Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

PHƯƠNG PHÁP đa TRUY cập TRONG UWB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.57 KB, 102 trang )

MỤC LỤC
Bảng các từ viết tắt i
Danh sách hình vẽ iii
Danh sách bảng v
LỜI NÓI ĐẦU vi
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG VIỄN THÔNG 1
1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG VIỄN THÔNG
1
1.2 THỰC TRẠNG CỦA MẠNG VIỄN THÔNG TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ 6
1.3 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG VIỄN THÔNG NGÀY NAY 15
1.4 NHỮNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỚI 17
1.5 SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG NGHỆ UWB 18
1.6 SO SÁNH CÔNG NGHỆ UWB VỚI CÁC HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG BĂNG
THÔNG RỘNG KHÁC 20
1.6.1Công nghệ UWB và công nghệ CDMA 20
1.6.2Công nghệ UWB với các phương pháp điều chế DSSS và FHSS 22
1.6.3Công nghệ UWB và ghép theo tần số trực giao OFDM 26
1.7 TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG I 29
CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ UWB 30
2.1 UWB LÀ GÌ 30
2.2 KHÁI QUÁT VỀ UWB 30
2.3 CÔNG NGHỆ CỦA UWB 33
2.3.1Tín hiệu trong UWB 34
2.3.2Phương thức liên lạc không dây bằng UWB 37
2.3.3Các phương pháp điều chế được sử dụng trong UWB 39
2.3.3.1Phương pháp điều chế vị trí xung PPM 42
2.3.3.2Phương pháp điều chế pha nhị phân BPM 42
2.3.3.3Một số phương pháp điều chế khác 44
2.3.3.4Tóm lược về các phương pháp điều chế trong UWB 46
2.3.4Chuỗi xung 47
2.3.4.1Chuỗi xung Gaussian 48


2.3.4.2Mã kênh PN 48
2.3.4.3Hệ thống UWB PPM nhảy thời gian 50
2.3.5Máy phát UWB 52
2.3.6Máy thu UWB 53
2.3.6.1Tách sóng 55
2.3.6.2Tích hợp xung 55
2.3.6.3Theo dấu 56
2.3.6.4Máy thu rake 56
2.3.7Nhiễu trong hệ thống liên lạc không dây bằng UWB 57
2.3.7.1Các mạng vùng nội hạt không dây WLAN 58
2.3.7.2Bluetooth 61
2.3.7.3Định vị toàn cầu GPS 61
a
2.3.7.4Các hệ thống tế bào 62
2.4 CÁC MẶT HẠN CHẾ 63
2.5 CÁC MẶT TÍCH CỰC 64
2.6 NHỮNG BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 66
2.7 NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA UWB 67
2.8 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐA TRUY CẬP 71
2.9 TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG II 72
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP ĐA TRUY CẬP TRONG UWB 73
3.1 ĐA TRUY CẬP TRONG UWB LÀ GÌ 73
3.1.1 Phương pháp đa truy cập 73
3.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐA TRUY CẬP TRONG UWB 74
3.2.1Phương pháp đa truy cập phân chia theo tần số FDMA 74
3.2.1 Phương pháp đa truy cập phân chia theo tần số FDMA 74
3.2.2Phương pháp đa truy cập phân chia theo thời gian TDMA 75
3.2.2 Phương pháp đa truy cập phân chia theo thời gian TDMA 75
3.2.3Phương pháp đa truy cập phân chia theo mã CDMA 75
3.2.3 Phương pháp đa truy cập phân chia theo mã CDMA 75

3.2.4Phương pháp đa truy cập xung trực giao OPMA 76
3.2.4 Phương pháp đa truy cập xung trực giao OPMA 76
3.3 DUNG LƯỢNG CỦA CÁC HỆ THỐNG UWB 78
3.4 NHIỄU TRONG UWB 81
3.5 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỐNG NHIỄU 82
3.6 ƯU ĐIỂM CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐA TRUY CẬP 86
3.7 NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐA TRUY CẬP 87
3.8 CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 88
3.9 HƯỚNG PHÁT TRIỂN 89
3.10 KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TIỄN 89
3.11 TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG III 90
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
b
Bảng các từ viết tắt
Các từ
viết tắt
Tên tiếng anh Nghĩa tiếng việt
- 3G
- BPM
- BER
- CDMA
- CEPT
- DCS
- DCTS
- DSSS
- FDMA
- GSM
- IEEE
- IMT

- ISDN
- ISI
- ITU
- LAN
3
nd
Generation
Bi-Phase Modulation
Bit Error Ratio
Code Division Multiple Access
Conference of Europe on Post and
Telecommunications
Digital Cellular System
Digital Cordless Telecommunication
System
Direct Sequence Spread Spectrum
Frequency Division Multiple Access
Global System for Mobile
communications
the Institute of Electrical and
Electronics Engineers
International Mobile
Telecommunication
Integrated Services Digital Network
Inter-Symbol Interference
International Telecommunication
Union
Local Area Network
Thế hệ thứ 3
Điều chế pha nhị phân

Tỷ lệ lỗi bit
Đa truy cập phân chia
theo mã
Hội nghị Châu Âu về
bưu điện và viễn thông
Mạng tế bào số
Hệ thống không dây số
Trải phổ chuỗi trực
tiếp
Đa truy nhập phân chia
theo tần số
Thông tin di động toàn
cầu
Tổ chức các kỹ sư điện
và điện tử quốc tế
Viễn thông di động
quốc tế
Mạng đa dịch số
Nhiễu xuyên dấu
Liên minh viễn thông
quốc tế
Mạng cục bộ
i
- MAI
- MHP
- MUI
- OFDM
- OOK
- OPM
- PAM

- PAN
- PLMR
- PN
- PPM
- PSTN
- RF
- SNR
- TDMA
- UWB
- WAN
Multiple Access Interference
Modified Hermitian Pulse
Multiple User Interference
Orthogonal Frequency Division
Multiplexing
On-Off Keying
Orthogonal Pulse Modulation
Pulse Amplitude Modulation
Personal Area Network
Public Land Mobile Radio
- Pseudo Noise
- Pseudo-random Noise
Pulse Position Modulation
Public Switched Telephone Network
Radio Frequency
Signal-to-Noise Ratio
Time Division Multiple Access
UltraWideband
Wide Area Network
Nhiễu đa truy cập

Xung Hermitian đã
điều chỉnh
Nhiễu đa người dùng
Ghép theo tần số trực
giao
Điều chế phím bặt-tắt
Điều chế xung trực
giao
Điều chế biên độ xung
Mạng vùng cá nhân
Mạng vô tuyến di động
mặt đất công cộng
- Giả nhiễu
- Nhiễu giả ngẫu
nhiên
Điều chế vị trí xung
Mạng chuyển mạch
điện thoại công cộng
Tần số Radio
Tỷ lệ tín trên tạp
Đa truy nhập phân chia
theo thời gian
Băng thông cực rộng
Mạng diện rộng
ii
Danh sách hình vẽ
1.1
1.2
1.3
1.4

1.5
1.6
1.7
1.8
1.9
1.10
1.11
1.12
1.13
1.14
1.15
2.1
2.2
Cấu tạo của mạng lưới viễn thông.
Cấu trúc tổ ong của mạng vô tuyến tế bào.
Mã hóa kênh tín hiệu tiếng nói đã số hoá trong GSM.
Cấu trúc cơ bản của một mạng GSM – PLMN.
Sơ đồ khối hệ thống CDMA của Qualcomm.
Sơ đồ truyền tin cơ bản của hệ thống viễn thông.
Hướng phát triển của mạng viễn thông.
Quan hệ tần số-thời gian cho hai người dùng sử dụng
FHSS.
Quan hệ tần số-thời gian cho hai người dùng sử dụng
DSSS. Hai người dùng được chia bởi các mã khác nhau.
So sánh về BER của các hệ thống DSSS, FHSS, và UWB
trong trường hợp một người dùng.
So sánh về BER của các hệ thống DSSS, FHSS, và UWB
trong trường hợp 30 người đồng thời hoạt động.
So sánh về BER đối với số người dùng của các hệ thống
DSSS và UWB.

Đồ thị biểu diễn 4 sóng mang con trực giao để tạo một
dấu OFDM.
Sơ đồ khối của một máy phát OFDM tiêu biểu (IEEE
802.11a).
Sơ đồ khối của một máy thu OFDM tiêu biểu (IEEE
802.11a).
Băng tần hoạt động của UWB
Mối quan hệ giữa độ rộng băng tần và công suất của các
hệ thống viễn thông.
5
8
11
12
15
16
18
21
22
24
25
26
27
28
28
33
34
iii
2.3
2.4
2.5

2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
2.14
2.15
2.16
2.17
2.18
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
Sơ đồ khối hệ thống UWB.
So sánh giữa công nghệ truyền thống và công nghệ UWB.
Tín hiệu phát bởi máy phát PPM-TH-UWB.
Mô hình chung của một hệ thống liên lạc.
Các phương pháp điều chế trong liên lạc bằng UWB.
So sánh dạng xung của PPM và BPM.
So sánh dạng xung sau điều chế của PAM, OOK, OPM.
Một chuỗi xung Gaussian trong miền thời gian và tần số.
Đầu ra hệ thống điều chế xung nhị phân.

Sơ đồ khối tổng quát của một máy phát UWB.
Sơ đồ khối tổng quát của một máy thu UWB.
Dải tần hoạt động của một số hệ thống.
Mạng vùng cá nhân không dây tốc độ cao HDR-WLAN.
Mạng vùng không dây thông minh IWAN.
Mạng cảm ứng, nhận dạng, định vị SPIN.
Mạng đồng cấp ngoài trời OPPN.
Đa truy cập phân chia theo tần số FDMA.
Đa truy cập phân chia theo thời gian.
Đa truy cập phân chia theo mã CDMA.
Xung trực giao đầu ra.
Nhiễu xuyên dấu ISI.
Trải phổ DS-UWB.
Sơ đồ cấu trúc triệt nhiễu lặp.
Mô hình hệ thống đa truy cập.
35
36
37
38
40
41
46
49
51
52
54
58
67
68
69

70
74
75
76
77
81
84
85
86
iv
Danh sách bảng
2.1
2.2
Ưu, nhược điểm của các phương pháp điều chế khác nhau.
Tham số chính của chuẩn IEEE 802.11a mạng vùng nội hạt
không dây OPDM.
47
59
v
LỜI NÓI ĐẦU
Sự ra đời của điện thoại di động cũng như những ứng dụng của nó trong cuộc
sống đã giúp cải thiện đáng kể chất lượng sống của con người, mang lại sự
thoải mái trong sinh hoạt của chúng ta, mở ra viễn cảnh về một thế giới di
động toàn cầu, nơi mà khoảng cách bị xoá bỏ. Con nguời ở khắp các châu lục
có thể liên lạc, trao đổi thông tin với nhau một cách đơn giản và nhanh chóng,
loài người sẽ xích lại gần nhau hơn, hiểu và thông cảm nhau hơn.
Sự phát triển như vũ bão trong lĩnh vực viễn thông, với việc ngày càng có
nhiều nhà cung cấp dịch vụ viễn thông mới đi vào hoạt động đã làm cho
nguồn tài nguyên băng tần vốn đã hạn hẹp nay càng thiếu hơn. Vấn đề đặt ra
là làm sao tận dụng tối đa các dải băng tần đang sử dụng và cố gắng mở rộng

dải băng tần đó.
Và một giải pháp được đưa ra là công nghệ UWB, với việc hoạt động trên
dải tần cao từ 3,1 GHz đến 10,6 GHz đã mở ra một hướng phát triển mới cho
ngành viễn thông. Với dải tần rất rộng lên đến 7,5 GHz, sẽ rất thuận lợi cho
việc phát triển các mạng viễn thông mới vì nó không cần phải tranh chấp tần
số với các mạng viễn thông truyền thống.
Công nghệ UWB hứa hẹn sẽ mang lại nhiều ứng dụng trong cuộc sống, đặc
biệt là các ứng dụng trong phạm vi hẹp như các mạng cá nhân, gia đình…
Trong phạm vị của đồ án này, ta chỉ đi vào nghiên cứu các phương pháp đa
truy cập trong UWB. Tìm hiểu các ưu, nhược điểm của chúng và đưa ra
những biện pháp khắc phục những hạn chế đó. Tìm hiểu những ứng dụng
trong cuộc sống và các hướng phát triển của công nghệ UWB.
Đặc biệt, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy giáo Trần Xuân Nam,
người đã trực tiếp hướng dẫn em nghiên cứu về công nghệ UWB. Sự tận tình
chỉ bảo của thầy cũng như những tài liệu tham khảo do thầy cung cấp đã giúp
em hoàn thành tốt đồ án này.

vi
CHƯƠNG I:TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG VIỄN
THÔNG
1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG
VIỄN THÔNG
Việc trao đổi thông tin trong xã hội loài người là rất quan trọng và cần thiết để
củng cố mối quan hệ cũng như phát triển duy trì nền văn minh nhân loại. Từ
xa xưa con người đã tìm cách trao đổi thông tin với nhau, buổi ban đầu của
nền văn minh, con người chỉ có thể giao tiếp trực tiếp với nhau bằng tiếng nói
và bằng những cử chỉ thân thể ở những khoảng cách gần. Nhưng do nhu cầu
cần phải truyền thông tin đi xa mà tiếng nói người không thể truyền đi xa
được nên con người đã nghĩ ra các phương thức khác để truyền thông tin như
là dùng ngọn lửa, các tín hiệu cờ, tù và, kèn và trống…và đặc biệt khi chữ viết

ra đời nó đã làm thay đổi hoàn toàn cách giao tiếp của con người, giờ đây loài
người có thể truyền và lưu trữ thông tin mà không phụ thuộc vào không gian
và thời gian, nó là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hoá của nhân
loại, đưa con người lên một tầm cao mới, là bước đệm để con người chinh
phục thiên nhiên và vũ trụ bao la.
Tuy đã có chữ viết và công nghệ in nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của con người đó là mong muốn được giao tiếp trực tiếp ở
những khoảng cách xa hơn, và đó chính là xuất phát điểm của sự ra đời và
phát triển của hệ thống viễn thông. Đặt nền móng cho sự phát triển này là
những tiên đề, định lý và định luật vật lý về tín hiệu điện, và cách thức truyền
tín hiệu điện tiêu biểu như:
Năm 1820 Nhà bác học Georgo Ohm đã đưa ra công thức và phương trình
toán học để giải thích các tín hiệu điện chạy qua một dây dẫn rất thành công.
Năm 1830 Nhà bác học Micheal Faraday tìm ra định luật cảm ứng từ
Năm 1850 Đại số Boolean của Georgo Boolers đã tạo nền móng cho logic
học và phát triển rơ-le điện, cũng chính vào thời gian này hệ thống cáp đầu
1
tiên xuyên qua Đại Tây Dương được lắp đặt để truyền tín hiệu điện tín được
lắp đặt.
Năm 1870 Nhà bác học James Clerk Maxwell đã đưa ra công thức toán học
về thuyết điện từ trường giúp tính toán một các định lượng các thông số của
điện từ trường, và dựa vào các công thức toán học đó mà nhà bác học Henrich
Hertz lần đầu tiên trong lịch sử đã truyền đi và nhận được sóng vô tuyến
thành công bằng cách sử dụng điện từ trường
Và đặc biệt vào ngày 2/6/1875 nhà bác học Alexander Graham Bell đã phát
minh ra chiếc điện thoại đầu tiên trên thế giới, đó là một phát minh quan trọng
trong lịch sử phát triển của hệ thống viễn thông, là bước ngoặt giúp trao đổi
thông tin sang một trang mới. Chiếc điện thoại đầu tiên trên thế giới dựa trên
thí nghiệm của chính ông, đó là thí nghiệm với thanh thép mỏng, nam châm,
các cuộn dây và dây dẫn. A.G.Bell đã đặt thiết bị nhận ở phòng mình và một

thiết bị phát thì đặt trong phòng người trợ lý là Thomas Willson ngay bên
cạnh, hai thiết bị được nối với nhau bằng một hệ thống dây dẫn. Khi Willson
làm rung thanh thép mỏng thì ở phía đầu thu bên kia Bell đã nhận được tín
hiệu âm thanh là những tiếng leng keng của thanh thép mỏng và ông nhận ra
rằng khi thanh thép mỏng dao động phía trên nam châm sẽ tạo các dòng điện
chạy qua dây dẫn và chính nó đã làm cho thanh thép trong phòng ông rung lên
tạo ra những âm thanh leng keng
Năm 1876 tổng đài điện thoại đầu tiên trên thế giới được thiết lập sau khi
chiếc điện thoại đầu tiên của A.G.Bell ra đời. Từ đó mạng điện thoại cố định
liên tục phát triển không ngừng nhờ vào những tiến bộ của nền khoa học và
tri thức nhân loại.
Khi đó những chiếc điện thoại chỉ có thể cố định và được nối với nhau
bằng các hệ thống dây dẫn thông qua tổng đài, tuy các thí nghiệm của nhà bác
học người Ý Marconi Guglielmo đã cho thấy là thông tin vô tuyến có thể thực
hiện giữa các máy thu phát ở xa nhau và di động nhưng mãi đến năm 1928 hệ
thống vô tuyến truyền thanh mới được thiết lập, ban đầu chỉ dùng cho cảnh
2
sát. Đến năm 1933 sở cảnh sát Bayone, New Jersey mới thiết lập được một hệ
thống thoại vô tuyến di động tương đối hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới.
Tuy nhiên khi đó những thiết bị điện thoại di động rất cồng kềnh, nặng
hàng chục kilogram, đầy tạp âm và rất tốn nguồn do dùng các đèn điện tử tiêu
thụ nguồn lớn. Công tác trong dải thấp của băng VHF, các thiết bị này liên lạc
được với khoảng cách vài chục dặm. Do các đặc tính truyền dẫn sóng vô
tuyến dẫn đến tín hiệu thu được là một tổ hợp nhiều thành phần của tín hiệu
đã được phát đi, khác nhau cả về biên độ, pha và độ trễ. Tổng vecto của các
tín hiệu này làm cho đường bao tín hiệu thu được bị thăng giáng mạnh và
nhanh làm cho chất lượng đàm thoại kém, mặt khác băng tần có thể sử dụng
cho thông tin vô tuyến luôn khan hiếm. Các băng sóng trung và dài đã được
sử dụng cho phát thanh trong khi các băng tần số thấp và cao (LF-Low
Frequency và HF-High Frequency) thì bị chiếm bởi các dịnh vụ thông tin

toàn cầu. Công nghệ lúc này chưa thích hợp để đạt được chất lượng liên lạc
cao trên các băng sóng VHF (Very High Frequency) và UHF (Ultra High
Frequency). Khái niệm tái sử dụng tần số đã được nhận thức song không
được áp dụng để đạt được mật độ người sử dụng cao. Do đó suốt nhiều năm,
chất lượng của thông tin di động kém hơn nhiều so với thông tin hữu tuyến.
Trong khi các mạng điện thoại tương tự cố định thương mại đang được số
hoá nhờ sự phát minh ra các dụng cụ điện tử có kích thước nhỏ bé và tiêu thụ
ít nguồn thì tình trạng của vô tuyến di động vẫn còn biến đổi rất chậm chạp.
Các hệ thống vô tuyến di động nội bộ mặt đất đã bắt đầu được sử dụng song
mới chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ các nhóm chuyên biệt chứ chưa phải cho
các cá nhân trong cộng đồng. Mặc dù công ty Bell Laboratories đã đưa ra ý
tưởng về mạng điện thoại di động tế bào từ những năm 1947, song do công
nghệ thời đó chưa đáp ứng được nhu cầu của mạng nên phải đến năm 1979
với sự ra đời của các mạch tích hợp thiết kế được một cách tuỳ chọn, các bộ
vi xử lý, các mạch tổng hợp tần số, các chuyển mạch nhanh dung lượng lớn…
mạng vô tuyến tế bào mới được biến thành hiện thực.
3
Năm 1980 đã chứng kiến sự ra đời của một số hệ thống vô tuyến tế bào
tương tự thường được gọi là các mạng vô tuyến di động mặt đất công cộng
PLMR (Public Land Mobile Radio). Làm việc ở dải tần UHF (Ultra High
Frequency), các mạng này cho thấy một sự thay đổi vượt bậc về độ phức tạp
của các hệ thống thông tin liên lạc dân sự. Chúng cho phép người sử dụng có
được các cuộc đàm thoại khi di động với bất kỳ đối tượng nào có kết nối tới
các mạng điện thoại chuyển mạch công cộng PSTN (Public Switched
Telephone Network) hoặc các mạng đa dịch số ISDN (Integrated Services
Digital Network). Trong những năm 1990 đã có những bước tiến hơn nữa
trong thông tin di động với việc áp dụng các mạng tế bào số DCS (Digital
Cellular System) và các hệ thống không dây số DCTS (Digital Cordless
Telecommunication System). Ngoài các dịch vụ điện thoại truyền thống, các
hệ thống vô tuyến di động số thế hệ thứ hai sẽ cung cấp một mảng các dịch vụ

mới khác như thư tiếng nói, truyền số liệu, truyền fax, truyền các tin ngắn…
Thông tin di động đã và đang phát triển hết sức mạnh mẽ trên phạm vi toàn
thế giới, càng ngày càng tiến tới chia sẻ thị trường và thay thế từng mảng các
dịnh vụ thông tin cố định.
Từ năm 1997, liên minh viễn thông quốc tế ITU (International
Telecommunication Union) đã xây dựng tiêu chuẩn chung cho thông tin di
động thế hệ thứ ba (3G: 3
nd
Generation) trong dự án IMT-2000 (International
Mobile Telecommunication-2000). Mục đích của IMT-2000 là xây dựng tiêu
chuẩn chung nhất cho các hệ thống thông tin di động toàn cầu, phục vụ nhiều
loại hình dịch vụ với tốc độ tối đa lên tới 2Mb/s.
Cho dù mạng viễn thông phát triển theo nhiều hướng khác nhau và theo
những nhu cầu khác nhau của người sử dụng nhưng về cơ bản chúng vẫn có
điểm chung giống nhau kể cả hệ thống thông tin vô tuyến và hữu tuyến, di
động và cố định. Và chúng được mô phỏng như sau:
4
Hình 1.1: Cấu tạo của mạng lưới viễn thông.
Trong đó, nguồn thông tin: con người hay máy sẽ phát ra thông tin cần
truyền đi. Thông tin phát ra được phân loại thành tiếng nói, mã và hình ảnh
(ký tự, ký hiệu và hình ảnh).
Thiết bị truyền: bộ phận hay thiết bị có nhiệm vụ chuyển thông tin phát đi
thành các tín hiệu để truyền đi qua các đường truyền dẫn.
Đường truyền dẫn: một phương tiện để truyền các tín hiệu từ thiết truyền
đến thiết bị nhận, bao gồm các loại cáp đồng trục, cáp quang, không gian…
và các hướng sóng được sử dụng rộng rãi cho mục đích này. Tín hiệu truyền
trên đường truyền bị ảnh hưởng bởi các tạp âm và nhiễu.
Thiết bị nhận: là một bộ phận hay thiết bị dùng để biến đổi các tín hiệu
nhận được về dạng ban đầu.
Người sử dụng: là con người hay máy nhận thông tin từ các thiết bị nhận.

Hệ thống viễn thông điện tử được sử dụng phổ biến nhất là hệ thống thông tin
điện thoại trong đó con người là nguồn thông tin đồng thời cũng chính là
người sử dụng, điện thoại được dùng làm thiết bị truyền và nhận tín hiệu
Nguồn tạp âm: là những tác động có hại từ bên trong và ngoài đường
truyền dẫn như tạp âm (từ bên trong), nhiễu và fading (từ bên ngoài).
Đó là mô hình chung của các hệ thống viễn thông, từ đó nó phát triển theo
các hướng khác nhau nhằm phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của con người,
theo dòng phát triển của khoa học kỹ thuật mà hệ thống viễn thông ngày càng
Nguồn
thông tin
Thiết bị
truyền
Đường
truyền
(chuyển
mạch)
Thiết bị
nhận
Người
sử dụng
Nguồn
tạp âm
Thông tin Dữ liệu
Thông tinDữ liệu
5
phát triển hoàn thiện hơn, chất lượng dịch vụ cũng tốt hơn, sử dụng đơn giản
hơn và phạm vi áp dụng cũng được mở rộng hơn.
1.2 THỰC TRẠNG CỦA MẠNG VIỄN THÔNG TRONG NƯỚC VÀ
QUỐC TẾ
Ngày nay, với những thành quả vượt bậc của công nghệ khoa học và kỹ thuật

đã giúp cho mạng lưới các hệ thống viễn thông phát triển mạnh mẽ và rộng
khắp. Đáp ứng được nhu cầu cao của người sử dụng, mang lại nhiều tiện ích
cho đời sống của nhân loại.
Hiện nay trên thế giới đã triển khai các mạng di động thế hệ 3G và đang
tiến hành thử nghiệm mạng di động thế hệ 4G, sử dụng công nghệ tiên tiến
như hệ thống thông tin di động toàn cầu GSM (Global System for Mobile
communications) và ba loại đa truy cập là: đa truy cập phân chia theo tần số
FDMA (Frequency Division Multiple Access), đa truy cập phân chia theo
thời gian TDMA (Time Division Multiple Access) và đa truy cập phân chia
theo mã CDMA (Code Division Multiple Access). Với các cách thức đa truy
cập khác nhau thì sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực khác nhau, cụ thể là:
 Với phương pháp đa truy cập phân chia theo tần số FDMA: mỗi một
thuê bao truy cập mạng bằng một tần số. Băng tần chung W được chia thành
N kênh vô tuyến, mỗi thuê bao truy cập và liên lạc trên kênh con trong suốt
thời gian liên lạc. Ưu điểm là thiết bị đơn giản, yêu cầu về đồng bộ không quá
cao, bên cạnh đó là các nhược điểm như thiết bị trạm gốc cồng kềnh do có
bao nhiêu kênh (tần số sóng mang kênh con) thì tại trạm gốc phải có bấy
nhiêu máy thu-phát.
 Với phương pháp đa truy cập phân chia theo thời gian TDMA: các thuê
bao sử dụng chung một tần số song luân phiên về mặt thời gian. Ưu điểm của
phương pháp này là trạm gốc đơn giản do với một tần số chỉ cần một máy
thu-phát phục vụ được nhiều người truy cập (phân biệt nhau về mặt thời
gian). Tuy nhược điểm của nó lại là cần sự động bộ rất ngặt nghèo của cả hệ
thống.
6
 Với phương pháp đa truy cập phân chia theo mã CDMA: các thuê bao
dùng chung một tần số trong suốt thời gian liên lạc, phân biệt nhau nhờ sử
dụng mã trải phổ khác nhau do đó hầu như không gây nhiễu lẫn nhau. Ưu
điểm là hiểu quả sử dụng phổ cao, có khả năng chuyển vùng mềm và đơn giản
trong kế hoạch phân bổ tần số, khả năng chống nhiễu và bảo mật cao, thiết bị

trạm gốc đơn giản (chỉ cần một máy thu-phát). Tuy nhiên nhược điểm của
phương pháp này là yêu cầu về đồng bộ và điều khiển công suất rất khắt khe,
chênh lệch công suất thu tại trạm gốc từ các máy di động trong một tế bào
phải
≤ ±
1 dB, trái lại thì số kênh phục vụ được bị giảm đi rất nhiều.
Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, mạng viễn thông vẫn ở thế hệ 2,5G và
đang triển khai cơ sở hạ tầng để chuyển sang thế hệ 3G. Về mặt công nghệ
các công ty viễn thông của chúng ta đang triển khai hai công nghệ di động
tiên tiến của thế giới đó là GSM và CDMA, ngoài ra chúng ta còn cố gắng mở
rộng quan hệ và hợp tác với các hãng viễn thông lớn trên thế giới để phát triển
và đưa vào khai thác những công nghệ mới, tiên tiến nhằm tối đa hoá mạng
lưới viễn thông trong nước và không bị lạc hậu với công nghệ của thế giới.
Đặc biệt sau một thời gian dài bị chậm trễ, dự án VINASAT đã được khởi
động lại một cách tích cực và dự tính đến quý 2/2008 sẽ phóng vệ tinh
VINASAT vào quỹ đạo và khi đưa vào hoạt động nó sẽ đem lại nhiều lợi thế
cho viễn thông Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập với khu vực
và thế giới khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại
thế giới WTO. Đó là về mặt công nghệ còn về mặt tài chính, chúng ta đang
mở cửa đón những nhà đầu tư nước ngoài vào tham gia thị trường viễn thông
trong nước bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông rồi bán cổ
phần cho họ cộng thêm những chính sách ưu đãi. Đó là hướng phát triển tối
ưu nhất chúng ta vừa có thể sử dụng những công nghệ tiên tiến trên thế giới
vừa có thể huy động ngồn vốn dồi dào từ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Để hiểu được vì sao Việt Nam lại chọn lựa hai giải pháp công nghệ là GSM
và CDMA, trước tiên cần tìm hiểu rõ hai công nghệ đó là gì.
7
 Thứ nhất là công nghệ GSM: được ra đời vào những năm 1980
của thế kỷ 20 nhưng cũng phải đến năm 1986 tại hội nghị của CEPT
(Conference of Europe on Post and Telecommunications) diễn ra ở Paris thì

GSM mới chính thức có cấu hình tiêu chuẩn của hệ thống căn cứ theo các yêu
cầu về hiệu quả phổ, chất lượng âm thanh, giá thành máy di động, giá trạm cố
định, tính tiện lợi khi mang xách, khả năng phục vụ các dịch vụ mới và khả
năng cùng hoạt động với các hệ thống hiện hành.
Khởi nguồn của hệ thống GSM là mạng vô tuyến tế bào gồm các trạm gốc
BS (Base Station) đặt giữa các tế bào được bố trí thành mạng hình tổ ong
Hình 1.2.
Hình 1.2: Cấu trúc tổ ong của mạng vô tuyến tế bào.
Các băng sóng đường lên, đường xuống có độ rộng
W
được chia thành các
phần
c
B
và mỗi dải con
c
B
được gán cho một tế bào,
N
tế bào lân cận nhau
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2

5
7
6
3
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2
5
7

6
3
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2
5
7
6
3
4.
1
2
5
7
6
3
R
Các tế bào
(cell)
Trạm gốc
(BS)
D
Khoảng cách tái

dụng tần số
R: bán kính tế bào
8
hợp thành từng cụm
N
trạm gốc BS với
c
W N B= ×
. Các cụm này lại ghép
giáp nhau và phủ kín vùng cần phủ sóng là phần diện tích cần cung cấp dịch
vụ liên lạc di động. Giữa các vùng phủ sóng, các mạng nối với nhau có thể
bằng đường trục riêng hoặc thông qua PSTN. Hệ thống vô tuyến di động tế
bào (Cellular Mobile Radio System) đầu tiên ở châu Âu được lắp đặt vào năm
1981 tại khu vực bán đảo Scandinavi, ban đầu chỉ dùng cho vài ngàn thuê
bao. Cho đến năm 1992 thì toàn châu Âu đã có 6 loại mạng tế bào khác nhau
tại 16 nước, phục vụ 1,2 triệu thuê bao. Lúc đó tại châu Âu, giữa các hệ thống
và các thuê bao của các mạng khác nhau thì không tương thích, khả năng lưu
động của thuê bao từ nước này sang nước khác là rất thấp do đó khá bất tiện,
số thuê bao thấp dẫn tới giá thiết bị và dịch vụ cao. Trong tình hình như vậy,
từ năm 1982 Hội nghị bưu chính và viễn thông Châu Âu CEPT đã thành lập
Nhóm chuyên trách về thông tin di động GSM (Groupe Speciale Mobile) có
nhiệm vụ xác định một hệ thống thông tin di động công cộng tiêu chuẩn cho
toàn châu Âu hoạt động trên băng tần 900Mhz. Nhóm này đã quyết định xây
dựng hệ thống liên lạc số di động cho hệ GSM (và được biết đến rộng rãi với
nghĩa là: Global System for Mobile communications). Các thí nghiệm và các
hệ thống mô phỏng đã được tiến hành thử nghiệm ở nhiều nước châu Âu trên
nhiều loại hệ thống vói nhiều nguyên tắc khác nhau, tới năm 1986, 9 đề nghị
đầu tiên đã qua thử nghiệm được đề xuất cho một hệ thống GSM toàn châu
Âu tại hội nghị của CEPT diễn ra ở Paris, bao gồm: CD – 900, MATS – D/W,
ADPM, DMS – 90, MOBIRA, SFH – 900, S900 – D, MAX II, MATS –

D/N. Cả ba loại đa truy cập FDMA, TDMA, CDMA do Pháp và Đức đề xuất
và bảy sơ đồ điều chế được thử nghiệm trong các loại hệ thống này, với tốc
độ truyền từ 20 Kb/s tới 8 Mb/s.
Các mô tả chi tiết về GSM được trình bày rõ trong 13 tập khuyến nghị của
GSM, được thông qua vào tháng tư năm 1988 và từ đó tới nay liên tục được
bổ sung và phát triển. Sau một thời gian thử nghiệm, từ năm 1991 mạng GSM
đã được sử dụng tại châu Âu và tại rất nhiều nước khác trên thế giới. So với
một số hệ thống thông tin vô tuyến di động tế bào TDMA thế hệ thứ hai khác
9
như IS – 54 của Mỹ hay hệ thống tương tự như thế ở Nhật Bản… thì GSM là
một hệ thống hoàn thiện hơn cả với tham vọng lớn hơn nhiều (đó là tham
vọng vươn tới một hệ thống chuẩn cho toàn cầu). Các mô tả cơ bản của GSM
(cho tới năm 1992) như sau:
 Băng sóng: 890
÷
915 Mhz (đường lên – uplink),
và 935
÷
960 Mhz (đường xuống – downlink).
Các băng sóng song công này phân bố cho hai dải phòng vệ, mỗi dải rộng
200 Khz, và 124 cặp kênh vô tuyến (lên và xuống) mỗi kênh rộng 200 Khz.
Khoảng cách giữa các sóng mang vô tuyến là 200 Khz.
 Loại song công: FDD (Frequency Division Duplex – Song công phân
chia theo tần số) đường lên và xuống trên hai tần số thuộc hai băng riêng biệt
với khoảng cách giữa hai sóng mang lên và xuống của một kênh là 45 Mhz.
Tần số sóng mang trên hai băng sóng đối với kênh song công thứ
n
được xác
định theo công thức:
( )

[ ]
n1
890,2 0,2 1 MHzF n= + −

[ ]
n2 n1
45 MHzF F= +
 Sơ đồ truy cập: TDMA với 8 khe thời gian trên một sóng mang vô
tuyến, độ dài mỗi khe thời gian
ms≈ 0,58
, do đó khoảng thời gian một khung
TDMA gần bằng
8 ms ms×0,58 ≈ 4,64
.
 Mã hoá tiếng nói: mã dự kiến tuyến tính – kích thích xung đều RPE-
LPC (Regular Pulse Excited – Linear Predictive Code) dự đoán dài hạn, tốc
độ 13 kb/s đối với giai đoạn một của GSM và 6,5 kb/s trong giai đoạn phát
triển 2 và 2+.
 Mã hoá kênh: mã chập tốc độ ½, độ dài ràng buộc bằng 5
(CC(2,1,5)), kết hợp với mã khối, mã khối với 3 bit kiểm tra được sử dụng để
mã hoá 50 bit tiếng nói quan trọng nhất, sau đó 53 bit này được ghép với 132
bit tiếng nói quan trọng cùng 4 bit đuôi tạo thành cụm 189 bit và được mã hoá
tiếp bằng mã chập tốc độ ½ tạo nên độ dài mã 378 bit, 78 bit tiếng nói không
quan trọng thì không được mã nhằm tiết kiệm tốc độ bit mã Hình 1.3.
10
Hình 1.3: Mã hóa kênh tín hiệu tiếng nói đã số hoá trong GSM.
Số bit dữ liệu tiếng nói sau mã hoá kênh là 456 bit trong một khung tín hiệu
tiếng nói 20 ms, hình thành tốc độ tín thoại của một kênh là 22,8 kb/s.
 Tráo thứ tự truyền: áp dụng hai lần, do đó việc mất cả một cụm
TDMA (burst) chỉ gây ảnh hưởng tới 12,5% số bit của một khung tín hiệu

tiếng nói.
 Tốc độ truyền: tốc độ tín thoại chưa mã hoá kênh là 13 kb/s, tốc độ
tín thoại của một khe thời gian (một kênh) là 22,8 kb/s, tốc độ số liệu của cả 8
khe thời gian (gồm tín thoại, tín hiệu đồng bộ, chuỗi dò kênh…) khoảng 271
kb/s.
 Điều chế: điều chế tần số dịch pha cực tiểu Gauss GMSK (Gaussian
Minimum Shift Keying) có đường bao không đổi,
0,3BT =
(Bandwidth
Bitinterval), nhờ đó suy giảm giữa 2 sóng mang lân cận là 18dB và hơn 50 dB
đối với các kênh xa hơn. Độ rộng phổ tín hiệu băng gốc của một kênh vô
tuyến (gồm 8 khe thời gian với tốc độ tổng cộng 271 kb/s) là khoảng 50 kHz.
 San bằng: phải giải quyết được các trải giữ chậm tới
16 s µ
.
50 bít cực
quan trọng
132 bít tương đối
quan trọng
78 bít không
quan trọng


50
3
132
4
78
78 bít không
được mã

378 bít đã mã chập (tốc độ 1/2)
Sau mã chập
Các bit sau mã hoá tiếng nói (một khung tín hiệu tiếng nói 20ms)
Sau mã khối 3 bít kiểm tra của mã khối 4 bít đuôi
11
 Nhảy tần: nhảy tần chậm tốc độ chỉ khoảng 217 bước nhảy/giây, việc
quyết định có áp dụng nhảy tần hay không thuộc quyền quyết định của nhà
cung cấp dịch vụ điện thoại di động (công ty điện thoại di động).
 Công suất: công suất đỉnh cho máy di động: 2 – 20 [W];
công suất trung bình cho máy di động: 0,25 – 2,5 [W];
kiểm soát công suất: có áp dụng.
 Kiểm soát - điều khiển: chuyển điều khiển (HandOver): có áp dụng;
tên kênh điều khiển: SACCH (Slow Associated Control
CHannel);
tốc độ kênh điều khiển: 967 b/s;
kích thước tín điều khiển: 184 bit;
trễ xử lý điều khiển: 480 ms.
Để có cái nhìn tổng quan hơn về hệ thống GSM, ta sử dụng sơ đồ khối cơ
bản của mạng GSM (hình 1.4) là cấu trúc đơn giản của một mạng di động mặt
đất công cộng GSM (GSM – PLMN):
Hình 1.4: Cấu trúc cơ bản của một mạng GSM – PLMN.
TE MT BTS
BSC
BS
BTS
TE MT BTS
MS
NMC
OMC
MSC

HLR
AUC
ADC
OMC
MSC
VLR
EIR
TE MT BTS
BSCBTS
TE MT BTS
MS
MS
MS BS
Um
Um
Um
Um
A- bit
A- bit
A
12
Trong đó: MS (Mobile Station): trạm di động
MT (Mobile Termination): đầu cuối di động;
TE (Terminal Equipment): thiết bị đầu cuối;
Um: giao diện vô tuyến giữa trạm gốc và trạm di động;
A: giao diện giữa BS – MSC ;
A-bit: giao diện giữa BTS – BSC;
BS (Base Station): trạm gốc cố định;
BSS (Base Station System): hệ thống trạm gốc;
BTS (Base Transceiver Station): trạm thu – phát gốc;

BSC (Base Station Controller): đài điều khiển trạm gốc;
MSC (Mobile Switching Centre): trung tâm chuyển mạch di động (tổng
đài thông tin di động);
NMC (Network Management Centre): trung tâm quản lý mạng;
OMC (Operations and Maintenance Centre): trung tâm thao tác và bảo
trì;
ADC (Adminstraition Centre): trung tâm quản trị mạng;
AUC (Authentication Centre): trung tâm nhận thực thuê bao;
EIR (Equipment Identity Register): bộ ghi số nhận diện phần cứng trạm
di động;
HLR (Home Location Register): bộ ghi định vị thường trú;
ULR (Visiter Location Register): bộ ghi định vị tạm trú.
 Thứ hai là công nghệ CDMA: đây là một công nghệ tiên tiến có
rất nhiều ưu điểm đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau của mạng viễn
thông. CDMA là một dạng của đa truy cập sử dụng kỹ thuật trải phổ SSMA
(Spread Spectrum Multiple Access), trong đó mỗi một người sử dụng sẽ dùng
toàn bộ phổ tần như với TDMA và trong toàn bộ thời gian của cuộc đàm thoại
giống như với FDMA. Người sử dụng được phân biệt với nhau nhờ việc sử
dụng các mã giả nhiễu PN (Pseudo Noise) khác nhau, do vậy nó có những ưu
điểm nội trội so với các công nghệ khác như: hiểu quả sự dụng phổ rất cao,
13
khả năng tái sử dụng tần số rất cao, phương án bố trí tần số sử dụng trong các
tế bào rất đơn giản, độ an toàn thông tin và khả năng làm việc trong các điều
kiện nhiễu mạnh là rất cao… Tuy nhiên nó vần còn những hạn chế như là yêu
cầu về đồng bộ là rất lớn, thêm vào đó là vấn đề điều khiển công suất và việc
tìm ra các mã PN cung cấp số kênh lớn rất phức tạp và khó khăn do đó cho
đến nay công nghệ CDMA vẫn chỉ được ứng dụng ở một số hạn chế các hệ
thống viễn thông. Mặt khác cũng cần phải kể đến hoàn cảnh lịch sử và sự ra
đời của công nghệ CDMA, do công nghệ TDMA ra đời trước, đã được chấp
nhận ở châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới và nó bảo đảm tính lưu động

(roaming) quốc tế trên một diện rất rộng trên toàn cầu nên TDMA được sử
dụng rộng rãi hơn so với CDMA. Tuy nhiên theo đánh giá của các nhà
chuyên môn thì cùng với sự phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng của
các thuê bao và các nhu cầu liên lạc đa dịch vụ tăng lên rất lớn thì công nghệ
CDMA sẽ thay thế công nghệ TDMA, và hiện nay công nghệ CDMA đã được
lựa chọn sử dụng trong nhiều tiêu chuẩn thông tin di động 3G như W –
CDMA, hay cdma2000…
 Hình 1.55 mô tả sơ đồ khối của hệ thống CDMA do Qualcomm
đưa ra.
Một số khái niệm về CDMA:
Mã Walsh được tạo ra từ ma trận Hadamard, các tổ hợp mã Walsh đều trực
giao nhau, và được sử dụng để phân kênh đường xuống
Các kênh trong hệ thống CDMA:
Kênh pilot: được sử dụng cho đồng chỉnh tần số, sử dụng mã Walsh số 0.
Kênh đồng bộ: được sử dụng cho đồng bộ đồng hồ (clock), sử dụng mã
Walsh số 32.
Các kênh paging và traffic (lưu lượng): sử dụng 62 mã Walsh còn lại, trong
đó kênh paging được sử dụng để thông báo thông tin về hệ thống và đáp tín
hiệu truy cập của MS
14
Hình 1.5: Sơ đồ khối hệ thống CDMA của Qualcomm.
1.3 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG VIỄN THÔNG NGÀY NAY
Do cách thức truyền thông tin của hệ thống viễn thông mà nó có những hạn
chế khó khắc phục thậm chí là không thể khắc phục. Hầu hết các hệ thống
viễn thông ngay nay đều sử dụng phương pháp tạo sóng mang để tải tín hiệu
mang thông tin đi xa (hình 1.6).
Bộ tạo
PN dài
Kết hợp
tính

trọng số

điều
chế
cầu
phương
Xáo trộn
và ghép
t/h
Mã chập
và lặp
Ghép
xen
Mã chập
và lặp
Ghép
xen
Mã chập
và lặp
Ghép
xen
Bộ tạo
PN dài
Tín hiệu pilot (toàn 0)
Các bit đk công suất
W
i
PNQ
PNI
W

j
W
32
W
0
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Mặt nạ
Kênh lưu lượng
Mặt nạ
Kênh paging
Kênh
lưu
lượng
Kênh
paging
Kênh
đồng bộ
15

Hình 1.6: Sơ đồ truyền tin cơ bản của hệ thống viễn thông.
Từ sơ đồ trên ta nhận thấy rằng muốn truyền thông tin đi xa cần phái có
một sóng mang phù hợp tuy nhiên do tài nguyên băng thông có hạn và rất quý
nên người ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc cấp băng thông phục vụ
vào các mục đích khác nhau. Với việc ngày càng có nhiều thuê bao lẫn các
nhà cung cấp dịch vụ mới ra đời đòi hỏi phải có băng tần mới, mặt khác do
nhu cầu muốn tăng tốc độ truyền thông tin và tích hợp nhiều dịch vụ trong
cùng một đường truyền đã dẫn đến việc cần phải mở rộng băng tần… nhưng
bằng tần sử dụng được thì hẹp
( )
GHz0,3 ÷ 4,2
, cộng thêm công nghệ bây
giờ chưa cho phép các hệ thống viễn thông truyền tốt tín hiệu ở các băng tần
cao. Đó là một vấn đề khó giải quyết trong các hệ thống viễn thông hiện nay.
Ngoài hạn chế về băng tần các hệ thống viễn thông hiện nay còn gặp phải
một vấn đề khác khó khăn không kém đó là tốc độ truyền tin, khi mà nhịp
sống ngày càng nhanh thì đòi hỏi của con người về tốc độ truyền thông tin
cũng phải có những bước nhảy mới để theo kịp cuộc sống hiện đại
Không chỉ có vậy con người muốn truyền được nhiều thông tin và nhiều
dạng tín hiệu cùng một lúc trên cùng một dịch vụ đường truyền những vẫn
giữ được tốc độ. Đó là những bài toán khó mà tìm ra đáp số đối với các công
ty cung cấp dịch vụ viễn thông, những nhà hoạch định cũng như những nhà
khoa học… nhằm vươn tới một tầm cao mới, thoả mãn được những nhu cầu
ngày càng cao của nhân loại.
bộ
trộn
Tách
sóng
T/bị
phát

T/bị
thu
sóng mang
T/hiệu
mang
tin
sóng mang
nhiễu
+
T/hiệu
mang
tin
16
1.4 NHỮNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỚI
Xu thế phát triển của ngành viễn thông là tìm ra các giải pháp công nghệ kỹ
thuật mới, những mô hình hệ thống mới nhằm đáp ứng được những yêu cầu
khắt khe của con nguời:
Hướng thứ nhất: là cố gắng mở rộng băng tần lên phía tần số cao để có thể
tận dụng được nguồn tài nguyên vốn có, tăng hiệu quả sử dụng phổ cũng như
tái sử dụng tần số trong một số trường hợp nhất định
Hướng thứ hai: chú trọng đến tốc độ truyền thông tin, nghiên cứu những
công nghệ mới và đưa vào những ứng dụng giúp tăng tốc độ truyền tin, cải
thiện chất lượng đường truyền, tăng tốc độ xử lý thông tin ở các thiết bị đầu
cuối.
Hướng thứ ba: đặc biệt quan tâm tới việc tích hợp nhiều ứng dụng vào
trong cùng một dịch vụ cung cấp, chú tâm vào tìm kiếm những công nghệ
mới giúp cho việc hiện thực hoá mạng viễn thông truyền thông đa phương
tiện với ý nghĩa đích thực của nó và hướng tới một mạng viễn thông đáp ứng
tất cả những nhu cầu vui chơi, giải trí cũng như làm việc.
Hướng thứ tư: cố gắng trung hoà được cả 3 xu hướng trên vào một hệ

thống viễn thông duy nhất, đây có thể xem là xu hướng có tính khả thi nhất,
và có khả năng tồn tại nhất.
Hình 1.7 mô tả xu hướng phát triển của hệ thống viễn thông trên thế giới
nói chung và cũng là xu hướng phát triển của hệ thống mạng viễn thông Việt
Nam nói riêng, nhưng với thời gian dự kiến chậm hơn so với thế giới. Vì dù
sao, điều kiện về kinh tế và kỹ thuật của Việt Nam không cho phép chúng ta
đáp ứng đúng thời gian dự kiến áp dụng các thế hệ viễn thông như của thế
giới và các nước phát triển.
17

×