Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

thực trạng hoạt động xuất khẩu chè của công ty agrexport đà nẵng trong những năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.53 KB, 134 trang )

Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi
hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận.
Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng
biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho
các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm
giàu cho đất nước.
Ngày nay, xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là
sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy
phải coi trọng xuất khẩu cũng nh xem thương mại quốc tế nh một tiền đề, một
nhân tố phát triển kinh tế trong nước, trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự
phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá
và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt
động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi
buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức
bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất
phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của
nhân dân. Mặt khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại
gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thông kinh tế khác từ bên
ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế
được.
QTKDQT - 39A Trang
1
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh


tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc
thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến
hàng hoá vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lại lợi Ých cho các quốc
gia tham gia.
Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời
gian. Nó có thể diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm; có thể diễn ra
trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau.
Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là
hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực
kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và
dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem nh chiến lược
kinh doanh quan trọng của các công ty.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu
trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng
sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy
định về tiêu chuẩn kỹ thuật hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế
chưa đủ thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được chọn vì ở
xuất khẩu lượng vốn Ýt hơn, rủi ro thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao
trong thời gian ngắn.
QTKDQT - 39A Trang
2
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Đối với các doang nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước
vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu
cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và

xu hướng biến động của nó. Những điều này phải luôn trở thành nếp thường
xuyên trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu, để có thể nắm bắt được
các cơ hội kinh doanh trong Thương mại Quốc tế.
Nh vậy, hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong
sự đi lên của đất nước, hội nhập cùng vào nền kinh tế thế giới.
Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu, ta có thể tham khảo một số
tư tưởng của các trường phái sau
2. Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu.
2.1. Lý thuyết của trường phái trọng thương.
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế vào khoảng những
năm 1450 đến năm 1650. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia
được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính
bằng vàng. Theo lý thuyết này chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và
nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch tính theo vàng từ các
nước khác.
Để một nước có thể thặng dư mậu dịch thì:
+ Thặng dư (mậu dịch) thương mại phải được thực hiện bởi các công ty
buôn bán độc quyền của Nhà nước, hoạt động nhập khẩu bị hạn chế và hoạt
động xuất khẩu được trợ cấp.
+ Các cường quốc thực dân luôn cố tìm cách đạt được thặng dư mậu dịch
với các thuộc địa của họ. Họ coi đây nh là một phương tiện khác để có thu nhập.
Đồng thời để thực hiện điều này không chỉ bằng cách giữ độc quyền thương
mại thực dân mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các nước
QTKDQT - 39A Trang
3
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô, với gía trị kém hơn nhưng lại nhập
khẩu những sản phẩm có giá trị cao.
Lý thuyết trọng thương mang lại lợi Ých cho các cường quốc thực dân, vì
thế chính sách ngoại thương của trường phái này theo hướng:

- Giá trị xuất khẩu càng nhiều càng tốt, nghĩa là không những số lượng hàng
hoá xuất khẩu phải nhiều mà còn phải ưu tiên xuất khẩu những hàng hoá có giá
trị cao. Đồng thời đánh giá thấp việc xuất khẩu nguyên liệu và cố sử dụng
nguyên liệu để sản xuất trong nưóc rồi đem xuất khẩu sản phẩm.
- Giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu, giành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên
liệu, hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm nhất là hàng xa xỉ.
- Khuyến khích chở hàng hoá bằng tàu của nước mình vì như vậy vừa bán
được hàng và tận dụng được cả những món lợi nhuận khác như: cước vận tải,
phí bảo hiểm
Ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1650.
Lúc này các cường quốc thực dân thường hạn chế sự phát triển công nghiệp của
các nước thuộc địa của họ, nhưng các thủ đoạn hợp pháp vẫn buộc chặt quan hệ
thương mại của các nước thuộc địa với chính quốc. Tuy nhiên quan điểm “Nội
thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải phải
có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương”, cho đến nay vẫn luôn được
các quốc gia khai thác và phát triển một cách tối ưu nhất.
2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Khác với trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “sự giàu có của
mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào
vàng”.
Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc
phân công thì các quốc gia có lợi Ých từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc
QTKDQT - 39A Trang
4
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
gia có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ
sản xuất ra những sản phẩm mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các
nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh
rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc
gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối,

thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước
khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước này không
sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu.
Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của mình bởi
vì người lao động sẽ lành nghề hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ
không mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm
khác, do làm một công việc lâu dài nên người lao động sẽ có nhiều kinh
nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp làm việc tốt hơn.
Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng
ông vẫn nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nổ lực cả
nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Lợi
thế do nổ lực là lợi thế có thể có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành
nghề.
Ngày nay người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được
sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai
thác hoặc sản phẩm thô.Quá trình sản xuất ra loại hàng hoá này phần lớn phụ
thuộc vào lợi thế do nỗ lực, thường là kỹ thuật chế biến và khả năng sản xuất
các loại sản phẩm khác biệt với những sản phẩm khác.
Lợi thế tuyệt đối so sánh số lượng của một loại sản phẩm được sản xuất
ra ở hai nước khác nhau với cùng một điều kiện sản xuất. Giả sử Việt nam có lợi
thế tuyệt đối so với Hàn Quốc về sản xuất gạo trong khi đó Hàn Quốc có lợi thế
tuyệt đối về sản xuất vải. Đó là lợi thế tuyệt đối tương hỗ, trong trường hợp nếu
QTKDQT - 39A Trang
5
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
mỗi nước chuyên môn hoá loại sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt đối thì
tổng sản phẩm của cả hai nước có thể tăng lên.
2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.
Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các
quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có

thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi Ých. Nói cách khác trong
điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại
hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá Ýt bất lợi nhất để trao đổi
với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất
nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy
sản xuất trong nước. Ta có thể giải thích rõ điều này thông qua ví dụ sau:
QTKDQT - 39A Trang
6
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Giả sử 2 quốc gia Việt Nam và Mĩ có năng lực sản xuất vải và máy tính
nh sau:
Quốc gia
Mặt hàng
Mĩ Việt Nam
Vải (m/1 giờ công)
Máy tính (cái/ 1 giờ công)
4
6
2
1
Qua bảng trên ta thấy Mĩ có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong sản
xuất cả hai mặt hàng vải và máy tính. Tuy nhiên nếu phân tích cụ thể thì ta sẽ
thấy năng suất lao động của ngành chế tạo máy tínhcủa Mĩ gấp 6 lần của Việt
Nam trong khi đó ngành dệt chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa chế tạo máy tính và
sản xuất vải thì Mĩ có lợi thế tương đối trong việc sản xuất máy tính còn Việt
Nam có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải. Theo quy luật của lợi thế so
sánh hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất loại
sản phẩm mình có lợi thế so sánh hơn sau đó tiến hành trao đổi một phần sản
phẩm cho nhau.

Giả sử tỉ lệ trao đổi là 6 máy tính lấy 6 m vải thì Mĩ vẫn có lợi 2 m vải tức
là đã tiết kiệm được 1/2 giờ công còn Việt Nam tiết kiệm được 3 giờ công do có
lợi 3 máy tính.
Nh vậy qua ví dụ trên ta thấy được lợi Ých của việc trao đổi sản phẩm
giữa các quốc gia thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Sự chuyên môn hoá
sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những
sản phẩm bất lợi hơn sẽ giúp cho việc sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất nguồn lực
của mỗi nước. Bên cạnh đó còn làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tạo
điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Vì vậy đây chính là
tính tất yếu của việc mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu này.
QTKDQT - 39A Trang
7
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
3. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu.
Cũng là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác, nhưng hiện
nay hoạt động xuất khẩu được các doanh nghiệp vận dụng dưới nhiều hình thức
khác nhau, thể hiện ở một số hình thức chủ yếu sau:
3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó xuất
khẩu những sản phẩm đó ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Các bước tiến hành một thương vụ xuất khẩu trực tiếp trong trường hợp
doanh nghiệp không tự sản xuất ra sản phẩm:
+ Kí hợp đồng nội, mua hàng và trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất
trong nước.
+ Kí hợp đồng ngoại, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước
ngoài.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các đơn vị kinh
doanh thường cao hơn các hình thức khác. Với vai trò là người bán hàng trực
tiếp, doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm

chất hàng hoá, tiếp cận thị trường và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách
hàng. Tuy vậy hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng
vốn khá lớn để sản xuất, thu mua hoặc có thể gặp rất nhiều khó khăn, rủi ro như:
không xuất được hàng, không thu mua được hàng, bị thanh toán chậm hay do
thay đổi tỷ giá, lạm phát
3.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác
QTKDQT - 39A Trang
8
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Theo hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra
nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó
thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ được
hưởng phí uỷ thác theo thoã thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến.
Các bước tiến hành của hình thức này :
+ Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với các đơn vị trong nước.
+ Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu.
+ Giao nguyên liệu gia công (theo định mức đã thoã thuận gián tiếp giữa
đơn vị chế biến trong nước với bên nước ngoài).
+ Xuất lại thành phẩm cho bên nước ngoài.
+ Thanh toán phí gia công cho đơn vị chế biến (do bên nước ngoài trả) và
được hưởng phí uỷ thác gia công.
Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn
thu được lợi nhuận, Ýt rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn.
Song nó cũng đòi hỏi rất nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu, do đó để thực hiện tốt
hình thức này các doanh nghiệp cần phải có những cán bộ kinh doanh kinh
nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Hình thức xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài cũng tương tự như
hình thức này, chỉ khác là đơn vị sản xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để
sản xuất ra các sản phẩm theo đúng yêu cầu theo đơn đặt hàng.
3.3. Xuất khẩu uỷ thác.

Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng
ra đóng vai trò là trung gian xuất khẩu, làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên có
hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị
hàng xuất khẩu đã được thoã thuận.
QTKDQT - 39A Trang
9
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Các bước tiến hành của hình thức này:
- Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị sản xuất trong
nước.
- Ký hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền
hàng .
- Nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị trong nước.
Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, Ýt trách nhiệm, người
đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt
không cần vốn để mua hàng, nhận tiền nhanh Ýt thủ tục và tương đối tin cậy.
3.4. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi
có giá trị tương đương với giá trị lô hàng đã xuất. Mục đích xuất khẩu không
phải là nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị xấp xỉ giá
trị của lô hàng đã xuất.
Có rất nhiều loại hình buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù
trừ, chuyển giao nghĩa vụ , mua lại sản phẩm trong đó
+ Hình thức hàng đổi hàng là việc một bên dùng hàng hoá để đổi lấy một
lượng hàng tương đương và không thanh toán trong hình thức này.
+ Hình thức trao đổi bù trừ là hình thức trong đó hai bên sẽ tiến hành trao
đổi hàng hoá trong một thời gian dài và sẽ dùng một tài khoản chung để theo dõi
nghiệp vụ giao nhận hàng của cả hai bên. Đến cuối kỳ hai bên sẽ thanh toán tiền
chênh lệch theo tính toán. Hàng hoá có thể là một hoặc nhiều mặt hàng khác

nhau trong một thời gian nhất định.
QTKDQT - 39A Trang
10
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
+ Mua đối lưu là hình thức một bên sẽ ký kết hợp đồng mua hàng có
thanh toán và cam kết, sau đó một khoảng thời gian nhất định sẽ bán cho bên kia
một lượng hàng hoá khác và cũng được nhạn tiền thanh toán. Giá trị của hai hợp
đồng này không nhất thiết phả bằng nhau, thời gian thông thường từ 1đến 5 năm
với danh mục hàng hoá được mở rộng rãi.
+ Chuyển giao nghĩa vụ là hình thức mua bán đối lưu trong đó một bên có
quyền chuyển nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ ba.
+ Hình thức mua lại sản phẩm là hình thức một bên tiến hành nhập khẩu
máy móc thiết bị nhưng không thanh toán ngay mà sẽ trả dần bằng sản phẩm do
chính máy móc thiết bị đó sản xuất ra.
3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Hình thức thường xuất khẩu hàng hoá (hàng trả nợ) được ký theo nghị
định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm là khả
năng thanh toán được bảo đảm (do Nhà nước trả cho đơn vị sản xuất).
3.6. Xuất khẩu tại chỗ.
Đây là hình thức mới nhưng nó đã thể hiện rõ khá nhiều ưu điểm và đang
được phổ biến rộng rãi. Đặc điểm của hình thức này là hàng hoá không bắt buộc
phải vượt qua khỏi biên giới quốc gia để đến tay khách hàng. Do vậy không nhất
thiết phải có hợp đồng phụ trợ nh hợp đông vận tải, bảo hiểm, thủ tục hải quan
nh vậy sẽ giảm được chi phí vận chuyển cũng nh các chi phí khác có liên quan,
hơn nữa độ rủi ro thấp vì kinh doanh trong môi trường hoàn toàn quen thuộc.
3.7. Gia công quốc tế.
QTKDQT - 39A Trang
11
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Gia công quốc tế là hình thức trong đó bên nhận gia công nhập nguyên

liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm theo
yêu cầu của bên đặt gia công sau đó giao lại và nhận thù lao gọi là phí gia công.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc
làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển
sản xuất. Đây là hình thức được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển có
nguồn nhân lực dồi dào. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ
tận dụng được nguồn nhân công rất lớn với giá rẻ, cũng như tận dụng được
nguồn nguyên vật liệu sẵn có của bên nước nhận gia công.
3.8. Tạm nhập tái xuất
Nội dung của hình thức này là xuất khẩu những hàng hoá đã nhập trước
đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích của hình thức này là thu
về một lượng ngoại tệ lớn hơn số bán ra ban đầu.
Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu tới nước tái xuất khẩu rồi từ nước
tái xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất khẩu sẽ thu tiền của nước
nhập khẩu và trả tiền cho nước nhập khẩu.
4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động buôn bán được diễn ra trên phạm vi toàn
thế giới. Nó không phải là hình thức buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức ở bên trong và bên ngoài,
nhằm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá sản xuất của các doanh nghiệp nói riêng và
của cả nước nói chung, ra nước ngoài theo ngoại tệ. Qua đó có thể thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng
cao mức sống của nhân dân. Như vậy, kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động
kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao, có tác động to lớn trong việc liên kết
QTKDQT - 39A Trang
12
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
sản xuất với tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau nhằm phát triển nền sản xuất
của xã hội.
Đối với nước ta, một nước có nền kinh tế kém phát triển cơ sở vật chất

còn nghèo nàn, lạc hậu và không đồng bộ, các doanh nghiệp trong nước còn
kém về mọi mặt Nên việc đẩy mạnh xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc thúc đẩy đưa nền kinh tế của đất nước phát triển, thể hiện:
* Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra, nhờ đó doanh nghiệp có
thể tiếp xúc không chỉ với những khách hàng trong nước mà còn cả khách hàng
ở một số thị trường nước ngoài. Với doanh nghiệp làm tốt công tác thâm nhập
thị trường, vận dụng Marketing quốc tế vào xuất khẩu thì tạo nên cơ hội rất tốt
để mở rộng hoạt động kinh donh của doanh nghiệp mình.
Bên cạnh đó việc mở rộng thị trường, sẽ tạo điều kiện mở rộng khả năng
cung cấp đầu vào, góp phần cho sản xuất và phát triển kinh tế ổn định.
* Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ cho doanh
nghiệp, tăng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu, phụ liệu phục vụ cho quá trình kinh doanh xuất khẩu. Xuất
khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế nghành theo hướng sử
dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối của đất nướctạo cho hàng hoá có
tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Nh vậy có thể giúp các doanh nghiệp
xuất khẩu tăng sản xuất về số lượng, chất lượng, tăng năng suất lao động và tiết
kiệm chi phí lao động xã hội.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công
nghiệp hoá thực hiện tốt, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc
QTKDQT - 39A Trang
13
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
thiết bị, công nghệ tiên tiến. Chính vì thế nguồn vốn quan trọng để có thể nhập
khẩu công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu, từ đó xuất
khẩu quyết định quy mô tốc độ của nhập khẩu cho công cuộc xây dựng đất
nước.

* Xuất khẩu là một trong những việc giải quyết nạn thất nghiệp trong
nước. Sự phát triển của các nghành công nghiệp hướng vào xuất khẩu còn mở ra
một khả năng mới, thu hút một lực lượng lao động ngày càng lớn góp phần giải
quyết vấn đề gay gắt hiện nay là vấn đề việc làm. Bên cạnh đó nó còn có ý nghĩa
là nhờ cách sử dụng lao động thông qua việc phát triển các nghành công nghiệp
xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và sản xuất ra các sản
phẩm có trình độ kĩ thuật đạt tiêu chuẩn quốc tế là một lực lượng lao động đã
qua đào tạo, rèn luyện về mọi măt như trình độ, kĩ thuật chuyên môn
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa các nước, nâng cao vai trò, vị
thế của nước ta trên trường quốc tế. Nhờ đó mà có nhiều nước muốn thiết lập
quan hệ buôn bán và đầu tư cho nước ta. Đồng thời tạo khả năng liên doanh, liên
kết các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước một cách bền vững, tự giác.
* Xuất khẩu có khả năng phát huy tính năng động sáng tạo của các cán
bộ xuất nhập khẩu, các đơn vị kinh doanh, các doanh nghiệp nh: tích cực tìm
kiếm và phát hiện các mặt hàng có khả năng xâm nhập.
Mặt khác xuất khẩu tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, theo dõi kiểm tra lẫn
nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước.
Chính nhờ sự cạnh tranh này góp phần từng bước làm thay đổi chất lượng, giá
cả, mẫu mã hàng hoá thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế đất nước.
QTKDQT - 39A Trang
14
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu cũng tương tự nh nội dung của
các hoạt động kinh doanh trong nước, nhưng khác biệt là có yếu tố nước ngoài
tham gia và mang tính chất phức tạp, nhiều rủi ro so với hoạt động mua bands
trong nước.
Để có thể hoạt động được trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh
nghiệp dù có nhiều kinh nghiệm hay mới bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều

phải tuân thủ một cách nghiêm túc những công đoạn của một thương vụ làm ăn
thì mới có khả năng tồn tại lâu dài được.
Do đó để việc tổ chức xuất khẩu được tốt và có hiệu quả, các doanh nghệp
phải nắm được những vấn đề cơ bản của hoạt động xuất khẩu.
1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc quan trọng trong chu kì sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đối với các đơn vị ngoại thương thì việc nghiên cứu thị
trường quốc tế lại càng có ý nghĩa hơn bởi vì nó liên quan trực tiếp đến việc tiến
hành giao dịch, thâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu thị trường trước tiên phải cần nhận biết hàng hoá.
Hàng hoá mua bán phải được tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm để hiểu rõ
giá trị, công dụng, nắm bắt được những đặc tính của nó và những yêu cầu của
thị trường về hàng hoá đó như: quy cách phẩm chất bao bì, cách trang trí bên
ngoài, cách lựa chọn, phân loại vv
Bên cạnh đó cần nắm vững tình hình sản xuất của mặt hàng đó như: thời
vụ, khả năng về nguyên vật liệu, công nhân tay nghề, nguyên lý cấu tạo Cũng
nh phải biết mặt hàng đang lựa chọn đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống
của nó trên thị trường. Thông thường tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt
hàng gồm bốn giai đoạn: thâm nhập, phát triển, bão hoà và thoái trào.
QTKDQT - 39A Trang
15
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
+ Nắm vững thị trường nước ngoài
Đối với những đơn vị kinh doanh đối ngoại, việc nghiên cứu thị trường
nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì vậy khi nghiên cứu cần chú ý đến
những điều kiện về chính trị – thương mại chung, luật pháp, chính sách buôn
bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải , tình hình giá cước
Ngoài ra đơn vị kinh doanh cần nắm vững những điều có liên quan đến
mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài đó như: Dung lượng
thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng, những kênh tiêu thụ, sự biến động giá

cả
+ Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh có thể
lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều
kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động
kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện nh
nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công với khách hàng
khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị kinh doanh
trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng
thường không căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu
khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tìa chính, lĩnh vực
kinh doanh và uy tín của họ trên trường quốc tế.
2. Nghiên cứu nguồn hàng và tổ chức thu mua xuất khẩu
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng, đơn vị ngoại thương phải nghiên
cứu nguồn hàng. Thông qua việc nghiên cứu nguồn hàng, ta có thể nắm được
QTKDQT - 39A Trang
16
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của các đơn vị trong nghành và ngoài
nghành, trong địa phương và ngoài địa phương, quốc doanh và tư doanh để khai
thác huy động cho xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng cũng còn tạo cơ sở chắc chắn cho việc kí kết và thực
hiện hợp đồng xuất khẩu
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng:
* Lấy mặt hàng làm đối tượng nghiên cứu: Theo phương pháp này người ta
nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng. Nhờ đó có thể biết
được tình hình chung và khả năng sản xuất cũng như nhu cầu xuất khẩu của
từng mặt hàng.
* Lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu: Theo phương
pháp này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng của từng cơ sơ sản

xuất. Năng lực sản xuất này thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng, chất lượng hàng hoá cung ứng.
+ Giá thành
+ Trình độ công nhân
+ Trang thiết bị, máy móc
Phương pháp lấy đơn vị sản xuất kinh doanh làm cơ sở nghiên cứu giúp
nắm bắt được tình hình cung ứng của từng xí nghiệp, địa phương nhưng lại
không nắm bắt được tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng, nên thông thường
các đơn vị kinh doanh xuất khẩu áp dụng cả hai phương pháp.
Công tác thu mua cũng là một công đoạn quan trọng, do đó cần xây dựng
công tác thu mua hợp lý thông qua các đại lý các chi nhánh của mình. Nh vậy sẽ
giúp doanh nghiệp tiết kiệm dược chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu
quả thu mua.
QTKDQT - 39A Trang
17
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
3. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài doanh nghiệp cần phải lựa
chọn đước đối tác đang hoạt động trên thị trường có thể thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình. Việc lựa chọn này có thể thông qua các bạn hàng đã có
quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, thông qua tin tức thu thập và
điều tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, ngân hàng , các tổ chức tài
chính để họ giúp đỡ nhằm tìm hiểu về năng lực tài chính, uy tín, kinh nghiệm,
năng lực pháp lý của đối tác kinh doanh đó. Việc lựa chọn đúng đối tác để
giao dịch tránh cho doanh nghiệp những phiền toái, rủi ro, mất mát gặp phải
trong quá trình kinh doanh trên thị trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để
thực hiện thành công các kế hoạch kinh doanh của mình.
Là những người xuất nhập khẩu trực tiếp, thì với bạn hàng kinh doanh nh
vậy, doanh nghiệp không phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh. Tuy nhiên trong
trường hợp hoàn toàn mới thì cách tốt nhất là phải thông qua các đại lý hoặc các

công ty uỷ thác xuất khẩu để giảm bớt chi phí cho việc thâm nhập vào thị trường
mới.
Để có thể tìm hiểu chính xác được bạn hàng làm đối tác, ngoài việc dựa
trên những mối quan hệ bạn hàng có sẵn, đã hiểu biết và có uy tín kinh doanh
với nhau thì cần phải thông qua các công ty tư vấn, các sở giao dịch, phòng
Thương mại và Công nghiệp các nước có quan hệ.
4. Đàm phán và kí kết hợp đồng
Đàm phán, kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng
của hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, đều kiện thực hiện những
công đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó, đồng thời cũng quyết định đến
tính khả thi hay không khả thi của các kế hoạch kinh doanh của các doanh
nghiệp.
QTKDQT - 39A Trang
18
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu trên thị trường, vào đối thủ cạnh
tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ
giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết quả của nó là
hợp đồng sẽ được kí kết. Một cam kết trong hợp đồng sẽ là những pháp lý quan
trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện đúng lời cam kết của
mình.
Đàm phán có thể được thực hiện thông qua thư tín, qua điện thoại hay gặp
gỡ trực tiếp và được tiến hành qua các bước sau:
+ Chào hàng: Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của
mình là lời đề nghị kí kết hợp đồng.
+ Hoàn giá: Khi nhận đựơc lời chào hàng và không chấp nhận giá chào
hàng đó đồng thời đưa ra những đề nghị gọi là chào hoàn giá.
+ Xác nhận: Là việc xác nhận lại điều kiện mà hai bên đã thoã thuận
trước đó. Việc này đồng nghĩa với việc kí kết hợp đồng.
+ Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng mà

bên kia đưa ra.
Khi kí kết hợp đồng cần chú ý:
* Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sạch đẹp, nội dung phải phản ánh
đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoã thuận.
* Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ phổ biến và là ngôn
ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo.
* Người kí kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền kí kết.
* Hợp đồng phải đề cập rõ vấn đề khiếu nại, trọng tài để giải quyết các
vấn đề tranh chấp phát sinh nếu có. Tránh tình trạng tranh cãi, kiện tụng kéo dài
thời gian và chi phí tốn kém.
QTKDQT - 39A Trang
19
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi kí kết thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương doanh nghiệp
xuất khẩu với tư cách là một bên kí kết, phải thực hiện hợp đồng đó. Việc này
đòi hỏi phải có sự tuân thủ của luật quốc gia và luật quốc tế, cũng như các tập
quán quốc tế. Đồng thời phải bảo đảm được quyền lợi của quốc gia còng nh
quyền lợi và uy tín của doanh nghiệp. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực
hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp xuất khẩu cần có
sự cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của
toàn bộ nghiệp vụ giao dịch.
Các bước tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
+ Xin giấy phép xuất khẩu.
+ Giục mở LC và kiểm tra LC
+ Chuẩn bị hàng để xuất khẩu
+ Kiểm tra hàng hoá
+ Thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu
+ Mua bảo hiểm
+ Làm thủ tục Hải quan

+ Làm thủ tục thanh toán
+ Khiếu nại trọng tài (nếu có)
5.1. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu
khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác
Quốc tế, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh
hàng xuất khẩu.
QTKDQT - 39A Trang
20
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Việc xin giấy phép xuất khẩu bao gồm:
+ Đơn xin phép
+ Phiếu hạn nghạch
+ Bản sao hợp đồng đã kí với bên nước ngoài
Cấp giấy phép xuất khẩu sẽ do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ
Thương mại đảm nhiệm.
5.2. Mở và kiểm tra L/C
Trong hoạt động mua bán quốc tế ngày nay, việc sử dụng thư tín dụng ngày
càng trở nên phổ biến hơn cả nhờ những lợi Ých mà nó mang lại. Sau khi nhà
nhập khẩu mở thư tín dụng ( L/C ), nhà xuất khẩu phải kiểm tra lại cẩn thận, tỉ
mỉ. Và chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với các điều kiện trong
hợp đồng không. Nếu không phù hợp hoặc sai sót thì phải thông báo ngay cho
cho nhà nhập khẩu để sửa chữa kịp thơì bởi vì khi người mua (nhà nhập khẩu)
đã mở L/C thì lúc này L/C trở thành một trái vụ và các bên sẽ thực hiện theo các
điều kiện ghi trong L/C.
5.3. Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán
đoạn, gia công, hàng đổi hàng, đại lý thu mua, hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu.
Đóng gãi bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó đảm
bảo được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận biết và phân

loại hàng hoá, đồng thời gây Ên tượng có thể làm người mua thích thú. Trong
kinh doanh Quốc tế người ta dùng nhiều loại bao bì khác nhau, thông thường
được phân loại theo dụng cụ của nó nh: hòm, bao, kiện,
Kẻ kí mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Kí mã hiệu là những kí hiệu bằng chữ,
bằng số hoặc bằng vẽ hình được ghi trên bao bì nhằm thông báo những thông tin
QTKDQT - 39A Trang
21
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản. Kí mã hiệu cần phải sáng sủa, rõ
ràng, dễ đọc, không phai mờ, không ảnh hưởng tới phẩm chất của hàng hoá.
5.4. Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu
Đây là công việc cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngăn
chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định trách nhiệm rõ ràng của các khâu trong
sản xuất tạo nguồn hàng và đảm bảo uy tín cho nhà xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm nghiệm và
kiểm dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá do hai bên tự chịu trách
nhiệm thông qua hợp đồng. Cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng
hàng hoá xuất khẩu, có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng hoá đó đối
với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tự kiểm nghiệm mà không làm
đúng chức năng của mình. Việc kiểm tra có thể tiến hành ở cửa khẩu hoặc tại cơ
sở, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại hàng hoá.
5.5. Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu, chở
hàng dựa vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản hợp đồng mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ theo điều kiện hàng đối lưu, người ta có thể thuê khứ hồi hoặc chuyên
chở liên tục. Nếu hàng hoá không có khói lượng lớn thì người ta thường đăng kí
(lưu cước) chỗ của một tàu chọ để chở hàng. Thông thường trong nhiều trường
hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước

cho một công ty vận tải thuê tàu nh: Letfracht, Transimex
5.6. Mua bảo hiểm:
QTKDQT - 39A Trang
22
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thương gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì
vậy trong kinh doanh quốc tế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm
phổ biến nhất. Căn cứ vào các điều khoản, phương thức vận chuyển mà nhà xuất
khẩu hay nhập khẩu tiến hành mua bảo hiểm hay không. Hợp đồng bảo hiểm có
thể chia thành:
+ Hợp đồng bảo hiểm bao
+ Hợp đồng bảo hiểm chuyến
Tuỳ theo phương thức mua bán của nhà kinh doanh xuất khẩu mà mua bảo
hiểm nào. Khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm
sau:
- Bảo hiểm rủi ro (Điều kiện bảo hiểm A)
- Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện bảo hiểm B)
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện bảo hiểm C)
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau:
+ Điều khoản hợp đồng
+ Tính chất hàng hoá
+ Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng
+ Loại tàu chuyên chở
5.7. Làm thủ tục hải quan:
Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập
khẩu đều phải làm thủ tục hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau:
+ Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo hải quanđầy đủ các chi tiết
cần thiết về hàng hoá lên tờ khai. Việc kê khai này đòi hỏi phải trung thực và
chính xác. Nội dung bao gồm các mục nh: Loại hàng, tên hàng, số, khối lượng,
QTKDQT - 39A Trang

23
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân
giá trị hàng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu với nước nào Tờ khai hải quan phải
được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác mà chủ yếu là: Giấy phép xuất
nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
+ Kiểm tra hải quan : Các hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đều phải làm
thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo
pháp luật của Nhà nước, chống hành vi buôn lậu đồng thời cũng để thống kê số
liệu hàng hóa xuất nhập khẩu.
Thủ tục hải quan gồm các bước:
* Khai báo hải quan: Kê khai chi tiết về hàng hoá để kiểm tra và có các
giấy tớ khác có liên quan.
* Xuất trình hàng hoá: đưa hàng hoá đến địa điểm kiểm tra để kiểm tra
tính hợp lệ của hàng hoá, làm thủ tục hải quan và nộp thuế, sau đó sẽ niêm
phong kẹp chì.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan: Đây là khâu cuối cùng của thủ
tục hải quan, các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện quyết định này
Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định
như: Cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông qua), cho hàng đi qua một
cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại ), cho hàng đi qua sau khi
chủ hàng đã nộp thuế; lưu kho ngoại quan, hàng không được xuất khẩu Nghĩa
vụ của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó. Việc vi phạm
các quyết định đó sẽ thuộc tội hình sự.
Thực hiện các điều kiện giao hàng trong trường hợp hợp đồng đến thời
hạn giao hàng, các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng theo các
bước sau:
- Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng kí chuyên chở
QTKDQT - 39A Trang
24
Chuyên đề thực tập Vương Hải Vân

- Xuất trình bảng đăng kí chuyên chở cho người vận tải để lấy tờ hồ sơ
xếp hàng và bố trí các phương tiện xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn (phải có vận đơn hoàn hảo
có thể chuyển nhượng). Vận đơn có giá trị là cơ sở để xử lý các tranh chấp có
thể xảy ra đồng thời nó được chuyển về bộ phận kế toán để làm chứng từ thanh
toán.
6.8. Thanh toán hợp đồng:
Thanh toán là khâu trọng tâm, là kết quả cuối cùng của tất cả các giao
dịch trong kinh doanh nên thủ tục này thường rất phức tạp. Nó là thước đo, là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức thanh toán nhưng trong xuất khẩu người ta chủ yếu
sử dụng các phương thứcthanh toán nào Ýt rủi ro cho mình nhất. Vì vậy trên
bình diện quốc tế các phương thức được sử dụng phổ biến hơn cả là:
+ Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền .
+ Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), đây là một loại giấy mà ngân hàng
hứa bảo đảm hoặc hứa trả tiền. Thanh toán bằng L/C là phương thức đảm bảo
hợp lý thuận tiện, an toàn và hạn chế rủi ro cho cả hai bên.
+ Thanh toán bằng phương thức nhờ thu. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy
định thanh toán bằng phương thức này sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải
hoàn thành việc lập chứng từ cho ngân hàng để uỷ thác.
Đối với nhà, về phương diện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề
liên quan sau đây:
- Người bán muốn bảo đảm rằng người mua có các phương tiện tài chính
để trả tiền mua hàng hoá theo hợp đồng đã kí.
- Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hẹn
QTKDQT - 39A Trang
25

×