Tải bản đầy đủ (.pdf) (256 trang)

Á đông tạp bệnh luận bản nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 256 trang )


1

VIỆT NHÂN LƯU THỦY




Á ĐÔNG
TẠP BỆNH LUẬN
BẢN NGHĨA

- Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh
- Bản Nghĩa : Việt Nhân Lưu Thủy
- Người dịch : Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu
- Biên tập : Lương Y Lâm Văn Sơn
- Đánh máy : Nhan Ngọc Tấn




Phục bản 2012 : Huỳnh Hiếu Nghị
2006 - 2012

2

DANH SÁCH *





THÀNH VIÊN NHÓM HỌC TẬP
ĐÔNG Y HÁN VIỆT
***

1- Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu
2- Cư sĩ Phạm Văn Nam
3- Lương Y Hoàng Văn Anh
4- Lương Y Nhan Thành Huê
5- Lương Y Lâm Văn Sơn
6- Bác Sĩ Đinh Việt Thức
7- Lương Y Bùi Huy Giám
8- Ktv Nhan Ngọc Tấn




___________________________
*Theo thứ tự thời biểu tham gia nhóm.


3

LỜI NGƯỜI DỊCH
_____________________

Đức Trọng Cảnh làm sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận chỉ có chung một bài tựa,
Ngài còn nói “hiệp thành 16 quyển”. Chứng tỏ Ngài chỉ làm một bộ sách, một bộ Thái Cực Luận
bệnh gồm :
Nhất Dương là Thương Hàn Luận, nói về Thái Dương làm bệnh, Thái Dương là
Dương Hàn làm bệnh tại Biểu, Dương bị Thương bởi Hàn mà bệnh nên sách gọi là Thương Hàn.

Nhất Âm là Tạp Bệnh Luận, nói về Thiếu Âm làm bệnh, Thiếu Âm là Âm Nhiệt làm
bệnh tại Lý, vì Âm tính đa đoan, phức tạp, nghĩa này đã từng tỏ lộ ở Kinh Dịch cho nên gọi là
Tạp Bệnh.
Như vậy 2 sách này không thể đọc xa rời nhau và cái nghĩa “Nhất Âm Nhất Dương chi vi
Đạo “ đã được tác giả cụ thể tuân thủ.
Người đời sau đổi tên Tạp Bệnh Luận thành “Kim Quỷ Yếu Lược” chẳng những không
hiểu thâm nghĩa của chữ Tạp mà còn không thấy được ý nghĩa làm sách của Trọng Sư, khiến cho
Tiên sinh Việt Nhân Lưu Thủy phải chê trách nơi lời tựa.
Chúng tôi do tuân thủ ý nghĩa làm sách này, cho nên dịch thuật, trình bày cũng y theo
phương thức đã làm tại Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, nói rõ nơi phàm lệ của sách, ở đây không
lập lại.
Ước mong các bằng hữu từng đọc sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, tiếp tục đọc sách
này cho khỏi thiếu xót. Trước khi đọc sách này nên đọc Thương Hàn Bản Nghĩa, mới mong thấu
rõ cội nguồn truyền thống của Đông Y.

Quý Thu năm Ất Dậu 2005
Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu




4

Tiểu sử Cụ Lưu Thủy
Nguyễn Văn Ngôn Tiên Sanh

Cụ Lưu Thủy tiên sanh sinh giờ Thìn, ngày mồng 3 tháng 5 năm Mậu Tý (1887). Sinh
chánh quán tại làng La Thọ, tổng Hạ-Nông phủ Viện-Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay đổi lại là: thôn
La Thọ, xã Thanh Phong, quận Điện Bàn, Quảng Nam.
Thân sinh của Cụ là ông Nguyễn Văn Ý, xuất thân trong hàng Nho Giáo, học vấn uyên

thâm, đậu tiếp 3 khoa Tú Tài, học trò theo học rất đông, thành đạt rất nhiều.
Cụ Lưu Thủy nhờ nền nếp nhà nho, học hành mau giỏi, 16 tuổi đã vào trường Đốc học
tỉnh, 19 tuổi khoa ngọ thi hương,, Cụ đậu đến trường nhì, vào đặng trường ba, rồi kế tiếp học
sanh tại trường tỉnh. Tài hoa lổi lạc, nhưng chẳng gặp thời.
Ngay lúc bây giờ, văn học nước nhà chia phôi nhiều nẽo; Âu Á trộn nhầu, nửa cũ nửa mới,
lăn xăn không nhứt định. Cụ đành quyết chí vào Nam, trãi khắp sơn lam thắng cảnh, dưa muối
một bầu, tìm đường giải thoát; lúc bây giờ Cụ lo lễ Phật tụng kinh, đánh chuông gõ mỏ.
Cụ để tâm nghiên cứu Triết lý nhà Phật, có hồi ở Nam bộ giảng kinh, cũng có lúc về Quảng
Nam thuyết pháp. Cụ thường vãng du giao thiệp với chùa Chúc Thánh Hội An, và chùa Phổ
Thiên Đà Nẳng. Các chùa ở Quảng Nam, cử Cụ làm thượng tọa thuyết pháp.
Cụ ăn chay, niệm Phật, thường khảo cứu kinh Phật sách Nho, đặng rõ thấy cái thâm ý của
Thánh hiền xưa, lấy sự độ sanh làm mục đích, và lấy sự cứu thế làm phương châm.
Sẵn nền Nho học, nên Cụ hết lòng nghiên cứu các sách thuốc Đông Y; trãi 36 năm đăng
đẳng, đã lắm công phu.

5

Ngoài Tố Vấn, Nan Kinh, Cụ chăm ý nhứt tìm tâm cởi mở. Các sách Thương Hàn Luận và
Tạp Bệnh Luận của Thánh y Trương Trọng Cảnh; ấy là tinh lực trong một đời của Cụ đó.
Cụ chú thích luận Thương Hàn và luận Tạp Bệnh, nhơn khi chưa bệnh, mà đã biết trước
lúc ốm đau, nhơn sự ốm đau, mà ấn định chứng bệnh để mà trị bệnh đó. Ấy là pháp môn rất
giản tiện về sự nhận bệnh và trị bệnh vậy.
Cụ chú thích 2 bộ sách Thương Hàn và Tạp Bệnh đã thành trãi nhiều phen lo xuất bản, mà
chưa kịp; Bị tuổi cao, thân già, sức yếu, Cụ giao 2 bộ sách đó cho quý liệt vị NAM DƯƠNG HỌC
PHÁI, gia tâm nghiên cứu thêm, để lần lần xuất bản.
Ấy là tâm chí mong muốn của Cụ đó.
Giờ Mùi,ngày 21,tháng 9, năm Giáp Thìn.Tức là 3 giờ chiều,ngày 26,tháng 10, năm 1964.
Cụ tiêu diêu về nước an dưỡng. Hưởng thọ 78 tuổi.
Qua giờ Thìn, ngày 23, tháng chín, năm Giáp Thìn.Tức là 10 giờ sáng, ngày 28, tháng 10
năm 1964. Ninh thố Cụ tại Hoa Viên.

Thống tích tai ! Thương Hàn Tạp Bệnh, thượng vị thành công;
Hữu chí đồng tâm, ưng tu nổ lực.
Tạm dịch nghĩa:
Thương thay ! Thương Hàn Tạp Bệnh chữa thành công.
Hữu chí đồng tâm, lo gắng sức.
Ngày mồng 1 tháng 11 năm Giáp Thìn
Tức là ngày 4 tháng 12 năm 1964
Cháu,
Nguyễn Văn Định (tức Giáo Nhự, Hiệu Như Sanh)
Phụng Cung Lục

______________________________________________________________________________
*Lời người dịch: Có nhiều đoạn dông dài hoặc trùng ý với lời tựa của tác giả, xin lược bớt cho
được giản dị.

6

TẠP BỆNH LUẬN BẢN NGHĨA
___________________________________
BÀI TỰA

- Sao gọi là Tạp Bệnh ? – Vì là phản ảnh của Thái Dương.
Tạp Bệnh Luận chủ trương Thiếu Âm, tiết thứ 10 trong chương Thể lệ của luận này đã
nói rõ.
- Sao lại lấy Thái Dương làm chủ ?
Thưa : Thiếu Âm không thể làm chủ. Chủ là ở Thái Dương, tiết thứ 11 tiếp theo đó có
dẫn Nội Kinh rằng : ‘Khuyết Dương độc hành’ là nói cái gì ?
Giải đáp rằng : ‘Đó là có Dương không Âm’ , ý nói rằng Khuyết Dương là Thái Dương Hàn
Khí, trong Dương đã có Âm không cần Thiếu Âm làm ra.


Đọc 2 tiết này (tiết 10 và 11) một chữ Tạp đã mặc nhiên ngụ ý này rồi ! chẳng dè người
đời sau không rõ nghĩa của chữ Tạp, mà xưng là Kim Quỷ, chuộng hư danh mà bỏ mất hiện
thực. Cho nên người chú giải tuy rất nhiều, nhưng đều gãi không đúng chỗ ngứa.
Bởi đó, nên tôi cảm thấy Y Đạo sở dĩ không tiến hành là do không thấu rõ học thuyết Âm
Dương mà ra, Âm Dương không phải là vật vu vơ không thể chỉ đích xác. Luận điều Tam Dương
Tam Âm không thông, thì công dụng của Thái Dương và Thiếu Âm không rõ rệt. Thái Dương
Thiếu Âm không rõ rệt thì tông chỉ Thái Dương thống lãnh tất cả sẽ mù mờ.

Y Đạo đã thiếu cội nguồn thì cái gọi là ‘thực học cứu đời’ ở đâu ?
Cái chi là Tam Dương Tam Âm ?
- Thiếu Dương là Dương mới sinh. – Dương Minh là Dương đã lớn mạnh (tráng Dương). – Thái
Dương là Dương cùng tột, Dương cùng tột rồi Âm sinh, do đó Thái Dương chủ Hàn Khí, một câu
‘Thái Dương Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi.
- Thái Âm là Âm cùng tột. – Khuyết Âm là Âm cùng tột rồi hết. – Thiếu Âm là Âm hết rồi Dương
sinh, do đó Thiếu Âm chủ Nhiệt Khí, một câu ‘Thiếu Âm Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi.

7

Ngoài ra như Thiếu Dương Hỏa Khí, Dương Minh Táo Khí, Thái Âm Thấp Khí, Khuyết Âm
Phong Khí đều theo trong Thái Dương Hàn Khí và Thiếu Âm Nhiệt Khí biến hóa mà ra các thứ
bệnh danh. Sở dĩ như thế là sao ? Bởi Thái Dương Thiếu Âm gồm đủ tính Âm Dương, đủ tính
Hàn Nhiệt, đủ tính căn nguyên của các bệnh tật. Cho nên gọi là Âm Dương, quyết nhiên chỉ là 2
Kinh này (Thái Dương Thiếu Âm).
Thế nào là Thái Dương thống lãnh tất cả ?
- Như trên đã nói, Thái Dương Thiếu Âm đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn Nhiệt. Các Kinh
Khí khác đều thuộc dưới Thái Dương Hàn Khí. Tuy Thiếu Âm có đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn
Nhiệt nhưng không được làm chủ vì chỉ là hóa thân của Thái Dương. Sở dĩ như thế là vì Thái
Dương Thiếu Âm bản lai nhất Kinh, Chủ Hàn chủ Nhiệt bản lai nhất Khí, làm sao biết như thế ? Ở
tiết cứu Biểu cứu Lý trong chương Thể lệ của bản luận đã nêu rõ ý này. Đó là ‘đệ nhất nghĩa’ khi
đọc Thương Hàn Tạp Bệnh Luận.

Hoặc giả hỏi rằng : Thánh xưa cố ý an bày như thế chăng ?
Thưa rằng : cổ thánh ‘gần lấy xa cầu’, theo đó để nhòm thấu chỗ sâu kín của Âm Dương,
thuận lẽ tự nhiên của tính mệnh. Chẳng phải chỉ riêng Y Đạo mới như thế ! thử xem từ xưa đến
nay, người nói Đạo Âm Dương của Trời Đất chưa ai bằng Phục Hy, Văn Vương, tới Khổng Tử viết
Hệ Từ thì là rốt ráo vậy. Xưa nay người nói được Âm Dương trong thân người, chưa ai bằng
Hiên Viên, Kỳ Bá, tới Trọng Cảnh viết Thương Hàn Luận thì là rốt ráo vậy.
Cô Dương không sanh, Độc Âm chẳng lớn, Âm Dương đối lập rồi sau nhân loại mới sinh
tồn. Càn là Kiện Dương, Khôn là Thuận Âm. Âm tất theo Dương rồi sau xã hội mới thành lập. Bởi
Âm Dương đối lập cho nên Thái Dương Thiếu Âm chẳng lúc nào xa rời nhau, đó là tông chỉ của
Thương Hàn Luận. Bởi Âm tất theo Dương, cho nên Thái Dương bao gồm Thiếu Âm, đó là tông
chỉ của Tạp Bệnh Luận.
Âm Dương của cá nhân tức Âm Dương của xã hội. Âm Dương phản nghịch thì xã hội
bệnh, Âm Dương hòa thuận thì xã hội bình, Y Đạo thông với Trị Đạo.
Hỏi rằng : Trọng Cảnh làm luận chủ trương Thái Dương vốn để cứu đời bệnh tật, học
thuyết này nay còn dùng được không ?
Đáp rằng : nơi lời tựa Trọng Cảnh chê trách các Y gia thuận cựu, nói làm thuốc cần phải
tùy thời bệnh tật để thích ứng nhu cầu. Lúc này là lúc nào ? là lúc nhân loại rất hổn tạp ! Bệnh
rất phức tạp ; nên theo phép trị Tạp Bệnh, chủ trương nghiên cứu phản ảnh của Thái Dương,
‘Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa’ còn đó, nay tựa.
Lão Y, 77 tuổi – VIỆT NHÂN LƯU THỦY soạn.

8

TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN I
Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh.
Bản Nghĩa : Việt Nhân Lưu Thủy.
_________________________________
CHƯƠNG 1 : PHỦ TẠNG KINH LẠC TIÊN HẬU
(18 Tiết, từ 1 đến 18)
LUẬN TẠP BỆNH THỂ LỆ

1- Thể Lệ Phủ Tạng truyền Kinh Tiên Hậu.
2- Thể Lệ Kinh Lạc tương truyền Tiên Hậu.
3- Thể Lệ vọng sắc biết được Ngũ Tạng truyền Kinh.
4- Thể Lệ vọng sắc biết Ngũ Tạng mắc bệnh.
5- Thể Lệ văn ngữ thinh biết các Kinh mắc bệnh.
6- Thể Lệ văn tức thinh biết các Lạc mắc bệnh.
7- Thể Lệ văn tức thinh biết các Khí mắc bệnh.
8- Thể Lệ phối hợp bắt mạch vọng sắc biết sự truyền Kinh.
9- Thể Lệ nghiệm thời tiết tương ứng với bệnh tật.
10- Thể Lệ Thiếu Âm làm chủ Tạp Bệnh.
11- Thể Lệ Thiếu Âm vốn là Thái Dương biến tướng.
12- Thể Lệ Kinh Lạc vốn tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng.
13- Thể Lệ Kinh Lạc hành Biểu Lý mà tập trung tại Tấu.
14- Thể Lệ Kinh Lạc thâu tóm trăm bệnh.
15- Thể Lệ Thái Dương Thiếu Âm vốn là một Kinh Khí.
16- Thể Lệ phép trị các Lạc tùy các Kinh.

9

17- Thể Lệ phép trị các Kinh tùy các Khí.
18- Thể Lệ phép trị các Khí tùy các Tạng.

NGUYÊN VĂN (1)
Hỏi rằng : Bậc Thượng công trị ‘vị bệnh’ là thế nào ?
Thầy bảo rằng : Trị ‘vị bệnh’ nghĩa là thấy bệnh ở Can, biết rằng Can sẽ truyền cho Tạng chưa
bệnh là Tỳ. Nên trước phải làm cho Tỳ mạnh lên.
Bốn tháng Quí Tỳ vượng không thọ Tà, chớ nên bổ nó.
Bậc Trung công không hiểu lệ tương truyền, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ
mạnh lên mà chỉ trị ở Can.
Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để

điều hòa. Vị chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ.
Tỳ có thể làm tổn thương Thận, Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì
Hỏa Khí của Tâm thịnh lên làm tổn thương Phế. Phế bị tổn thương thì Kim Khí không hành,
Kim Khí không hành Can Khí thịnh lên, bệnh của Can tự hết. Đó là diệu pháp trị Can bằng cách
bổ Tỳ. Can hư dùng phép này, còn Can thực thì không dùng.
Kinh nói : không được làm hư thêm cái đã hư, làm thực thêm cái đã thực ; nhưng phải bổ chỗ
không đủ, Tả bớt chỗ có thừa, là như thế.
Các Tạng còn lại suy theo cách đó mà chữa.
BẢN NGHĨA (1/1)
*Đây,Thể Lệ Phủ Tạng truyền Kinh Tiên Hậu.
- Sách Thương Hàn Luận bệnh tại Biểu lấy Thái Dương làm chủ.
- Sách Tạp Bệnh Luận bệnh tại Lý lấy Thiếu Âm làm chủ.
Nhiệt Khí của Thiếu Âm làm bệnh tại Lý do Hàn Khí của Thái Dương làm bệnh tại Biểu
biến tướng mà đến, cho nên gọi là Tạp.
Thương Hàn Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Lục Khí tại Biểu, lấy Thái Dương Hàn Khí
thọ Khuyết Âm Phong Khí làm sơ khởi.

10

Tạp Bệnh Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Ngũ Hành tại Lý, lấy Thiếu Âm Tâm Thận
thọ Can truyền làm sơ khởi.
Luận điểm này nói Biểu Lý tương ứng, Học giả nên rõ.
- Bậc Thượng Công hiểu lý tương truyền, biết Can bệnh trước phải làm cho Tỳ mạnh lên:
Tương khắc truyền Kinh.
- Bậc Trung Công thì không như vậy, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ mạnh
lên: không hiểu tương khắc truyền Kinh.
- Chỉ duy trị bệnh ở Can: không hiểu tương sinh truyền Kinh.
- Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để
điều hòa: Nói Can bệnh không tương sinh truyền cũng không tương khắc truyền, chỉ tại Bản
Kinh, cho nên chỉ dùng phép trị Bản Kinh.

- Chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ: Nói Thiếu Âm Tâm thọ truyền của Can rồi
truyền sang Tỳ là tương sinh truyền vậy.
- Tỳ có thể làm tổn thương Thận: Nói Thiếu Âm Thận thọ truyền của Tỳ, do Tỳ thọ truyền của
Can mà đến là tương khắc truyền Kinh vậy.
*Như vậy tương khắc truyền Kinh làm bệnh thì tương sinh truyền Kinh cũng làm bệnh, riêng tại
Can Tạng không truyền cũng bệnh; ba trường hợp này ắt chung một mối, người khéo trị bệnh
một khi thấy là biết ngay.
Từ đây trở xuống nói về lý Ngũ Hành Sinh Khắc.
- Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì Tâm Hỏa thịnh, Tâm Hỏa thịnh
thì tổn thương Phế, Phế bị thương thì Kim Khí không hành thì Can thịnh; đó là diệu pháp trị
Can bằng cách bổ Tỳ: có thể thấy bệnh tại Can Thực truyền Tỳ Hư làm khởi đầu, mà chỗ yếu
diệu của nó là do Thận Thủy Tâm Hỏa đưa tới.
- Can hư thì dụng phép này : Can truyền Tâm, Tâm truyền Tỳ.
- Thực thì không tại đây mà tại kia : Can truyền Tỳ, Tỳ truyền Thận.
- Hư là Chính hư – Thực là Tà thực.
- Bổ bất túc: là trị Chính hư.
- Tả hữu dư: là trị Tà thực.

11

Bệnh tại Kinh nào lấy Kinh đó làm Tiên , Tạng thọ truyền làm Hậu, đều theo nghĩa lấy Can
làm sơ khởi.
Phủ tùy Tạng, y theo cách đó.

NGUYÊN VĂN (2)
Con người bẩm Ngũ Thường, nhân Phong Khí mà sinh trưởng. Phong Khí tuy có thể sinh vạn
vật, cũng có thể hại vạn vật, như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền. Nếu
cái Nguyên chân của Ngũ Tạng thông sướng, thì người được an hòa. Khách Khí, Tà Phong
trúng vào người phần nhiều làm chết.
Ngàn thứ tật bệnh không ra ngoài 3 điều :

- Một là Kinh Lạc thọ Tà nhập Phủ Tạng là nguyên nhân bên trong.
- Hai là Tứ Chi, Cửu Khiếu Huyết Mạch tương truyền bị Hàn ủng tắc không thông là cái trúng
Bì Phu ở bên ngoài.
- Ba là chuyện buồng the, tai nạn dao búa, trùng thú làm bị thương, lấy đó để hiểu rõ hết mọi
nguyên do của bệnh tật.
Nếu con người biết cẩn thận giữ gìn, không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc ; mới vừa
trúng Kinh Lạc chưa truyền vào Phủ Tạng thì liền điều trị ngay. Tứ Chi vừa cảm thấy nặng nề
thì lập tức Đạo dẫn, Hô hấp, Châm cứu, dán cao xoa bóp, chớ để cho cửu khiếu bế tắc, càng
không nên phạm vào vương pháp, hoặc để cho trùng thú làm tổn thương, việc buồng thechớ
để cho kiệt quệ, việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt, không để cho hình thể
bị suy yếu, thì bệnh không còn do đâu để nhập vào Tấu Lý. Tấu chính là chỗ Tam Tiêu thông
hội Nguyên chân. Lý là Văn lý của Bì Phu Phủ Tạng.
BẢN NGHĨA (1/2)
*Đây,Thể Lệ Kinh Lạc truyền nhau trước sau.
- Con người bẫm Ngũ Thường : gốc ở Thuyết Ngũ Vận Nội Kinh.
- Nhân Phong Khí mà sinh trưởng: gốc ở Thuyết Lục Khí Nội Kinh.
- Phong Khí tuy có thể sinh vạn vật cũng có thể hại vạn vật: Sinh lý tại đó, bệnh lý cũng tại đó,
là Triết học bất dịch của y gia tự ngàn xưa.

12

- Như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền: không cần viện dẫn học thuyết
vi trùng khuẩn độc.
- Từ Tấu Lý đến Phủ Tạng Kinh Lạc cùng nhau qua lại thông sướng thì con người được an hòa.
- Từ Tấu Lý đến Bì Phu Khách Khí Tà Phong theo Kinh Lạc vào thẳng Phủ Tạng, trúng người
phần nhiều làm chết.
- Ngàn thứ tật bệnh không ra ngoài ba điều: đều tóm tại Kinh Lạc mà thôi:
 Một là Kinh Lạc do Tấu Lý nhập Phủ Tạng.
 Hai là Kinh Lạc thọ Biểu Tà từ Tấu nhập Lý.
 Ba là Kinh Lạc tại Tấu Lý bị phòng thất làm hao kiệt, trùng thú làm tổn thương.

Thầy thuốc cần phải nhận rõ chỗ Kinh Lạc này là nguyên nhân dẫn bệnh ra vào. Lại càng
phải nhận rõ nơi Tấu Lý là chỗ Kinh Lạc trong ngoài tụ tập.
Nguyên do của bệnh đều tóm hết ở đó.
- Không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc, chưa truyền vào Phủ Tạng thì trị ngay: Khiến
cho Kinh Lạc không do Tấu nhập Phủ Tạng.
- Tay chân nặng nề cửu khiếu bế tắc liền trị ngay: khiến cho Kinh Lạc thọ Biểu Tà không ủng tắc
tại Tấu.
- Càng không nên phạm vào Vương pháp, không để trùng thú làm bị thương: không làm hao
tổn hệ thống Kinh Lạc tại Tấu.
- Chuyện buồng the chớ để suy kiệt: không làm hao tổn Khí Huyết của Kinh Lạc tại Tấu.
- Việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt không sơ sót: Bồi dưỡng nhu cầu của
Kinh Lạc tại Tấu. Tuy hình thể có tổn thương nhưng bệnh không có con đường nhập vào Tấu
Lý.
- Tấu là chỗ Tam Tiêu thông hội nguyên chân. Lý là Văn Lý của Bì Phu Phủ Tạng: là khu cơ
(then máy) tối yếu của thân người.
Tại sao như vậy ?
- Chỗ Kinh Lạc phát bệnh là Tiên, chỗ Kinh Lạc lưu truyền là Hậu. Kinh Lạc tại Tấu là Tiên, Kinh
Lạc tại Biểu Lý là Hậu. Biết rõ Tiên Hậu thì trị pháp sáng tỏ.


13

NGUYÊN VĂN (3)
Hỏi rằng : Bệnh nhân có khí sắc hiện lên bộ mặt, xin được nghe thuyết này.
Thầy đáp : Đầu mũi màu xanh là trong bụng đau, lại khó chịu vì lạnh là chết. Đầu mũi sắc hơi
đen là có Thủy Khí ; sắc vàng là trên ngực có lạnh ; sắc trắng mất máu. Nếu như sắc hơi đỏ mà
không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe đứng tròng là chứng Kỉnh không trị được.
BẢN NGHĨA (1/3)
*Đây,Thể Lệ nhìn sắc biết Ngũ Tạng truyền Kinh.
- Đầu mũi mắt xanh: Can; trong bụng đau lại khó chịu vì lạnh là chết: Can truyền Tỳ.

- Đầu mũi sắc hơi đen: Thận; có Thủy Khí chỉ tại Bản Kinh.
- Sắc vàng: Tỳ; trên ngực có lạnh: Tỳ truyền Phế.
- Sắc trắng: Phế; là vong Huyết: Phế truyền Tâm.
- Nếu như sắc hơi đỏ không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe không nháy là chứng
Kỉnh không trị được: Tái truyền ở Can, thất truyền [7 lần truyền theo vòng Ngũ Hành tương
khắc] thì chết, là lệ vậy.

NGUYÊN VĂN (4)
Lại sắc xanh là đau, sắc đen là lao, sắc đỏ là phong, sắc vàng là đi cầu khó, sắc tươi sáng là có
lưu ẩm (đọng nước).
BẢN NGHĨA (1/4)
*Đây,Thể Lệ nhìn sắc biết Ngũ Tạng mắc bệnh.
- Sắc xanh là đau: bệnh tại Can.
- Sắc đen là lao: bệnh tại Thận.
- Sắc đỏ là phong: bệnh tại Tâm.
- Sắc vàng là đi cầu khó: bệnh tại Tỳ.
- Sắc tươi sáng là có lưu ẩm: bệnh tại Phế.


14

NGUYÊN VĂN (5)
Thầy nói : người bệnh im lặng, không nói hay kinh sợ, kêu la là bệnh trong các khớp xương.
Tiếng nói ấm ớ không thấu rõ là bệnh giữa Tâm Cách, tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài là bệnh ở
trong đầu.
BẢN NGHĨA (1/5)
*Đây, Thể Lệ nghe tiếng nói biết các Kinh mắc bệnh.
- Nghe tiếng nói im lặng hoặc không nói, thường kinh sợ, kêu la biết bệnh trong các khớp
xương: Tại Túc Âm Kinh (Tỳ - Can – Thận).
- Nghe tiếng nói ấm ớ không thấu rõ biết bệnh giữa Tâm Cách: Tại Thủ Tam Âm Kinh (Phế -

Bào – Tâm).
- Nghe tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài biết bệnh đau trong đầu: tại Thủ Túc Tam Dương Kinh (Đại
Trường – Tiểu Trường – Tam Tiêu – Vỵ - Đởm – Bàng Quang).

NGUYÊN VĂN (6)
Thầy nói thở lay động vai là trong Tâm cứng (Tà Khí thực). Thở kéo hơi lên từ trong ngực là
ho. Thở há miệng, hơi ngắn là Phế Nuy (Phổi teo), nhổ bọt giải.
BẢN NGHĨA (1/6)
*Đây, Thể Lệ nghe tiếng thở biết các Lạc mắc bệnh.
- Thở lay động vai là trong Tâm cứng : bệnh tại các Lạc phần giữa.
- Thở kéo hơi lên từ trong ngực là ho : bệnh tại các Lạc phần dưới.
- Thở há miệng, hơi ngắn là Phế nuy, nhổ bọt giải : bệnh các Lạc phần trên.

NGUYÊN VĂN (7)
Thầy nói : Thở hít vào hơi nhanh là bệnh tại Trung tiêu thực, nên cho Hạ thì khỏi, người hư
thì không trị được. Bệnh tại Thượng tiêu thì hơi hít vào gấp rút. Bệnh tại Hạ tiêu thì hơi hít
vào dài, xa, đều là khó trị. Thở ra hít vào lay động run run là không trị được.
.

15

BẢN NGHĨA (1/7)
*Đây, Thể Lệ Nghe tiếng thở biết các Khí mắc bệnh.
- Trung tiêu Khí Thực mà hít vào hơi nhanh, cho Hạ thì lành; Trung tiêu Hư mà hít vào hơi
nhanh thì không trị được.
- Thượng tiêu hít vào gấp rút, Hạ tiêu hít vào dài xa: đều do các Khí ở Trung tiêu hư mà ra,
đều là khó trị.
- Tiếng thở đều, từ dưới mà lên lay động run run là không trị được.

NGUYÊN VĂN (8)

Thầy nói : Thốn khẩu mạch Động, nhân khi vượng thời mà động, giá như Can vượng sắc xanh,
bốn mùa, mỗi mùa tùy sắc của nó. Nếu Can sắc xanh mà trái lại sắc trắng, Sắc Mạch chẳng
hợp thời, đều phải bệnh.
BẢN NGHĨA (1/8)
*Đây, Thể Lệ bắt Mạch hiệp với Sắc biết Ngũ Tạng truyền Kinh.
- Can vượng sắc xanh: Mạch Huyền mà Cấp.
- Tâm vượng sắc đỏ mạch Phù Đại mà Tán.
- Tỳ vượng sắc vàng mạch Hoãn mà Đại.
- Phế vượng sắc trắng mạch Phù Sáp mà Đoản.
- Thận vượng sắc đen mạch Trầm Tiểu mà Hoạt.
- Bốn mùa đều tùy sắc của nó, đều tùy mạch của nó, đó là Sắc hợp Mạch tương ứng vậy.
- Giá như Can sắc xanh mạch Huyền Cấp, trái lại được sắc trắng của Phế, mạch Phù Sáp mà
Đoản. Do đó mà suy:
. Được Tỳ sắc vàng mạch Hoãn mà Đại, đấy là Sắc hiệp với mạch tương thắng, là khó trị.
. Được Tâm sắc đỏ mạch Phù Đại mà Tán; được Thận sắc đen mạch Trầm Tiểu mà Hoạt, đấy
là Sắc hiệp với Mạch tương sinh, là dễ trị.
*Kinh nói: Thấy Sắc mà không được Mạch của Bản Tạng, trái lại thấy Mạch của tương thắng thì
chết, được mạch của tương sinh thì khỏi, là như thế.

16

NGUYÊN VĂN (9)
Hỏi rằng : có khi chưa đến mà đến rồi, có khi đã đến mà chưa đến, có khi đến rồi lại không đi,
có khi đến mà thái quá ; là thế nào ?
Thầy đáp : Sau tiết Đông Chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi, thời của Thiếu Dương
là lúc Dương mới sinh, tiết Trời được ôn hòa.
Chưa đến Giáp Tý mà Trời đã ôn hòa, đấy là chưa đến mà đến rồi.
Đã đến Giáp Tý mà Trời chưa ôn hòa, là đến mà không đến.
Đã đến Giáp Tý mà Khí Trời Đại hàn chưa giải, đấy là đến mà không đi.
Đã đến Giáp Tý mà khí Trời ôn như thịnh Hạ lúc tháng năm tháng sáu, đấy là đến mà thái quá.

BẢN NGHĨA (1/9)
*Đây, Thể Lệ nghiệm thời tiết với Tạp Bệnh tương ứng.
- Sau Đông chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi: cử một Giáp Tý để làm đầu mối cho
vô số Giáp Tý.
- Thời của Thiếu Dương là lúc Dương mới sinh, tiết trời được ôn hòa: Nêu lên Khí Thiếu
Dương ôn hòa, cho thấy duyên cớ không ôn hòa là nguyên do sinh ra tật bệnh.
- Giáp Tý chưa đến mà khí ôn hòa đã đến cùng với Giáp Tý đã đến mà khí ôn hòa không đến:
Khí với Tiết không đều (không đồng thời) là nguyên do sinh bệnh tật.
- Giáp Tý đến mà Đại hàn không giải cùng với Giáp Tý đến mà Đại nhiệt chợt đến: Khí với Tiết
bất cập, thái quá là nguyên do bệnh tật thêm nặng.

NGUYÊN VĂN (10)
Mạch Phù ở trước bộ Quan là bệnh tại Biểu, Phù ở sau bộ Quan là bệnh tại Lý. Eo lưng đau,
xương sống cứng không đi được ắt thở ngắn hơi cùng cực.
BẢN NGHĨA (1/10)
*Đây, Thể Lệ Tạp Bệnh, Thiết Mạch biện chứng lấy Thiếu Âm làm chuẩn.
- Phù ở trước Bộ Quan: Mạch Thiếu Âm tại Biểu.
- Phù ở sau Bộ Quan: Mạch Thiếu Âm tại Lý.

17

- Eo lưng đau, xương sống cứng không đi được: chứng của Túc Thiếu Âm Thận.
- Thở ngắn hơi cùng cực: chứng của Thủ Thiếu Âm Tâm.
*Nhất thiết Mạch, nhất thiết Chứng lấy đây làm chuẩn, bởi vì Thiếu Âm làm chủ Tạp Bệnh.

NGUYÊN VĂN (11)
Hỏi rằng : Kinh nói ‘Khuyết Dương độc hành’ là như thế nào ?
Thầy đáp : đấy là có Dương không Âm cho nên xưng là ‘Khuyết Dương’.
BẢN NGHĨA (1/11)
*Đây, Thể Lệ Thiếu Âm vốn là Thái Dương biến tướng.

- Khuyết Dương là trong Dương có Hàn Khí.
- Độc hành là không cần có Âm Khí.
- Đấy là có Thái Dương Thương Hàn chủ Biểu thì có Thái Dương biến tướng Tạp Bệnh chủ Lý, có
thể gọi đó là vô Âm, cho nên xưng là Khuyết Dương.

NGUYÊN VĂN (12)
Hỏi rằng : Mạch Thốn Trầm mà Huợt, Trầm đó là Thực ; Hượt đó là Khí, Thực Khí chọi nhau,
Khí Huyết nhập Tạng thì chết ; nhập Phủ thì khỏi, đó là chứng Thốt quyết (thình lình xây xẩm,
té ngã) là thế nào ?
Thầy đáp : môi miệng xanh, mình lạnh là nhập Tạng thì chết ; như thân mình nóng lạnh điều
hòa, mồ hôi tự ra là nhập Phủ nên khỏi.
BẢN NGHĨA (1/12)
*Đây, Thể Lệ Kinh Lạc gốc tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng.
- Mạch thốn Trầm: Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu.
- Mà Huợt: Âm Nhiệt chủ tại Tấu.
- Trầm đó là Thực: Dương Hàn Thực tại Tấu.

18

- Huợt đó là Khí: Âm Nhiệt Khí tại Tấu.
- Dương Hàn do Tấu nhập Tạng thì chết: Bởi cớ Dương Hàn Thực.
- Do Tấu nhập Phủ thì khỏi: Bởi cớ Âm Nhiệt Thực.
- Đó là chứng Thốt quyết: Dương Hàn tại Tấu thốt nhiên nhập Lý.
- Môi miệng xanh, mình lạnh: là tại Tấu Âm Nhiệt vong, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Tạng
thì chết.
- Thân điều hòa mồ hôi tự ra: là tại Tấu Âm Nhiệt còn, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Phủ
nên khỏi.

NGUYÊN VĂN (13)
Hỏi rằng : Mạch Thoát nhập Tạng thì chết, nhập Phủ thì khỏi là tại sao ?

Thầy đáp : không phải là một bệnh mà trăm bệnh đều như vậy. Thí dụ : như Tẩm dâm sang
bắt đầu mọc từ miệng lan ra tay chân thì có thể trị được, từ tay chân chảy lan tới miệng thì
không trị được. Bệnh ở ngoài có thể trị, nhập Lý thì chết.
BẢN NGHĨA (1/13)
*Đây, Thể Lệ Kinh Lạc tại Biểu tại Lý nhưng tập trung tại Tấu.
- Mạch Thoát: vong Dương.
- Nhập Tạng thì chết: cớ bởi vong Âm Nhiệt tại Tấu.
- Nhập Phủ thì khỏi: cớ bởi có Âm Nhiệt tại Tấu.
- Cho nên hết thảy bệnh đều như vậy: Từ Tấu ra Biểu có thể trị, từ Tấu vào Lý không trị được.
- Như Tẩm dâm sang tại ngoại có thể trị: Âm Nhiệt vẫn còn tại Tấu; vào Lý thì chết: Âm Nhiệt
tại Tấu đã vong.

NGUYÊN VĂN (14)
Hỏi rằng : Dương bệnh có 18 thứ là sao ?
Thầy đáp : Đầu đau, gáy, eo lưng, xương sống, cánh tay, chân rút đau.

19

- Âm bệnh có 18 thứ là sao ?
Thầy đáp : Ho, hơi đưa lên, suyễn, ọe, nghẹn, ruột sôi, trướng đầy, Tâm đau, co quắp.
Mỗi Tạng có 18 thứ bệnh, 5 Tạng có cả thảy có 90 bệnh.
Người ta còn có 6 vi, mỗi vi còn có 18 bệnh, cả thảy có 108 bệnh.
Ngũ Lao (5 thứ lao), Thất thương (7 thứ tổn thương), Lục cực (6 thứ cực) ; Ba mươi
sáu bệnh đàn bà không nằm số này.
Thanh Tà ở trên, Trọc Tà ở dưới, Đại Tà ở Biểu, Tiểu Tà ở Lý, Tà của cơm nước vào từ
miệng là túc thực (đồ ăn cũ không tiêu).
Năm thứ Tà trúng vào người, mỗi thứ đều có pháp độ :
Phong trúng đằng trước, Hàn trúng đằng sau.
Thấp tổn thương ở dưới, Sương mù tổn thương ở trên.
Phong làm cho mạch Phù, Hàn làm cho mạch Khẩn ;

Sương mù làm tổn thương Bì Tấu ; Thấp chạy nơi khớp xương.
Ăn uống làm tổn thương Tỳ Vỵ.
Cực Hàn thương Kinh – Cực Nhiệt thương Lạc.
BẢN NGHĨA (1/14)
*Đây, Thể Lệ Kinh Lạc thống bách bệnh.
- Lưng là Dương có 6 Khí, 6 Kinh, 6 Lạc, cộng là 18 thứ bệnh.
- Bụng là Âm có 6 Khí, 6 Kinh, 6 Lạc, cộng là 18 thứ bệnh.
- Ngũ Tạng, mỗi Tạng có 3 Âm, 3 Dương, Khí, Kinh, Lạc, công kích nhau thì mỗi Tạng có 18 thứ
bệnh, hiệp lại thành 90 thứ bệnh.
- Lục Vi là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Không, là tạo ra từ những vi trần cực nhỏ, mỗi vi có 18
hiệp lại thành 108 thứ bệnh.
- Ngũ Lao, Thất Thương, Lục Cực: xem ở chương Hư Lao.
- Đàn bà 36 thứ bệnh không nằm trong số này: riêng thuộc Huyết chứng không phải bệnh
thông thường.

20

- Thanh Tà thuộc Vinh, Vinh gốc Tâm Huyết ở trên.
- Trọc Tà thuộc Vệ, Vệ gốc Thận Khí ở dưới.
- Đại Tà thuộc Dương từ Biểu nhập vào.
- Tiểu Tà thuộc Âm từ Lý xuất ra.
- Vỵ cư Trung Thổ, thọ thức ăn uống làm thành Túc Thực.
- Phong trúng đằng trước: Phong từ Âm (ngực, bụng) rồi đến Dương (lưng).
- Hàn trúng đằng sau: Hàn từ Dương (lưng) rồi đến Âm (ngực, bụng).
- Thấp là Địa Khí cho nên tổn thương ở dưới.
- Sương mù là Thiên Khí cho nên tổn thương ở trên.
- Phong trú Cơ Nhục cho nên mạch Phù.
- Hàn trú Bì Phu cho nên mạch Khẩn.
- Sương mù lạnh nên tổn thương Bì; sương mù nóng tổn thương Tấu.
- Thấp tổn thương tại khớp xương; ăn uống tổn thương tại Tỳ Vỵ.

- Kinh mạch thuộc Lý, Hàn Khí chủ Biểu; cực Hàn thì nhập Lý thương Kinh.
- Chia nhánh rồi đi ngang là Lạc, đều thấy ở ngoài ; Nhiệt Khí chủ Lý; cực Nhiệt thì xuất ngoại
thương Lạc.
*Ý nói suốt Nội Ngoại đều là Kinh Lạc, cho nên Kinh Lạc thống bách bệnh.

NGUYÊN VĂN (15)
Hỏi rằng : Bệnh có lúc gấp nên cứu Lý, cứu Biểu là sao ?
Thầy đáp : Thầy thuốc cho Hạ, tiếp theo ỉa chảy phân sống không dứt, thân thể đau nhức gấp
nên cứu Lý. Sau đó thân còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa gấp nên cứu Biểu.
BẢN NGHĨA (1/15)
*Đây, Thể Lệ Thái Dương Thiếu Âm gốc là một Kinh Khí.
- Kinh suốt Biểu Lý vì thế phải gấp cứu: Biểu Lý tuy bất đồng nhưng Kinh thì chỉ có một.

21

- Tại Biểu thuộc Thái Dương Kinh, cho Hạ tiếp đó bị tiêu chảy nước trong không dứt, mình đau
nhức: chuyển sang tại Lý thuộc Thiếu Âm Kinh.
- Gấp nên cứu Lý: là Biểu chuyển sang Lý, Dương chuyển sang Âm.
- Sau đó mình còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa: Bệnh tại Biểu mà không tại Lý.
- Gấp nên cứu Biểu: Biểu thuộc Thái Dương tức Lý thuộc Thiếu Âm, bởi cớ nó vốn là một Kinh.
*Vì thế trị chứng Biểu không giải xét đến Thiếu Âm, trị chứng Lý không giải xét đến Thái Dương.
Đó là bí quyết vậy.

NGUYÊN VĂN (16)
Phàm người bệnh cố tật, lại mắc thêm bệnh đột nhiên, nên trị bệnh đột nhiên trước rồi sau
mới trị cố tật.
BẢN NGHĨA (1/16)
*Đây, Thể Lệ phép trị các Lạc tùy các Kinh.
- Bệnh cố tật: thuộc Lạc.
- Bệnh đột nhiên: thuộc Kinh Khí.

*Ý nói trị Lạc nên tùy Kinh.

NGUYÊN VĂN (17)
Thầy nói : Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc (cái nó thích hợp) thì khỏi. Tạng nào
trong 5 Tạng Bệnh mà gặp sở ố (cái nó ghét) hoặc là cái nó không ưa thì làm thành bệnh.
Người bệnh vốn không chịu ăn mà trái lại bắt ép họ ăn, tất phải phát sốt.
BẢN NGHĨA (1/17)
*Đây, Thể Lệ phép trị các Kinh tùy các Khí.
- Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc thì khỏi: như các loại bệnh, Hàn gặp được Nhiệt;
bệnh Nhiệt gặp được Hàn thì giải.
- Tạng nào trong 5 Tạng gặp sở ố thì bệnh: như các loại bệnh Hàn nhập Nhiệt Kinh, Nhiệt nhập
Hàn Kinh.

22

- Tạng nào gặp chỗ nó không ưa thì bệnh: như các loại bệnh Hàn không ưa Hàn; Nhiệt lại
không ưa Nhiệt.
- Không chịu ăn mà bắt ép ăn, tất phát sốt: Đó là Hàn cực phản Nhiệt như loại bệnh ‘Trừ
Trung’; Nhiệt cực phản Hàn như loại phải dùng Bạch Hổ thang để trị ; có chứng lưng sợ lạnh,
tay chân nghịch lãnh ‘Biểu hữu Nhiệt, Lý hữu Hàn’.

NGUYÊN VĂN (18)
Phàm các bệnh tại Tạng muốn công nó đều tùy chỗ sở đắc mà công ; như người bệnh khát
cho uống Trư Linh thang. Còn lại đều phỏng theo đó.
BẢN NGHĨA (1/18)
*Đây, Thể Lệ phép trị các Khí tùy các Tạng.
- Muốn công bệnh tại các Tạng đều tùy chỗ sở đắc của bản Tạng Khí mà công.
- Như người bệnh khát tùy Nhiệt Khí của Thiếu Âm Tạng, cho uống Trư Linh thang.
*Nêu lên chứng khát của Thiếu Âm để làm lệ cho các bệnh còn lại. Đấy là cái lý Tạp Bệnh Luận
chủ trương Thiếu Âm.











(Trên đây, chương thứ 1, 18 tiết, luận Phủ Tạng Kinh Lạc Tiên Hậu).

23

CHƯƠNG 2 : KỈNH – THẤP – YẾT
(26 Tiết, từ 19 đến 44)
LUẬN TAM ÂM
1- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh.
2- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
3- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
4- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Bì phần làm Kỉnh.
5- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Bì phần làm Kỉnh.
6- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Bì phần làm Kỉnh.
7- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu phần làm Kỉnh.
8- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Tấu phần làm Kỉnh.
9- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu phần làm Kỉnh.
10- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Kỉnh.
11- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Kỉnh.
12- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Cách làm Kỉnh.
13- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu làm Thấp.

14- Thái Âm thọ thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Thấp.
15- Thái Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Thấp.
16- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Xung Kinh.
17- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Nhâm Kinh.
18- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Đốc Kinh.
19- Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Tấu phần.
20- Thái Âm làm Thấp có thọ Thái Dương Phong Thấp, có thọ Thiếu Âm Phong Thấp.
21- Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu phần.

24

22- Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Biểu đến Tấu.
23- Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu đến Biểu.
24- Thiếu Âm Trúng Yết tại Tấu đến Lý đến Biểu.
25- Thiếu Âm Trúng Nhiệt truyền các Túc Kinh.
26- Thiếu Âm Trúng Nhiệt truyền các Thủ Kinh.

NGUYÊN VĂN (19)
Thái Dương Bệnh phát sốt không mồ hôi, trái lại sợ lạnh, gọi là Cương Kỉnh.
BẢN NGHĨA (2/1)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh.
- Phát sốt không mồ hôi: tại Cơ đến Bì.
- Trái lại sợ lạnh: thọ Dương Hàn.
- Gọi là Cương Kỉnh.

NGUYÊN VĂN (20)
Thái Dương Bệnh phát sốt mồ hôi ra mà không sợ lạnh, gọi là Nhu Kỉnh.
BẢN NGHĨA (2/2)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
- Phát sốt ra mồ hôi: bệnh tại Nhục phần.

- Không sợ lạnh: thọ Âm Nhiệt.
- Gọi là Nhu Kỉnh.

NGUYÊN VĂN (21)
Thái Dương Bệnh phát sốt mạch Trầm mà Tế, gọi là Kỉnh, là khó trị.

25

BẢN NGHĨA (2/3)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
- Khuyết Âm thọ Dương Hàn thì mạch Trầm, thọ Âm Nhiệt thì mạch Tế.
Đây là lưỡng cảm làm Kỉnh, khó trị.

NGUYÊN VĂN (22)
Thái Dương Bệnh Phát Hãn quá nhiều nhân đó làm Kỉnh.
BẢN NGHĨA (2/4)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Bì làm Kỉnh.
- Thái Dương Kinh hành Thủy, Khuyết Âm Kinh hành Huyết, Phát Hãn quá nhiều thì Thủy kiệt
Huyết Táo cho nên làm Kỉnh.

NGUYÊN VĂN (23)
Phàm Phong Bệnh cho Hạ thì làm Kỉnh, cho Phát Hãn thì co quắp.
BẢN NGHĨA (2/5)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Bì làm Kỉnh.
- Thọ Dương Hàn tại Ngoại làm Trúng Phong, thọ Âm Nhiệt tại Nội làm Phong bệnh.
- Cho Hạ thì làm Kỉnh: Âm Nhiệt Khí dồn vào Khuyết Âm.
- Cho Phát Hãn thì co quắp: Dương Hàn Khí dồn vào Khuyết Âm.

NGUYÊN VĂN (24)
Người bệnh ghẻ, tuy mình đau nhức không thể cho Phát Hãn, mồ hôi ra thì làm Kỉnh.

BẢN NGHĨA (2/6)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Bì làm Kỉnh.

×