Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sáng kiến kinh nghiệm dạy học vật lý theo tính tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.2 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC TIẾT “BÀI TẬP VẬT LÝ”
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT NHƯ THANH.

Người thực hiện: Lê Thị Hoa
Chức vụ: Giáo viên - TTCM
SKKN thuộc môn: Vật lý

THANH HOÁ NĂM 2013


MỤC LỤC

Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................
1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI...........................................................................
1
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI...................................................................
2
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU...............................................................
2
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU....................................
2
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................
2


B. NỘI DUNG................................................................................................
3
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.......................
3
Chương 2: Vai trò và ý nghĩa của bài tập vật lý trong quá trình dạy học......3
Chương 3: Thực trạng của đề tài nghiên cứu..........................................
6
Chương 4: Biện pháp, giải pháp để thực hiện đề tài................................
7
Chương 5: Kết quả đạt được của đề tài.................................................... 16
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................. 17


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vật Lý là mơn khoa học thực nghiệm, khi tiếp cận địi hỏi phải có nhiều tư
duy (cả tư duy thực tế và tư duy trừu tượng). Đối với học sinh trung học phổ thông,
bài tập vật lý là một phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo, vận dụng lý thuyết đã học vào thực tiễn. Việc giải bài tập vật lý giúp các em
ôn tập, củng cố, đào sâu, mở rộng kiến thức, rèn luyện thói quen vận dụng kiến
thức khái quát để giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Ngồi ra, nó cịn giúp các em
làm việc độc lập, sáng tạo, phát triển khả năng tư duy cũng như giúp các em tự
kiểm tra mức độ nắm bắt kiến thức của bản thân.
Trong nhiều trường hợp, dù giáo viên có cố gắng trình bày tài liệu mạch lạc,
hợp lôgic, phát biểu định nghĩa, định luật chính xác, làm thí nghiệm đúng phương
pháp và có kết quả thì đó mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ để học sinh hiểu sâu
sắc và nắm vững kiến thức. Chỉ có thơng qua các bài tập ở hình thức này hay hình
thức khác, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học để
tự lực giải quyết thành cơng những tình huống cụ thể khác nhau thì những kiến
thức đó mới trở nên sâu sắc, hoàn thiện và thành vốn riêng của học sinh.

Khi làm bài tập, học sinh phải nhớ lại những kiến thức vừa học, phải đào sâu
khía cạnh nào đó của kiến thức hoặc phải tổng hợp nhiều kiến thức trong một
chương, một phần của chương trình và do vậy, bài tập vật lý không chỉ là phương
tiện để phát triển tư duy, óc tưởng tượng, tính độc lập trong việc suy luận mà nó
cịn là phương tiện rất tốt để kiểm tra kiến thức và kỹ năng của học sinh. Vì vậy,
bài tập vật lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy học
vật lý ở trường phổ thơng. Ngồi ra, bài tập vật lý còn giúp học sinh vận dụng được
những kiến thức vật lý đã học vào việc giải quyết những tình huống cụ thể trong
đời sống, kỹ thuật làm cho bộ môn trở nên lôi cuốn, hấp dẫn các em hơn.
Tuy nhiên, trong thực tế, khi đọc một bài tập Vật Lý, nhiều học sinh không
biết nên bắt đầu từ đâu để có phương án thích hợp tìm ra kết quả. Một trong những
nguyên nhân quan trọng là các tiết “Bài tập” trong chương trình vật lý phổ thơng
chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, thể hiện trong các tài liệu thiết kế giáo
án, qua quá trình chuẩn bị và lên lớp của giáo viên, sự chuẩn bị và thái độ học tập
tiết bài tập của học sinh.
Với mong muốn tìm được một giải pháp nhằm khắc phục phần nào những khó
khăn và hạn chế của việc dạy - học tiết “Bài tập vật lý” ở trường THPT Như Thanh,
giúp giáo viên có thể định hướng học sinh học tiết bài tập vật lý một cách tích cực,
hiệu quả, lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia vào q trình giải bài tập, tơi chọn
đề tài: “Đổi mới phương pháp dạy - học tiết “Bài tập vật lý” nhằm phát huy tính
tích cực hoạt động của học sinh trường THPT Như Thanh”.


II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Giúp giáo viên và học sinh thấy được tầm quan trọng của tiết “Bài tập”
trong việc dạy - học Vật lý ở trường THPT.
- Tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy - học tiết “ Bài tập” trong chương
trình Vật lý phổ thơng theo hướng phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu cơ sở lý luận chung của bài tập vật lý và các bước giải bài tập vật lý

ở trường phổ thông.
- Đề ra giải pháp cho việc dạy tiết “Bài tập” trong chương trình vật lý phổ
thơng.
- Đưa ra ví dụ cụ thể về tiết “Bài tập” trong chương trình vật lý phổ thông.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Các tiết bài tập của môn Vật Lý trong chương trình THPT.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp điều tra: thực trạng dạy tiết bài tập Vật lý trong trường THPT
Như Thanh.
- Phương pháp thống kê, so sánh.


B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.1. Cơ sở pháp lí:
Tiết “ Bài tập” nằm trong hệ thống bài giảng được quy định trong phân phối
chương trình giảng dạy mơn Vật lý của từng khối, lớp; là tiết học mà giáo viên phải
thực hiện trong q trình giảng dạy mơn Vật lý ở trường phổ thơng.
1.2. Cơ sở lí luận:
- u cầu cụ thể của việc dạy học Vật lý THPT là hồn thiện cho học sinh
kiến thức phổ thơng, cơ bản về vật lý, cần thiết để đi vào các ngành khoa học, kỹ
thuật, trong đó việc rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng,
giải bài tập vật lý phổ thông là một trong những mục tiêu rất quan trọng.
- Một trong những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học phổ thông
là phải chú ý đến việc phát huy tính tích cực hoạt động, nâng cao chất lượng và
hứng thú học tập các bộ môn của học sinh.
Chương 2: Các bước giải bài tập vật lý.
Bài tập vật lý rất đa dạng và phong phú nhưng chúng ta có thể nêu khái quát
chung về các bước giải như sau:
-Bước 1: Tìm hiểu đề bài: Nghiên cứu kỹ đề bài, tóm tắt đề bằng các ký hiệu

toán học (đổi các đơn vị cần thiết).
-Bước 2: Xác lập các mối liên hệ: Phân tích dữ liệu và tìm thêm dữ liệu trong
kho tri thức liên quan, xây dựng các bài toán trung gian theo hệ thống, dẫn đến việc
đáp ứng yêu cầu chung của bài. Cụ thể là phân tích từ những đại lượng phải tìm, đi
ngược lại xem xét những kiến thức nào liên quan đến nó, trong những kiến thức
này tìm con đường nào gần nhất đến dữ kiện đã cho. Kết quả là xây dựng được sơ
đồ định hướng tư duy cho mỗi bài tập và trình bày lời giải.
-Bước 3: Giải bài tập, tìm ra kết quả.
-Bước 4: Kiểm tra xác nhận kết quả: Kiểm tra kết quả tính tốn đã chính xác
chưa, đã giải quyết hết u cầu bài tốn đặt ra chưa, kết quả thu được có phù hợp
thực tế không và kiểm tra thứ nguyên của các đại lượng vật lý đã tìm.
Ghi chú: Đối với bài tập vật lý trắc nghiệm khách quan thì các bước thực
hiện vẫn như trên, riêng bước thực hiện lời giải thì được làm ở giấy nháp, còn kết
quả lời giải là việc chọn ra câu đúng và đánh dấu vào đó.
Trên đây là các bước chung để giải một bài tập vật lý, trong giờ “Bài tập”,
giáo viên phải thường xuyên và dần dần giúp học sinh nắm được và vận dụng
chúng trong quá trình làm bài tập vật lý. Tuy nhiên, đây chỉ là sự hướng dẫn rất
khái quát và trong nhiều trường hợp học sinh vẫn không thể giải được bài tập. Do
vậy, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích phương pháp giải bài tập


đó, chỉ ra được cấu trúc các thao tác, hành động cần thiết vừa có tác dụng phát huy
tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, vừa giúp học sinh dễ dàng tìm ra
cách giải bài tập, tức là, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập được một bản chỉ
dẫn việc thực hiện các hành động, các thao tác cần thiết để giải bài tập đó có nghĩa
là giúp học sinh lập được sơ đồ định hướng tư duy. Tùy thuộc vào đặc điểm, khả
năng tiếp thu của học sinh, mục tiêu của tiết học, điều kiện thời gian mà giáo viên
lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh và tăng giảm mức độ cụ thể của sơ đồ
định hướng tư duy một cách phù hợp nhất.
Ngoài bốn bước chung để giải một bài tập vật lý, học sinh còn phải biết cách

giải các bài tập đặc trưng cho các phần kiến thức khác nhau như: Các bài tập động
học, các bài tập vận dụng định luật Niutơn, các bài tập vận dụng các định luật bảo
toàn, …Các bài tập này đều có các bước đặc trưng riêng của nó.
Các phương pháp hướng dẫn học sinh có thể là:
a. Hướng dẫn theo mẫu.
Hướng dẫn theo mẫu là sự hướng dẫn chỉ rõ cho học sinh những hành động
cụ thể cần thực hiện và trình tự thực hiện các hành động đó để đạt kết quả mong
muốn. Đây được coi là những hành động sơ cấp, đơn giản học sinh phải nắm vững.
Kiểu hướng dẫn này khơng địi hỏi học sinh phải tự mình tìm tịi xác định các hành
động cần thực hiện để giải quyết vấn đề đặt ra mà chỉ đòi hỏi học sinh chấp hành
các hành động đã được giáo viên chỉ ra, cứ theo đó học sinh sẽ đạt được kết quả, sẽ
giải được bài tập đã cho.
Kiểu hướng dẫn này thường được áp dụng khi cần dạy cho học sinh phương
pháp giải một loại bài tập điển hình nào đó ở đầu mỗi bài, mỗi phần, nhằm luyện
cho học sinh nắm vững một đơn vị kiến thức mới hay kỹ năng giải một loại bài
tốn đặc trưng nào đó.
Ví dụ: Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng giải bài toán thuận trong phương
pháp động lực học (Vật lý 10), ta có thể hướng dẫn cho học sinh thực hiện giải theo
trình tự sau:
1, Chọn hệ trục toạ độ đề các Oxy( Ox trùng với đường thẳng chuyển động).
2, Phân tích các lực tác dụng lên vật: Chỉ rõ các lực và biểu diễn các lực tác
dụng lên vật trên hình vẽ.
3, Viết phương trình định luật II Niutơn cho vật: Fhl = ma (*)
4, Chiếu phương trình (*) lên trục Ox: Fhl/Ox = ma (1).
5, Chiếu phương trình (*) lên phương Oy: Tìm được N (2).
6, Lực ma sát Fms = µN (3).
7, Thay (2), (3) vào (1), tính được a và tìm được tính chất của chuyển động.
Kiểu hướng dẫn theo mẫu có ưu điểm là nó đảm bảo cho học sinh giải được
bài toán đã cho một cách chắc chắn, giúp cho việc rèn luyện kỹ năng giải bài toán
của học sinh có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu việc hướng dẫn học sinh giải bài tốn

ln chỉ áp dụng kiểu hướng dẫn này thì học sinh chỉ quen chấp hành những hành


động đã được chỉ dẫn theo một mẫu có sẵn. Do đó, ít có tác dụng rèn luyện khả
năng tìm tòi, sáng tạo, sự phát triển tư duy sáng tạo của học sinh bị hạn chế. Để hạn
chế yếu điểm này, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh trình tự giải một loại
bài tốn xác định có thể theo các cách sau đây:
* Chỉ dẫn cho học sinh trình tự giải dưới dạng có sẵn qua việc giải một bài
tốn mẫu, giáo viên phân tích các phương pháp giải và chỉ dẫn cho học sinh trình tự
giải loại bài tốn đó rồi cho học sinh tập áp dụng để giải các bài toán tiếp theo.
* Đối với những học sinh khá, giỏi để tăng cường rèn luyện tư duy trong q
trình giải bài tốn, người giáo viên có thể lơi cuốn học sinh tham gia vào q trình
xây dựng trình tự chung để giải loại bài tốn đã cho. Thơng qua việc phân tích
những bài tốn đầu tiên, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự vạch ra trình tự giải
loại bài tốn này rồi áp dụng vào việc giải những bài toán tiếp theo.
Trong trường hợp học sinh yếu, học sinh chưa thể áp dụng được ngay mẫu
đã được giáo viên đưa ra thì giáo viên cần đưa thêm những bài luyện tập riêng
nhằm đảm bảo cho học sinh thực hiện được những chỉ dẫn riêng lẻ trong trình tự
giải này, tạo điều kiện cho học sinh có thể áp dụng được mẫu đã cho.
b. Hướng dẫn tìm tịi.
Hướng dẫn tìm tịi là hướng dẫn mang tính gợi ý cho học sinh suy nghĩ, tìm
tịi, phát hiện cách giải quyết, giáo viên gợi mở để học sinh tự xác định các hành
động cần thực hiện để đạt được kết quả.
Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi cần giúp đỡ học sinh vượt qua khó
khăn để giải được bài toán, đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu phát triển tư duy học
sinh, tạo điều kiện cho học sinh tự lực tìm cách giải quyết bài tốn.
Ưu điểm của kiểu hướng dẫn này là tránh được tình trạng giáo viên làm thay
học sinh trong việc giải bài tốn nhưng địi hỏi học sinh phải tự lực tìm cách giải
quyết nên khơng phải bao giờ cũng có thể đảm bảo cho học sinh giải được bài toán
một cách chắc chắn. Khó khăn của kiểu hướng dẫn này là ở chỗ giáo viên phải

hướng dẫn sao cho không được đưa học sinh đến chỗ chỉ việc thừa hành các hành
động theo mẫu, nhưng đồng thời lại không thể là một sự hướng dẫn quá khái quát
khó giúp học sinh tìm được hướng giải. Nó phải có tác dụng hướng tư duy của học
sinh vào phạm vi cần nghiên cứu, cần phát hiện cách giải quyết nhưng học sinh vẫn
phải tự tìm tịi chứ khơng phải chỉ ghi nhận, tái tạo cái có sẵn. Việc hướng dẫn này
tạo điều kiện cho học sinh tư duy tích cực, đáp ứng địi hỏi phát triển tư duy và phát
huy tính tích cực hoạt động cho học sinh trong quá trình giải bài tập.
c. Định hướng khái qt chương trình hóa.
Định hướng khái qt chương trình hóa cũng là sự hướng dẫn mang tính chất
gợi ý cho học sinh tự tìm cách giải quyết nhưng giúp học sinh ý thức được đường
lối khái qt của việc tìm tịi giải quyết vấn đề và định hướng được theo các bước
dự định hợp lý. Sự định hướng ban đầu địi hỏi sự tự lực tìm cách giải quyết của
học sinh. Nếu học sinh không đáp ứng được thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo viên


là sự phát triển định hướng khái quát ban đầu, cụ thể hóa thêm một bước bằng cách
gợi ý thêm cho học sinh để thu hẹp hơn phạm vi tìm tòi, giải quyết cho vừa sức học
sinh. Nếu học sinh vẫn khơng đủ sức tìm tịi, giải quyết thì sự hướng dẫn của giáo
viên chuyển dần thành hướng dẫn theo mẫu để đảm bảo cho học sinh hoàn thành
được một bước, sau đó tiếp tục yêu cầu học sinh tự lực tìm cách giải quyết bước
tiếp theo. Cứ như vậy cho đến khi giải quyết được vấn đề đặt ra.
Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi có điều kiện hướng dẫn tiến trình giải
bài tốn của học sinh, giúp cho học sinh tự giải được bài toán đã cho, đồng thời dạy
cho học sinh cách suy nghĩ để giải một bài tốn.
Kiểu hướng dẫn này có ưu điểm là thực hiện được đồng thời các yêu cầu:
- Rèn luyện được tư duy của học sinh trong quá trình giải bài toán.
- Đảm bảo cho học sinh giải được bài tốn đã cho.
Tuy nhiên kiểu hướng dẫn này địi hỏi giáo viên phải theo sát tiến trình hoạt
động giải bài tập của học sinh, giáo viên không chỉ đưa ra những lời hướng dẫn có
sẵn mà cần kết hợp được việc định hướng với việc kiểm tra kết quả hoạt động của

học sinh để điều chỉnh sự giúp đỡ phù hợp với trình độ của học sinh.
Tóm lại: Để người học tích cực, tự lực suy nghĩ, hành động tiến tới giải
quyết được bài tập và phát triển tư duy vật lý, cách định hướng hữu hiệu là phối
hợp sử dụng linh hoạt kiểu định hướng khái quát chương trình hóa, hướng dẫn tìm
tịi và hướng dẫn theo mẫu trong việc hướng dẫn học sinh giải bài tập.
Chương 3: Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
3.1.Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
- Thống kê chất lượng học môn Vật lý của học sinh trường THPT Như
Thanh còn thấp so với nhiều môn học khác.
- Học sinh trường THPT Như Thanh có chất lượng thi tuyển đầu vào thấp và
khơng đều đặc biệt là chất lượng và năng lực học môn Vật lý.
- Cách tổ chức dạy học tiết “Bài tập” của nhiều giáo viên chưa chú trọng đến
việc phát huy tính tích cực cho học sinh: Trong giờ bài tập, giáo viên gọi một vài
học sinh lên bảng làm bài tập, số cịn lại theo dõi q trình làm bài tập của các học
sinh trên. Việc học sinh không hiểu bản chất của vấn đề, tiếp thu kiến thức một
cách máy móc và thụ động, sau khi học xong các em khơng thấy được mối liên hệ
giữa lí thuyết với thực tế và các tình huống trong các bài tập, do đó kiến thức cũng
bị quên đi nhanh chóng, khả năng giải bài tập vật lý của học sinh bị hạn hẹp và khó
khăn cho việc hình thành phương pháp giải các dạng bài tập vậy lý ở học sinh.
- Thiết kế tiết dạy “Bài tập” trong các tài liệu thường khơng có hoặc nếu có
cũng khơng có sự khái quát về từng vấn đề nên học sinh khó có thể nêu lên được
phương pháp giải bài tập liên quan.


- Đa số bài tập ở sách giáo khoa chỉ dừng lại ở mức độ củng cố và còn thiếu
so với lượng kiến thức đã nêu trong lý thuyết. Do đó, học sinh khá, giỏi khơng thể
phát huy được hết khả năng; học sinh ở mức độ trung bình trở xuống thì bế tắc khi
gặp dạng bài tập khác.
- Nhiều giáo viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong lựa chọn và phân loại bài
tập.

3.2 Nguyên nhân, khó khăn chung của thực trạng.
- Tiết bài tập rất khó dạy ở chỗ khơng có một thiết kế nào cụ thể, phải tuỳ
thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh, của chương trình. Nếu khơng xác định
đúng mục tiêu rất dễ đi vào sự đơn điệu.
- Về khả năng tư duy của học sinh: một số học sinh quen lối tư duy cụ thể, ít
tư duy lơgic, trình độ tư duy trừu tượng chậm; khi gặp một sự vật, hiện tượng nào
đó thường chỉ chú ý đến bề ngoài. Các em chưa có thói quen lao động trí óc, ngại
suy nghĩ, gặp những tình huống khó thường trơng chờ sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hệ thống sách tham khảo tràn lan khiến các em không biết chọn lựa tài liệu
phù hợp.
Chương 4: Biện pháp, giải pháp để thực hiện đề tài.
Theo quan điểm của tôi, tiết bài tập vật lý không phải là tiết học để giáo viên
gọi học sinh lên bảng làm bài tập lấy điểm mà là tiết dạy để giáo viên hướng dẫn
học sinh phương pháp giải các dạng bài tập vật lý có liên quan đến phần kiến thức
đã học ở các tiết lý thuyết trước đó. Muốn phát huy tính tích cực hoạt động nhận
thức của học sinh trong dạy - học tiết bài tập, giáo viên vật lý cần phải căn cứ vào
nội dung, mục đích, phương tiện dạy học và trình độ của học sinh mà lựa chọn loại
bài tập, cách hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh giải bài tập thành công và tạo điều
kiện cho họ nắm được các phương pháp giải. Vì vậy, giáo viên cần thực hiện tốt và
chú ý phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh ở tất cả các công đoạn sau đây:
a. Chuẩn bị bài tập:
Để có một tiết dạy tốt cần có sự chuẩn bị bài tập thật chu đáo. Trước mỗi tiết
bài tập có nhiều tiết lý thuyết, trong mỗi đơn vị kiến thức của lý thuyết cần nêu bật
được nội dung chính, đưa ví dụ minh họa để từ đó hình thành phương pháp giải bài
tập về loại vấn đề đó.
Ví dụ: Trong bài Cấu tạo của hạt nhân nguyên tử, sách Vật lý 12 Nâng cao có trình
bày: hạt nhân có năng lượng liên kết riêng càng lớn thì càng bền vững.
2
Giáo viên cho học sinh tính năng lượng liên kết riêng của hai hạt nhân 1 D và
3

1T , sau đó so sánh mức độ bền vững của các hạt nhân thông qua việc so sánh năng
lượng liên kết riêng của chúng .
Cuối mỗi tiết lý thuyết nên dành một thời lượng vừa phải để rút ra dạng bài
tập của bài học hơm đó, chỉ ra bài tập tương ứng để học sinh về làm.


Khi đến tiết bài tập, giáo viên nên lựa chọn loại và số lượng bài tập phù hợp
(không nhất thiết phải là các bài tập ở sách giáo khoa). Hệ thống bài tập phù hợp
với trình độ học sinh sẽ phát huy tốt tính tích cực nhận thức cho học sinh, lơi cuốn
được nhiều học sinh tham gia q trình giải bài tập, giờ học sẽ không nhàm chán
và đơn điệu. Sau tiết học, học sinh tối thiểu giải được các bài tập cơ bản trong sách
giáo khoa.
Hệ thống bài tập được lựa chọn phải thoả mãn các yêu cầu sau:
- Để kích thích hứng thú của học sinh, các bài tập phải đi từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp về phạm vi và số lượng các kiến thức, kỹ năng cần vận
dụng, số lượng các đại lượng cho biết và các đại lượng cần phải tìm… các bài tập
này phải vừa sức và phù hợp với từng đối tượng các lớp.
- Mỗi bài tập phải là một mắt xích trong hệ thống bài tập, đóng góp vào việc
củng cố, hoàn thiện và mở rộng kiến thức cho học sinh. Giúp học sinh nắm được
phương pháp giải các bài tập điển hình.
- Hệ thống bài tập được chọn giải giúp học sinh nắm được phương pháp giải
từng loại bài tập cụ thể và “bao” được phương pháp giải nhiều bài tập trong sách
giáo khoa để sau khi giải bài tập này học sinh có thể giải được các bài tập trong
sách mà trước đó các em cịn lúng túng hoặc chưa giải được. Nếu hệ thống bài tập
trong sách giáo khoa đã tốt thì lấy ngay bài tập trong sách.
- Để kích thích hứng thú, một điều quan trọng của tính tích cực của học sinh
nên chọn những bài tập có những nội dung thực tế, đó là những bài tập liên quan
trực tiếp đến đời sống, kỹ thuật sản xuất và lao động của học sinh.
- Cũng cần chọn những bài tập nâng cao, mở rộng một vấn đề, khía cạnh
nào đó trong phạm vi kiến thức đã học, những bài tập mang yếu tố nghiên cứu,

nhằm giúp học sinh khá, giỏi phát triển tư duy đồng thời phát huy tính tích cực,
sáng tạo. Đó là những bài tập muốn giải được học sinh phải suy nghĩ, phân tích tỉ
mỉ, cẩn thận chứ khơng thể áp dụng một cách máy móc các cơng thức vật lý.
- Chuẩn bị phiếu học tập (nếu cần) để kiểm tra, củng cố sự tiếp thu của học
sinh; thống kê những những thiếu sót, rút kinh nghiệm cho các tiết sau.
Từ những yêu cầu đó, cần cho học sinh bắt đầu việc giải bài tập về một đề tài
bằng những bài tập định tính hay bài tập tính tốn tập dượt các bài tập cơ bản, tối
thiểu ứng với từng kiến thức cơ bản. Sau đó mới đến các bài tập tính tốn tổng hợp,
bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm và những bài tập phức tạp hơn để bồi dưỡng tư
duy cho học sinh khá, giỏi, trong đó phải lưu ý đến những dạng bài tiêu biểu của
kiến thức cần vận dụng.
Như vậy bước chuẩn bị đóng vai trị rất quan trọng cho tiết lên lớp sau này.
b/ Soạn bài :
Xác định cho được mục tiêu của tiết dạy: Sau tiết học, học sinh phải hiểu và
vận dụng những kiến thức, kỹ năng và giải được dạng bài tập nào. Tuỳ theo trình
độ của từng lớp học mà có thể giảm bớt hay tăng thêm một số yêu cầu.


c/ Thực hiện tiết lên lớp: Hướng dẫn học sinh giải bài tập theo hướng phát huy tính
tích cực hoạt động nhận thức của học sinh.
Mỗi bài tập vật lý nghiên cứu một hoặc một số vấn đề trong một tình huống cụ
thể, do đó khơng thể có một phương pháp chung, vạn năng để giải quyết mọi bài
tập vật lý. Tuy nhiên, tiến trình giải các bài tập vật lý cũng có nhiều hoạt động
chung và đều trải qua các bước: tìm hiểu đề bài; phân tích hiện tượng, quá trình vật
lý trong bài tập rồi dựa vào kiến thức vật lý, tốn học để tìm mối liên hệ trực tiếp
giữa cái phải tìm với cái đã cho để lập kế hoạch giải; trình bày lời giải; kiểm tra,
biện luận kết quả.
Giáo viên có thể thực hiện tiết lên lớp theo các hoạt động chính sau đây:
Hoạt động 1: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. Củng cố lý thuyết.
- Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh về việc nắm vững lý thuyết và giải bài tập

được giao về nhà: Giáo viên giúp học sinh nhớ lại kiến thức cơ bản mới học cần
luyện tập và điều chỉnh sai lệch. Để thực hiện hoạt động này, giáo viên nên đặt câu
hỏi phát vấn về các vấn đề cần luyện tập rồi yêu cầu cá nhân học sinh trả lời, học
sinh khác bổ sung. Cuối cùng giáo viên nhận xét và cho điểm.
- Giáo viên giải thích thêm một số vấn đề mà học sinh thắc mắc.
- Giáo viên khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái quát các dạng bài tập cơ bản.
Hoạt động 2: Hướng dẫn phương pháp giải các dạng bài tập.
Đây là hoạt động trọng tâm và chiếm nhiều thời gian nhất của tiết học. Hoạt
động này đánh giá vai trò hướng dẫn của thầy, quyết định trong việc phát triển tư
duy vật lý, việc nắm được phương pháp, kĩ năng giải bài tập vật lý và đánh giá tính
tích cực hoạt động của học sinh.
Giáo viên nêu đề bài tập và yêu cầu học sinh:
- Tìm hiểu và tóm tắt đầu bài:
* Đọc kỹ đầu bài.
* Ghi các đại lượng đã cho và cái phải tìm bằng các ký hiệu quen dùng.
* Đổi đơn vị của các đại lượng đã cho về đơn vị phù hợp.
Tìm hiểu đầu bài khơng phải là đọc đi đọc lại nhiều lần mà phải hiểu cặn kẽ
và có thể phát biểu lại đầu bài một cách ngắn gọn, chính xác từ đó học sinh có thể
tóm tắt đầu bài bằng các kí hiệu hoặc bằng hình vẽ.
- Nhận diện bài tập và những kiến thức cần vận dụng để giải bài tập.
* Yêu cầu học sinh phân tích đề bài: mơ tả được hiện tượng, q trình Vật lý
xảy ra trong đề bài. Nêu được các quy tắc, các định luật chi phối hiện tượng, q
trình đó tức là tìm ra cách giải quyết bài tập và đề xuất phương án giải.
* Cho lớp nhận xét, bổ sung phương pháp giải khác (nếu có). Cuối cùng giáo
viên nhận xét, khẳng định lại hướng giải và lập sơ đồ định hướng tư duy trên bảng
(đối với học sinh yếu và trung bình).


Để có thể lơi cuốn cả lớp tích cực, chủ động trong hoạt động này, giáo viên

phải cho cả lớp thảo luận, phân tích đề bài, nghiên cứu các dữ kiện, các ẩn số, xác
lập các mối quan hệ cơ bản để giải bài tập và thống nhất tiến trình các bước giải.
- Giải bài tập trên bảng:
* Sau khi đã thống nhất tiến trình các bước giải, giáo viên gọi một hoặc một
nhóm học sinh lên bảng trình bày lời giải, các học sinh khác làm vào vở nháp rồi
đối chiếu kết quả của mình với kết quả của học sinh trên bảng.
Với cách tổ chức giải bài tập như vậy, học sinh thực sự trở thành người trong
cuộc, phải suy nghĩ tìm tịi, đưa ra cách giải hoặc bình luận cách giải và tiến hành
các cơng việc cụ thể của việc giải một bài tập vật lý. Cách tổ chức này cũng kết hợp
được sức mạnh cá nhân và sức mạnh tập thể, vì trong quá trình giải bài tập mỗi học
sinh có thể gặp khó khăn ở một số khâu nào đó, qua thảo luận, trao đổi với tập thể
lớp và giáo viên thì học sinh có thể tự vượt qua khó khăn đó, đồng thời qua thảo
luận mỗi học sinh lại có điều kiện tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm của mình, từ đó
tự sửa chữa, hoàn chỉnh cả về kiến thức và cách thức hành động của bản thân.
* Sau khi học sinh lên bảng đã giải xong, giáo viên cho học sinh khác nhận
xét, đánh giá bài giải theo hướng:
Kiểm tra kết quả: có đúng khơng? Vì sao? Có phù hợp với thực tế khơng?
Kiểm tra lại các phép tính và cuối cùng đưa ra đáp số chính xác.
Nếu có điều kiện có thể tìm lời giải khác (nếu có). Kiểm tra xem có cịn con
đường nào ngắn hơn khơng?
* Giáo viên sửa các sai sót, giải đáp thắc mắc, tổng kết phương pháp và nhắc
nhở những điểm đáng lưu ý (phương pháp giải chung và riêng đối những bài tốn
có giá trị đặc biệt).
Bước phân tích hiện tượng, q trình vật lý và lập kế hoạch giải là bước quan
trọng nhất của quá trình giải một bài tập vật lý, là then chốt trong việc đánh giá tư
duy học sinh. Trong bước này cần có sự định hướng, hỗ trợ nhiều của giáo viên,
mức độ cụ thể của bước này phải tùy theo năng lực của từng lớp học sinh.
Sau khi đã nắm được phương pháp giải các bài tập cơ bản thì việc giải các bài
tập tương tự nên để học sinh tự giải. Việc tự lực giải bài tập sẽ giúp học sinh rèn
luyện được kỹ năng, kỹ xảo. Trong khi học sinh tự lực giải các bài tập, giáo viên

cần theo dõi, giúp đỡ từng học sinh khi gặp khó khăn. Sự giúp đỡ này thực hiện
bằng cách trao đổi trực tiếp giữa giáo viên và học sinh nhưng khơng được làm mất
đi tính tự chủ của học sinh khi được giúp đỡ.
Hoạt động 3: Củng cố, đánh giá. Giao nhiệm vụ về nhà.
- Giáo viên hệ thống lại các dạng bài tập và các kiến thức cần để giải các bài
tập đó, lưu ý các câu trong bài tập vừa giải quyết cùng dạng với bài tập nào trong
sách giáo khoa và yêu cầu học sinh về nhà giải lại nếu trước đó chưa làm được.
- Tuỳ theo nội dung của kiến thức và thời gian có thể mở rộng thêm câu hỏi
cho học sinh khá, giỏi hoặc cho phiếu học tập kiểm tra sự tiếp thu của học sinh.


- Nhận xét tiết học, hướng dẫn bài mới.
- Giao bài tập về nhà: Các bài tập được giao về nhà cho học sinh ở đây là
những bài tập tương tự các bài tập đã giải và các bài tập phức hợp có một vài yếu tố
mới lạ, để học sinh có điều kiện giải các bài tập vật lý một cách tích cực.
Sau đây, tơi xin trình bày ví dụ về cách tổ chức dạy - học của một tiết “Bài tập”
mà tôi đã được đánh giá cao trong kỳ thi giáo viên dạy giỏi: “BÀI TẬP VỀ GHÉP
TỤ ĐIỆN (Vật lý 11NC)” . Giáo án này được thực hiện ở tiết 11 theo PPCT của SỞ GD và
ĐT Thanh Hóa.
BÀI TẬP VỀ GHÉP TỤ ĐIỆN (Vật lý 11NC).
I.MỤC TIÊU:
1. Củng cố kiến thức.
- Học sinh nắm vững được hai cách ghép tụ điện cơ bản.
- Học sinh nắm vững được các cơng thức tính điện dung và điện tích của bộ tụ
điện trong mỗi cách ghép.
- Học sinh nắm vững được, trong kỹ thuật - đời sống và trong một tình huống
cụ thể, khi nào cần ghép tụ nối tiếp hoặc song song.
2. Rèn luyện kỹ năng.
- Có kỹ năng vận dụng được cơng thức tính điện dung của bộ tụ và điện tích
của bộ tụ điện trong mỗi cách ghép.

- Có kỹ năng nhận biết được cách ghép bộ tụ điện để đáp ứng yêu cầu bài
toán hoặc của thực tế và kỹ thuật.
- Kỹ năng phân tích tổng hợp.
3. Thái độ.
- Tích cực tham gia giải bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Có thái độ nghiêm túc, trung thực, cẩn thận, cần cù trong học tập.
- Chủ động vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
II. CHUẨN BỊ.
1. Học sinh:
- Nắm vững các kiến thức cơ bản: Hai cách ghép tụ điện cơ bản; các cơng
thức tính điện dung của bộ tụ và điện tích của bộ tụ trong mỗi cách ghép; mối liên
hệ giữa các hiệu điện thế ở hai đầu mỗi tụ trong mỗi cách ghép.
- Làm các bài tập đã cho về nhà, rút ra phương pháp giải từng loại bài tập đó.
2. Giáo viên: Lập kế hoạch lên lớp
- Chuẩn bị bài tập cần chữa, tham khảo liên quan đến nội dung bài học.
- Phân tích phương pháp giải các bài tập cụ thể.
Bài tập: Cho ba tụ điện có điện dung lần lượt là:
C1 = 5 µF; C2 = 5µF; C3 = 10 µF và một nguồn điện có hiệu điện thế UAB = 40V.
1. Trường hợp các tụ ghép song song với nhau. Tính điện dung của bộ tụ điện.


2. Trường hợp các tụ ghép nối tiếp với nhau. Tính điện dung của bộ tụ điện.
3. Trường hợp các tụ mắc thành bộ tụ rồi mắc vào nguồn theo sơ đồ hình vẽ. Hãy:
a. Tính điện dung của bộ tụ điện.
C1
b. Tính điện tích và hiệu điện thế ở mỗi tụ điện.
A C3
c. Tụ C3 bị đánh thủng. Tính điện tích và hiệu
B
điện thế tụ C1, C2.

d. Tụ C1 bị đánh thủng. Tính điện tích và hiệu
C2
điện thế tụ C3, C2.
(Trong đó, các ý 3.c và 3.d, giáo viên không đưa ngay ra đối với tất cả các lớp
học sinh và không nên nêu ra từ đầu tiết học mà chỉ dành để phát triển tư duy, năng
lực bộ môn đối với học sinh khá, giỏi. Giáo viên chỉ nêu ra sau khi chắc chắn rằng
học sinh đã nắm chắc phương pháp giải và giải được các câu trước đó; các câu này
có thể cho học sinh làm tại lớp hoặc làm ở nhà nếu khơng cịn đủ thời gian).
A. Phân tích đầu bài:
Cái đã cho: C1 = 5 µF; C2 = 5µF; C3 = 10µF; nguồn điện có UAB = 40V và cách
ghép các tụ trong các trường hợp.
Cái cần tìm: Điện dung của bộ tụ điện; điện tích và hiệu điện thế của mỗi tụ
điện (ý 3.a và 3.b). Các ý 3.c và 3.d cần tìm hiệu điện thế và điện tích của các tụ
cịn lại khi có một tụ bị đánh thủng.
B. Định hướng tư duy cho học sinh:
Để trả lời được các câu hỏi của bài tốn dạng này, ta phải nắm vững được
cơng thức tính điện dung của bộ tụ khi ghép nối tiếp và song song; mối liên hệ giữa
hiệu điện thế và điện tích của các tụ trong mỗi cách ghép.
Từ đó dựa vào các công thức vừa nêu ta sẽ suy ra được cái cần tìm.
C. Lập kế hoạch giải:
1. Từ cơng thức tính điện dung của bộ 3 tụ ghép song song, thay số tìm được Cb.
2. Từ cơng thức tính điện dung của bộ 3 tụ ghép nối tiếp, thay số tìm được Cb.
3. Nhìn vào mạch tụ ta viết được sơ đồ ghép tụ: (C1//C2) nt C3
a. Tính điện dung C12 của nhóm tụ điện: (C1//C2).
Sau đó, coi bộ tụ gồm C12 và C3 ghép nối tiếp với nhau và tính Cb.
b. Dựa vào liên hệ giữa hiệu điện thế và điện tích của các tụ trong cùng một bộ
tụ điện để tính tốn.
Chú ý: quan sát sơ đồ ghép tụ ta thấy nếu cần tính điện dung bộ tụ thì theo sơ
đồ ghép tụ ta sẽ tính điện dung tương đương từ nhóm tụ trong cùng tính ra, cịn tính
hiệu điện thế và điện tích của các tụ thì làm theo trình tự ngược lại.

D. Lời giải:
1. Ta có: C1//C2//C3 nên:
Cb1 = C1 + C2 + C3 = 5 + 5 + 10 = 20 (µF).
1

1

1

1

1
2. Do C1 nt C2 nt C3 nên: C = C + C + C = ⇒ Cb2 = 2 (µF)
2
b2
1
2
3
3. Sơ đồ ghép tụ: (C1//C2) nt C3

1

5

2

6

4


3


a. Ta có: C12 = C1 + C2 = 5 + 5 = 10 (µF).
C12 .C 3

10.10

Cb3 = C + C =
= 5 (µF).
10 + 10
12
3
b. Ta có: Qb3 = Cb3 . U = 5. 40 = 200 (µC).
Q12 = Q3 = Qb3 = 200 (µC).
Q12

200

Mặt khác: U1 = U2 = U12 = C =
= 20 (V).
10
12
Do C1 = C2 nên Q1 = Q2 = C1 . U1 = 5. 20 = 100(µC).
c. Khi tụ C3 bị đánh thủng, nó trở thành vật dẫn và có vai trị như một dây dẫn
trong mạch, khi đó mạch điện chỉ cịn hai tụ C1 và C2 mắc song song. Do đó:
U1 = U2 = U = 40 V
và Q1 = Q2 = C1 . U = 5. 40 = 200(µC).
d. Khi tụ C1 bị đánh thủng, nó trở thành vật dẫn, hiệu điện thế hai đầu C 1 có giá
trị bằng 0. Ta có: U1 = U2 = 0. Mạch tụ điện cịn lại tụ C3 nối vào nguồn. Do đó:

U3 = U = 40 V
và Q3 = C3 . U3 = 10. 40 = 400 (µC); Q2 = 0.
(Có thể thực hiện tính tốn theo cách khác).
III. DỰ KIẾN TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
Đặt vấn đề: Trong đời sống và kỹ thật, khi cần sử dụng tụ điện, nếu ta khơng
sẵn có tụ điện có giá trị điện dung và hiệu điện thế tối đa cho phép sử dụng phù hợp
yêu cầu, ta có thể tận dụng các tụ điện có sẵn bằng cách ghép các tụ thành một bộ
tụ điện. Có hai cách ghép tụ cơ bản là ghép nối tiếp và ghép song song. Lí thuyết về
hai cách ghép này chúng ta đã nghiên cứu ở tiết học trước, hôm nay chúng ta sẽ vận
dụng lí thuyết đó vào việc giải các bài tập về ghép tụ điện để củng cố lý thuyết và
hiểu rõ sự cần thiết, cũng như hiểu được tác dụng của từng cách ghép tụ.
A. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh (củng cố kiến thức).
Giáo viên nêu yêu cầu, đặt các câu hỏi vấn đáp học sinh. Sau câu trả lời của
mỗi học sinh, giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét rồi xác nhận độ chính xác
của kiến thức, vẽ hình và ghi tóm tắt nội dung ở góc phải của bảng.
GV: Các tụ được nối với nhau như thế nào thì gọi là ghép song song?
GV: Nêu công thức xác định điện tích và hiệu điện thế của bộ tụ điện theo
các đại lượng tương ứng của mỗi tụ.
GV: Nêu công thức tính điện dung của tương đương của bộ gồm n tụ điện
ghép song song với nhau.
GV: Chốt lại nội dung các vấn đề vừa hỏi.
Các tụ được nối với nhau như thế nào thì gọi là ghép nối tiếp?
GV: Nêu cơng thức xác định điện tích và hiệu điện thế của bộ tụ điện theo
các đại lượng tương ứng của mỗi tụ.
GV: Nêu cơng thức tính điện dung của tương đương của bộ gồm n tụ điện
ghép nối tiếp với nhau.


GV: So sánh điện dung của bộ tụ điện và hiệu điện thế đặt vào bộ tụ điện với
các giá trị tương ứng ở mỗi tụ điện trong bộ ở mỗi cách ghép tụ.

HS: Ghép song song thì làm tăng điện dung, không thay đổi hiệu điện thế đặt
vào bộ tụ cịn ghép nối tiếp thì làm giảm điện dung nhưng hiệu điện thế đặt vào bộ
tụ lớn hơn hiệu điện thế đặt vào mỗi tụ.
GV lưu ý học sinh cách tính điện dung của bộ tụ trong trường hợp các tụ có
điện dung bằng nhau.
B. Tiến trình hướng dẫn giải bài tập:
Giáo viên giới thiệu bài tập (Nên chuẩn bị sẵn trên giấy to và dán lên bảng).
Bước 1. Hướng dẫn học sinh phân tích và tóm tắt đề bài
GV: Hãy tóm tắt đầu bài? (Gọi một học sinh lên bảng tóm tắt đề bài, yêu cầu
những học sinh khác theo dõi và cho ý kiến nhận xét)
HS: Thực hiện yêu cầu.
Bước 2.
* Hướng dẫn HS tìm phương hướng giải câu 1 và 2.
GV: Dựa vào kiến thức nào để tính điện dung của bộ 3 tụ điện ghép song
song và bộ 3 tụ ghép nối tiếp?
HS: Dựa vào cơng thức tính điện dung của bộ tụ điện.
Bước 3. Hướng dẫn học sinh trình bày cụ thể bài tập (gọi hai học sinh lên bảng
trình bày, mỗi học sinh trình bày một ý; các học sinh khác làm vào giấy nháp).
Bước 4. Hướng dẫn HS nhận xét kết quả và sau đó xác nhận kết quả đúng.
* Hướng dẫn HS tìm phương hướng giải câu 3.a.
GV: Để tính được điện dung của bộ tụ điện trước hết ta phải xác định được các tụ
ghép với nhau theo cách nào. Hãy cho biết cách ghép các tụ điện trong mạch (cho học
sinh thảo luận theo bàn để tìm câu trả lời)?
Với câu hỏi này, học sinh khá, giỏi có thể trả lời được ngay nhưng học sinh trung
bình, yếu có thể không trả lời được. Giáo viên tiếp tục hướng dẫn.
GV: Dựa vào hình vẽ hãy chia bộ tụ ban đầu thành các nhóm mà trong mỗi
nhóm các tụ chỉ ghép với nhau theo một cách (hoặc nối tiếp, hoặc song song), sau đó
xác định cách ghép các nhóm với nhau và viết sơ đồ ghép tụ. Các em hãy áp dụng vào
bài tập.
HS: Thực hiện yêu cầu và tìm câu trả lời.

GV: Bây giờ làm thế nào để tính được điện dung của bộ tụ điện?
HS: Tính điện dung tương của C1 và C2 rồi sau đó tính điện dung của bộ tụ (coi
C12 nối tiếp với C3).
Bước 3. Hướng dẫn học sinh trình bày cụ thể bài tập (gọi một học sinh lên bảng
trình bày; các học sinh khác làm vào giấy nháp).
Bước 4. Hướng dẫn HS nhận xét kết quả và sau đó xác nhận kết quả đúng.
GV: Đây là loại bài tập tính điện dung của bộ tụ điện, qua phân tích và giải bài
tập cụ thể này các em có thể đưa ra phương pháp chung để giải bài tập loại này không?


HS: Để giải bài tập loại này, chúng ta tiến hành các bước cơ bản sau:
Bước 1: Xác định cách ghép tụ (ghép nối tiếp hay song song, nếu mạch tụ
ghép hỗn hợp thì phải chia mạch thành các nhóm nhỏ mà trong mỗi nhóm các tụ
ghép với nhau chỉ theo một cách ghép cơ bản: hoặc nối tiếp, hoặc song song). Viết
sơ đồ ghép tụ.
Bước 2: Vận dụng công thức tính điện dung tương đương của bộ tụ để tìm
mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm. Chú ý theo sơ đồ ghép tụ, ta tính điện
dung tương đương từ nhóm ở trong tính dần ra.
Bước 3: Luận giải, tìm ra kết quả.
GV: Xác nhận lại các bước giải trên.
* Hướng dẫn HS tìm phương hướng giải câu 3.b
GV: Dựa vào kiến thức nào để tính điện tích và hiệu điện thế của mỗi tụ điện?
HS: Dựa vào cơng thức tính điện tích của bộ tụ, cơng thức liên hệ giữa các
điện tích của các tụ trong bộ và điện tích của bộ tụ, cơng thức liên hệ giữa hiệu điện
thế và điện tích ở mỗi tụ.
Với học sinh trung bình và yếu có thể khơng trả lời được, giáo viên hướng dẫn
các em nhìn vào sơ đồ ghép tụ và tính các đại lượng trên từ ngồi tính dần vào.
Bước 3. Hướng dẫn học sinh trình bày cụ thể bài tập (gọi một học sinh lên bảng
trình bày; các học sinh khác làm vào giấy nháp).
Bước 4. Hướng dẫn HS nhận xét kết quả và sau đó xác nhận kết quả đúng.

Chú ý rằng bài tồn này có giá trị đặc biệt (C1 = C2 = C3 /2) nên nếu học sinh vận
dụng điều này để tính tốn thì giáo viên vẫn phải định hướng để học sinh rút ra phương
pháp chung cho các trường hợp khác. Còn nếu học sinh dùng phương pháp chung để
tính tốn thì giáo viên lại phải chỉ cho các em cách tính theo giá trị đặc biệt này.
(Câu 3.c và 3.d chỉ đưa ra với học sinh khá, giỏi để các em độc lập suy nghĩ và
nêu hướng giải).
C. Tổng kết và đưa ra phương pháp tổng quát để giải bài tập loại này.
GV tổng kết lại phương pháp chung và các bước giải bài tốn tính điện dung
tương đương của bộ tụ điện và bài tốn tính điện tích tụ điện, hiệu điện thế hai đầu
mỗi tụ trong bộ tụ điện. Sau đó nhắc nhở học sinh: Câu 1, 2 và 3a cùng dạng với
các bài tập 1, 2, 7 và 8a; câu 3b cùng dạng với các bài 3 và 8b (Sách giáo khoa).
Yêu cầu những học sinh chưa làm được các bài tập trong SGK nói trên về nhà làm
lại.
D. BTVN:
- Các bài tập: 1.54; 1.58; 1.59; 1.60 và 1.61 (Sách bài tập vật lý).
- Dặn dò: Tiếp tục làm bài tập về tụ phẳng, năng lượng điện trường và ôn tập.


Chương 5: Kết quả đạt được của đề tài.
- Trên đây là một số ý kiến của cá nhân tôi xung quanh việc làm thế nào để phát
huy tính tích cực hoạt động của học sinh trong giờ bài tập vật lý, để giáo viên tạo
được một khơng khí tốt cho tiết học từ đó giúp học sinh nắm được phương pháp giải
các dạng bài tập trong sách giáo khoa, phát triển tư duy vật lý và kích thích hứng thú
học tập vật lý của học sinh.
- Tôi đã áp dụng cho nhiều loại đối tượng học sinh ở các lớp ban KHTN, ban
cơ bản A và các lớp học chương trình cơ bản thì thấy các em rất hứng thú trong giờ
bài tập; nhờ đó tư duy vật lý, khả năng vận dụng lý thuyết vật lý vào thực tiễn, vào
các bài tập của các em tăng lên rất nhiều và do đó nhiều em u thích mơn Vật lý
hơn hoặc cũng khơng cịn tâm lý chán ghét, ngại học môn Vật lý nữa. Đáng mừng
hơn là hiệu quả giải bài tập đối với những lớp học sinh này cũng tốt hơn rõ rệt, điều

này được thể hiện rõ qua kết quả kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kỳ; kết quả
thi học kì, thi HSG cấp trường, cấp tỉnh của học sinh ở các lớp mà tôi trực tiếp
giảng dạy.


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Tiết bài tập là tiết học quan trọng, giúp học sinh củng cố được lý thuyết, hiểu
sâu hơn những vấn đề trừu tượng của Vật lý. Rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho
học sinh theo hướng phát huy tính tích cực hoạt động để học sinh chủ động trong
học giờ “Bài tập” là điều không thể thiếu khi học Vật Lý. Tiết bài tập vật lý tổ
chức tốt và có hiệu quả góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy
học của bộ môn Vật lý.
2. Kiến nghị:
a/ Với cấp Bộ:
- Tăng thời lượng học môn Vật lý để tăng tiết “Bài tập” trong chương trình.
- Bài tập ở sách Bài tập vật lý nên phân theo từng chủ đề của bài học, không
nên đưa bài tập của cả chương và sắp xếp không theo thứ tự bài học của Sách giáo
khoa.
b/ Với lãnh đạo trường và tổ chuyên môn:
- Tăng thêm tiết bài tập cho ban cơ bản bằng cách dùng các tiết tự chọn hợp lý
và phù hợp với đặc điểm của từng lớp học.
Đề tài này được viết theo ý chủ quan của riêng cá nhân tôi, tuy đã có kiểm
nghiệm qua thực tế giảng dạy và thu được những kết quả khả quan, nhưng chắc
chắn chưa thể hồn thiện được. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến trân thành
của hội đồng khoa học và các bạn đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân thành cám ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 04 năm 2013

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết.

Lê Thị Hoa




×