tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng về cơng
tác quản lí, triển khai vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy học trong nhà trường.
Nhà trường tổ chức, tạo điều kiện để giáo viên tham gia thí điểm nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng về vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học trên lớp với học sinh.
f) Ghi hình tiết dạy
15
Khi được yêu cầu, nhà trường phối hợp tổ chức thiết kế, ghi hình một số giờ dạy có sử
dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" làm tư liệu tham khảo, chia sẻ với các đơn vị tham gia thí
điểm.
1.4. Giáo viên
a) Tham dự lớp tập huấn, hội thảo về phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Giáo viên tham gia thí điểm phải tham dự đầy đủ các lớp tập huấn do Bộ GDĐT tổ chức về
vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học; tích cực tham gia các hội thảo, diễn
đàn, dự giờ và trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ về phương pháp "Bàn tay nặn bột" do Bộ, Sở và
Phòng GDĐT tổ chức.
b) Lập kế hoạch dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", chuẩn bị các điều kiện dạy học
và thực thi trên lớp với học sinh
Chủ động phối hợp với đồng nghiệp (đặc biệt là khi dạy theo chủ đề tích hợp) lập kế hoạch
tiết dạy, chủ đề dạy học vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" và báo cáo với lãnh đạo nhà
trường phê duyệt trước khi thực hiện.
Khi xây dựng kế hoạch vận dụng bàn tay nặn bột cần chỉ rõ những yêu cầu kiến thức, kĩ
năng, thái độ của từng chương, từng bài học sẽ được hoàn thành.
Cần xác định cụ thể các vật liệu, tư liệu và dụng cụ thí nghiệm, thực hành và các điều kiện
cần thiết khác (như bố trí tiết học, phối hợp giữa các đồng nghiệp, đi thực tế...) cho việc dạy học
theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"; chủ động đề xuất với lãnh đạo nhà trường để được hỗ trợ,
tạo điều kiện.
Giáo viên cần chủ động, sáng tạo trong việc sưu tầm, chuẩn bị các vật liệu, tư liệu và các
dụng cụ thí nghiệm, thực hành cho các nội dung dạy học đã lựa chọn theo phương pháp "Bàn tay
nặn bột". Cần tận dụng các vật liệu, dụng cụ thí nghiệm thực hành dễ tìm kiếm, sẵn có.
Trước mỗi hoạt động dạy học, giáo viên cần phải kiểm tra các thiết bị dạy học, địa điểm tổ
chức dạy học (ví dụ khi tiến hành hoạt động dạy học ngoài lớp học) để đảm bảo an toàn cho học
sinh. Với các bài học có sử dụng phương pháp thí nghiệm trực tiếp, giáo viên cần làm trước các
thí nghiệm với các thiết bị, lường trước những khó khăn, vướng mắc của học sinh trong q trình
thực thí nghiệm.
Chủ động liên hệ với cha mẹ học sinh, các cơ quan, tổ chức cộng đồng để thực hiện các
hoạt động dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" khi cần thiết.
Thực hiện việc dạy thí điểm theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" trên lớp với học sinh
theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Mỗi giáo viên tham gia dạy thí điểm thực hiện 1-2 chủ đề (hoặc bài)/năm học vận dụng
phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học.
Một tiết học dạy thí điểm theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" được tính bằng hai tiết dạy
thông thường.
c) Tham gia trao đổi, thảo luận, tự học, nghiên cứu về phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng về việc vận dụng phương pháp
"Bàn tay nặn bột" trong dạy học. Đề xuất các nội dung, bài học, chủ đề tích hợp giữa một số mơn
học (ở trường trường trung học cơ sở), hình thức tiến hành.... có thể thực hiện theo phương pháp
"Bàn tay nặn bột".
Tự học, nghiên cứu về phương pháp "Bàn tay nặn bột"; tham gia diễn đàn, chia sẻ kinh
nghiệm về vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trên trang web của Đề án phương pháp
"Bàn tay nặn bột".
16
Dự giờ của đồng nghiệp để trao đổi, góp ý, rút kinh nghiệm.
Triển khai các hoạt động khác theo chỉ đạo.
1.5. Học sinh
Tích cực tham gia các hoạt động học tập theo u cầu của giáo viên
Thơng tin, giải thích đến cha mẹ, cộng đồng về phương pháp "Bàn tay nặn bột" theo hướng
dẫn của giáo viên.
Tổ chức kiểm tra, đánh giá
1.6. Kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy học của giáo viên
Việc đánh giá hoạt động của giáo viên cần thực chất và đảm bảo khuyến khích giáo viên
mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy học mới. Cần loại bỏ những tiêu chí mang tính hình thức
như dạy hết kiến thức trong một bài học, đảm bảo thời lượng của tiết học, sử dụng phần mềm
trình chiếu, giáo viên sử dụng thành thạo phương tiện dạy học, thực hiện thành cơng thí nghiệm,
sự ghi nhớ và vận dụng kiến thức lý thuyết của học sinh. Cần tập trung chú ý đến hiệu quả của
hoạt động nhận thức của học sinh. Cần tập trung phát hiện, khuyến khích các nhân tố mới dù là
thành công chưa được như mong đợi.
Trong phương pháp "Bàn tay nặn bột", hoạt động dạy học thường gắn liền với thực tiễn sẽ
có nhiều yếu tố khách quan, những tình huống sư phạm ngồi dự kiến ảnh hưởng đến hoạt động
dạy học khiến giáo viên sẽ khó khăn hơn trong việc đảm bảo thời gian và các khâu của một tiết
học. Điều đó có thể dẫn tới tiết dạy không được đánh giá cao theo tiêu chí đánh giá truyền thống.
Dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" có thể cần kéo dài nhiều tiết học, nhiều tuần,
không chỉ trên lớp học, trong trường học. Vì vậy, việc đánh giá hoạt động dạy học theo phương
pháp "Bàn tay nặn bột" cần được thực hiện theo cả tiến trình dạy học và kết hợp giữa dạy học
trên lớp và ngồi lớp học.
Đối với dạy học tích hợp, cần đánh giá cả sự phối hợp, hợp tác giữa các giáo viên tham gia
chủ đề.
Ngoài ra, trong giai đoạn thí điểm cần xem xét đánh giá giáo viên cả về mặt tích cực tham
gia diễn đàn trao đổi, nghiên cứu, tự học về phương pháp "Bàn tay nặn bột" và sự chủ động của
giáo viên trong việc liên hệ, phối hợp với lực lượng giáo dục ngoài nhà trường để hoàn thành
nhiệm vụ dạy học.
1.7. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh,
rèn luyện các kỹ năng tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc
làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng cần thay
đổi theo hướng đánh giá kỹ năng, năng lực nhận thức (sự hiểu và vận dụng) hơn là kiểm tra việc
ghi nhớ kiến thức.
Việc đổi mới đánh giá được xem là một biện pháp sẽ giúp học sinh có ý thức hơn, chủ
động hơn, tích cực hơn trong các hoạt động học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học
Trong các tiết học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", học sinh được khuyến khích phát
biểu ý kiến và trao đổi ý kiến trong nhóm hay trước tồn thể lớp học. Giáo viên có thể ghi chép
lại số lần và tính chính xác của ý kiến phát biểu, từ đó đánh giá sự tiến bộ của học sinh trong
một số tiết dạy.
17
Đánh giá ý thức của học sinh trong hoạt động học tập
Đánh giá qua tính tích cực, nghiêm túc, năng động, tinh thần trách nhiệm trong học tập,
thực hiện các hoạt động học tập do giáo viên yêu cầu.
Đánh giá sự tiến bộ của học sinh thông qua ghi chép trong vở thực hành
Giáo viên có thể quan sát trong quá trình học sinh ghi chép ở lớp hoặc thu vở thực hành
hàng tháng hay cuối kỳ học để đánh giá sự tiến bộ của học sinh.
Điểm này có thể thay thế cho điểm điểm tra theo cách truyền thống.
Trách nhiệm của cơ sở đào tạo giáo viên
1.8. Giai đoạn triển khai thí điểm
Tham gia nghiên cứu, bồi dưỡng, tập huấn giáo viên về phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Cử chuyên gia về phương pháp "Bàn tay nặn bột" để hỗ trợ chuyên môn, tư vấn kĩ thuật
triển khai thực hiện phương pháp "Bàn tay nặn bột" ở các trường phổ thơng tham gia thí điểm.
1.9. Giai đoạn triển khai đại trà
Giới thiệu phương pháp "Bàn tay nặn bột" cho giáo viên, sinh viên các trường sư phạm
Phối hợp với các trường đại học trong nước và quốc tế nghiên cứu, đào tạo về phương
pháp "Bàn tay nặn bột".
IV. Giới thiệu tài liệu tham khảo
Có thể tham khảo các tài liệu được giới thiệu dưới đây để có thêm thơng tin chi tiết, cụ thể
hơn về phương pháp "Bàn tay nặn bột".
Tài liệu tiếng Việt
1. Georger Charpak (chủ biên) (Người dịch: Đinh Ngọc Lân), Bàn tay nặn bột - khoa học ở
trường tiểu học, NXBGD 1999.
2. Nguyễn Vinh Hiển (Chỉ đạo nội dung), Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học
các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo
dục THCS vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012.
3. Nguyễn Vinh Hiển, Hoạt động quan sát và thí nghiệm trong dạy và học thực vật học ở
trung học cơ sở, NXBGD, 2006.
4. Ngô Văn Hưng (Chủ biên), Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học sinh học ở
trường trung học cơ sở, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012.
5. Vũ Anh Tuấn (Chủ biên), Tài liệu hướng dẫn dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn
bột" mơn Hóa học, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2012.
6. Nguyễn Văn Nghiệp (Chủ biên), Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học vật lí ở
trường trung học cơ sở, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012.
7. Phạm Ngọc Định (Chủ biên), Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào môn Tự
nhiên và Xã hội, môn Khoa học ở trường tiểu học, Tài liệu tập huấn giáo viên, Chương trình đảm
bảo chất lượng giáo dục trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012.
18
Tài liệu tiếng Pháp
8. Georges Charpak, La main à la pâte : histoire des sciences à l'école primaire,
Flammarion, 1998.
9. Georges Charpak, Leon Lederman, Enfants, chercheurs et citoyens, Odile Jacob, 1998.
10. Georges Charpak, Pierre Léna, Yves Quéré, L'enfant et la science : l'aventure de La
main à la pâte, Odile Jacob, 2005.
Tài liệu trên internet
11. Trang web tiếng Việt: />12. Trang web tiếng Pháp :
13. Trang web tiếng Anh:
19