Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Văn học và hiện thực trong tầm nhìn hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.25 KB, 14 trang )

Văn học và hiện thực trong tầm nhìn hiện đại
1. Văn học – hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học
nghệ thuật
Văn học và hiện thực là một trong những vấn đề trung tâm của lí
luận văn học, cho đến nay, dù có rất nhiều hệ thống lí luận giải thích
khác nhau, vẫn chưa có lí luận nào được nhất trí công nhận. Đó là vì
hoạt động văn học có nhiều mối quan hệ, mà mỗi lí luận thường chỉ
xây dựng theo một quan hệ nhất định để khái quát thành nguyên lí,
cho nên thường ít gặp nhau. Theo sự phân tích của nhà lí luận văn
học Mĩ M. H. Abrams, mọi lí luận văn học đều xây dựng trên quan hệ
của các yếu tố cơ bản họp thành hoạt động nghệ thuật sau đây:
Thế giới (hiện thực)
| |
Tác phẩm
/ \
Nghệ sĩ(tác giả) Người tiếp nhận[1]
Từ quan hệ tác phẩm (văn học) với thế giới ta có lí thuyết mô phỏng
cổ xưa và thuyết phản ánh ngày nay. Từ quan hệ nghệ sĩ với tác
phẩm, ta có lí thuyết biểu hiện, sáng tạo. Từ quan hệ tác phẩm(văn
học) với người thưởng thức ta có lí thuyết giáo huấn thực dụng truyền
thống và lí thuyết giao tiếp, tiếp nhận hiện đại. Từ bản thân tác phẩm
trong quan hệ nghệ sĩ và người tiếp nhận ta có vấn đề nội dung, ý
nghĩa, kí hiệu, trò chơi, giải trí. Như thế vấn đề văn học và hiện thực,
cho dù bao quát cả quan hệ tác giả/hiện thực, người đọc/hiện thực
vào trong đó thì cũng chỉ bao quát có một phương diện của mô hình
hoạt động nghệ thuật nói chung, và quan hệ đó tác động đến quan
điểm đối với các phương diện quan hệ còn lại. Từ quan điểm đó,
không có lí do nào để hạ thấp hay phủ nhận mối quan hệ giữa văn học
và hiện thực cũng như phản ánh luận (Vấn đề là hiểu phản ánh luận
như thế nào). Xét từ phương diện này văn học phản ánh hiện thực
vẫn là một nguyên lí cơ bản, quan trọng không thể thiếu, nhưng chỉ là


một phương diện mà thôi. Phản ánh, theo nghĩa triết học mà nhà
triết học Todor Pavlov khái quát, là sản phẩm của “tác động qua lại”,
do đó nó không đơn giản chỉ là “tái hiện”, “mô phỏng”như lâu nay ta
hiểu, mà nó còn có nghĩa là phản ứng, đáp trả, phủ nhận…cho nên
những người phát biểu “văn học không mô phỏng (hay phản ánh)
hiện thực, mà chỉ phát hiện, biểu hiện thực tại (Cassirer, Adorno…),
thậm chí phủ nhận hiện thực, phê phán hiện thực, bóc trần các mặt
nạ của hiện thực, vượt lên trên hiện thực, thì cũng đều nằm trong
phạm trù “phản ánh” hiện thực, bởi họ đã hiểu phản ánh rộng hơn,
bao quát hơn. Chẳng hạn, bản chất nghệ thuật, tính nghệ thuật chính
là sự phủ định tính bản thể của thực tại. Hình tượng văn học là sự phủ
định đối với chất liệu thực tế của hiện thực. Lời văn nghệ thuật là sự
phủ định lời ăn tiếng nói thông tục hằng ngày. Trước đây ta chỉ khẳng
định phản ánh luận như là lí thuyết tái hiện, nhận thức là đã phiến
diện, đối với các lí thuyết khác không được coi là phản ánh luận đều
có thái độ phê phán, thù địch, như thế lại càng phiến diện. Hiểu thế,
trong bài này chúng tôi chỉ xét một mối quan hệ là văn học phản ánh
hiện thực, nhưng không xem nó là bình diện duy nhất, quyết định tất
cả.
2. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực và thời đại
Mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” từng bị hiểu giản đơn thành
sao chép các sự kiện của thời đại, tôn sùng nguyên mẫu, miêu tả
người thật việc thật, phản ánh các mâu thuẫn bản chất của xã hội,
thời đại…Mặc dù có lúc đã sáng tạo nên những sáng tác đáp ứng yêu
cầu thực tế lịch sử nhất thời, nhưng do nghèo nàn về tư tưởng và
thẩm mĩ, thiếu sức tưởng tượng, cá tính sáng tạo nhợt nhạt…cách
hiểu đó đã bị phê phán vào thời Đổi mới ở Việt Nam những năm 80 –
90 thế kỉ XX. Tuy bị hiểu sơ lược, nhưng bản thân mệnh đề đó vẫn có
cơ sở. Bởi đó là mệnh đề xác định một cách tổng quát nhất mối quan
hệ giữa văn học với hiện thực và thời đại, không có cách biểu đạt

khác. Thuật ngữ “mô phỏng” có từ thời cổ đại. Xưa nhất, Platon hiểu
“mô phỏng” (mimesis) chỉ là mô phỏng bề ngoài, chưa phải chân
lí[2] ,đến Aristote đã hiểu đó là mô phỏng con người, hành động, tự
nhiên. Đối với Aristote nghệ thuật không mô phỏng cái dĩ nhiên, mà
mô phỏng cái khả nhiên của thế giới để tạo ra thế giới có giá trị triết lí
và thẩm mĩ. Theo ông thơ ca (tức văn học) do đó mang chất triết lí
hơn lịch sử. Từ thời Phục hưng cho đến thời Cận đại, đến trước chủ
nghĩa lãng mạn tư tưởng mô phỏng hiện thực vẫn là tư tưởng chủ yếu
của phê bình. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội
(Stenhdal), nhà văn là thư kí của thời đại (Balzac), nếu là nhà văn vĩ
đại thì tác phẩm của anh ta phản ánh ít ra vài ba khía cạnh chủ yếu
của cuộc cách mạng (Lênin). Đối với các bậc thầy của chủ nghĩa hiện
thực, phản ánh hiện thực có nghĩa là tìm kiếm các gía trị nhận
thức,đạo đức, thẩm mĩ của dời sống, lột trần các dối trá, phơi bày mọi
ung nhọt, xé toạc mọi mặt nạ, là dấn thân vào tiến trình tiến bộ của
xã hội. Các tư tưởng đó đã diễn đạt khá đúng và hay về mối quan hệ
giữa văn học và đời sống lịch sử trên tầm vĩ mô, nghĩa là toàn bộ các
sự kiện, nhân vật, tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn học nghệ
thuật đều là sự phản ánh của đời sống xã hội. Cho dù quan niệm
phương Đông xưa xem văn học là dùng để nói chí, hoặc chủ nghĩa
lãng mạn phương Tây xem văn học “biểu hiện tình cảm, khát vọng
chủ quan của con người” thì cái chí ấy, cái tình cảm ấy cũng đều là
phản ánh đời sống xã hội. Tuy vậy, coi phản ánh luận là lí thuyết duy
nhất để giải thích văn học nghệ thuật là chưa đủ, vì với tư cách là
nhận thức luận, phản ánh luận chưa thể đi vào các quy luật sáng tạo
của văn học nghệ thuật cũng như quy luật tiếp nhận của người đọc. Để
hiểu nghệ thuật người ta phải nghiên cứu quy luật sáng tạo, tâm lí
học sáng tạo, kí hiệu học, tiếp nhận nghệ thuật…nhưng không vì thế
mà phủ nhận văn học phản ánh hiện thực, tức là phản ánh sự kiện,
kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con người trong văn học.

3. Hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa do thự c tiễn gợi ra
Quan niệm hiện thực của văn học như là tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức con người đã trở nên siêu hình, không phù hợp
thực tế. Hiện thực là thực tại trong mối quan tâm của con người. Từ
đó, mỗi hình thái ý thức xã hội có một đối tượng hiện thực tương ứng
với nó. Hiện thực của văn học không giống với hiện thực của khoa học
xã hội, khoa học tự nhiên và chính trị. Một thời gian rất dài chúng ta
hiểu “hiện thực” của văn học là cái thực tế hiểu theo một định hướng
hẹp ( hiện thực đấu tranh thống nhất nước nhà, hiện thực đấu tranh
hai con đường, hiện thưc phong trào thi đua…mà thực chất đó là hiện
thực đã được chính trị hoá theo một đường lối nhất định của ý thức hệ
). Hiện thực của văn học không tách rời với chính trị, nhưng không
đồng nhất hoàn toàn với hiện thực của chính trị. Chẳng hạn, hiện
thực chính trị không nhất thiết bao gồm hiện tượng vô cảm của cá
nhân đối với số phận của đồng loại, sự rung cảm trước thiên nhiên…
nhưng đó là điều không thể bỏ qua đối với hiện thực của văn học.
Điều này L. Tolstoi đã nói rất hay trong tác phẩmLuserne. Có thể
hiểu, hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa mà con người sống
trong đó cảm thấy được. Vũ trụ, thiên nhiên, con người, xã hội, văn
hoá, đồ vật… chỉ khi có ý nghĩa đối với con người mới là hiện thực.
Tất cả những gì mà con người tìm thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống và
từ đó khám phá những con đường để đi tới cuộc sống có ý nghĩa tốt
đẹp hơn, thú vị hơn trong nghệ thuật đều là hiện thực. Thực tiễn cho
phép người ta càng ngày càng phát hiện ra nhiều ý nghĩa của thế giới
đối với đời sống và do đó mà cả đối với nghệ thuật. Ý nghĩa của sự vật
thay đổi theo quá trình thực tiễn. Không có hiện thực bất biến, muôn
thuở. Văn học phản ánh hiện thực đó trong tính đa diện, toàn vẹn và
tính thời đại. Cũng là hiện thực thời chiến tranh nhưng trong chiến
tranh thấy khác, sau chiến tranh thấy khác, sau ba bốn mươi năm lại
thấy khác hơn nữa.

Thực tiễn là tính chất quan trọng nhất của hiện thực con người.
Thực tiến là phương thức tồn tại của con người, là hoạt động tự thực
hiện của con người, hoạt động của con người để vượt qua hữu hạn
nhằm hướng tới lí tưởng vô hạn và tự do. Con người là giống vật luôn
ý thức sự hữu hạn của chính mình từ trong mọi hoạt động sống như
cô đơn, tuổi thọ, khả năng chinh phục thế giới và bản thân, hữu hạn
trong sản xuất, trong tình yêu, trong sáng tạo, nhận thức, cảm nhận.
Trong hoạt động vượt lên chính mình con người nếm trải mọi tình
cảm từ vui sướng, tự hào, cao cả, đến bất lực, bi đát, khôi hài, nhục
nhã, cay đắng… Vì vậy hiện thực con người rất phong phú, phức tạp,
muôn màu.
4. Hiện thực của văn học – lĩnh vực của cái khả nhiên
Văn học nói chung không phản ánh hiện thực như các sự kiện hiện
tồn như báo chí, thông tấn, lịch sử biên niên, tư liệu… Văn học phản
ánh hiện thực trong những ý nghĩa do thực tế và các xu thế, khả năng
đời sống gợi ra. Vì thế từ xưa Aristote đã nói văn học (thi ca) do mô
phỏng cái khả nhiên mà giàu tính triết lí hơn lịch sử. Văn học ngày
nay vẫn thế, thiên về phản ánh cái khả nhiên của đời sống, bởi đặc
điểm con người là không chỉ quan tâm thực tại mà chủ yếu quan tâm
hơn tới những khả năng, cái tương lai. Người ta có thể chịu khổ, hi
sinh, nếu điều đó có ý nghĩa đối với tương lai của đất nước, con cháu
mình hoặc loài người nói chung[3]. Trong triết học duy vật biện
chứng người ta hiểu hiện thực với khả năng là một cặp phạm trù đối
lập và chuyển hoá cho nhau. Hiện thực là cái tồn tại với tư cách là kết
quả thực hiện của một khả năng nào đó, còn khả năng là khuynh
hướng phát triển tiềm tại của một hiện thực nào đó. Hiện thực thì
không phải khả năng, còn khả năng thì chưa phải là hiện thực. Nhìn
bề ngoài thì rõ ràng người ta đã loại bỏ khả năng ra ngoài hiện thực,
hạn chế văn học trong việc phản ánh các sự việc, con người hiện tồn.
Chúng ta đã làm như thế và về lí thuyết đã từng đối lập văn học hiện

thực và văn học lãng mạn. Nếu hiểu đúng, thì về thực chất hiện thực
bao hàm cả cái khả năng, và thiếu tính khả năng thì hiện thực chưa
phải là hiện thực của văn học. Chính vì là cái khả năng, nghĩa là cái
chưa trở thành hiện thực, cho nên nhà văn mới có thể dùng hư cấu
sáng tạo để làm cho cái khả năng tiềm tại hiện hình lên mặt giấy cho
mọi người quan sát, thể nghiệm, thực hiện chức năng dự báo của văn
học. Con người không chỉ quan tâm hiện tại, nó còn quan tâm tương
lai gấp trăm nghìn lần. Nó sợ nhất là hiện thực không thay đổi hoặc
thay đổi mà không dẫn đến tương lai tươi sáng. Nó không lo sợ cái
hiện thực vì nó đã có rồi, biết rồi, mà sợ nhất sự bất trắc của tương lai.
Hiện thực vốn đã vô cùng phức tạp, song khả năng là lĩnh vực còn
rộng lớn và phong phú hơn hiện thực gấp nhiều lần. Các khả năng
hiện thực và khả năng phi hiện thực, văn học đều quan tâm. Trong
hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng do điều kiện cụ thể, hiện
thực chỉ là sự thực hiện của một trong vô vàn các khả năng nào đó.
Nhiều khi cái khả năng tốt đẹp nhất thì bỏ phí còn cái khả năng xấu
nhất thì lại được thực hiện. Các khả năng khác tuy đã mất cơ hội được
trở thành hiện thực, nhưng chúng vẫn mãi mãi có ý nghĩa để suy nghĩ
về quá khứ, hiện tại và tương lai. Như thế hiện thực của văn học rộng
lớn gấp nhiều lần so với hiện thực của lịch sử. Cái khả nhiên còn là
hiện thực độc nhất vô nhị của văn học, bởi vì nó là những khả năng,
cho nên thích hợp cho nghệ sĩ lựa chọn về mặt lí tưởng, tinh thần,
nhận thức, tình cảm, thích hợp với trí tưởng tượng, với hư cấu sáng
tạo. Phản ánh cái khả nhiên ngoài chức năng dự báo còn có chức
năng giải phóng tư duy con người khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc,
bất di dịch.
5. Hiện thực – nguồn kí hiệu tự nhiên vô tận và sứ c mạnh của chủ
nghĩa hiện thực.
Trước đây mỗi khi nói đến hiện thực ta thường chỉ nói đối tượng
phản ánh là cội nguồn nội dung nhận thức của văn học. Nhưng xét từ

góc độ kí hiệu học, nếu hiện thực là thế giới ý nghĩa thì toàn bộ các sự
vật cụ thể, cảm tính – những yếu tố mang nghĩa xung quanh con
người lại đều là những kí hiệu tự nhiên ai cũng thấy, nhớ và hiểu. Các
hiện tượng, sự vật, con người – các yếu tố mang nghĩa, do lặp đi lặp
lại, cho nên từ tín hiệu, chỉ hiệu chúng trở thành kí hiệu, biểu hiệu
của các khả năng cuộc sống tiềm ẩn. Cần phải dứt khoát phân biệt
hiện thực như là đối tượng phản ánh của văn học nói chung với hiện
thực như là ngôn ngữ của văn học. Người ta thường nói đối tượng của
kí là người thật việc thật, nhưng đó là lầm. Người thật việc thật chỉ là
ngôn ngữ, đối tượng của kí vẫn là sự thực mang nghĩa. Cái “nghĩa này
mang nội dung ý thức hệ, nó làm thay đổi sự thật. Nếu nhà văn biết
nắm bắt, lựa chọn cái nổi bật, cái lặp lại, cái đặc trưng, sử dụng chúng
như những ngôn ngữ kinh nghiệm quen thuộc để biểu hiện ý nghĩa
thì sáng tác của anh ta dễ được công chúng đồng cảm, hiểu, chính vì
thế, ngôn ngữ hiện thực, sự miêu tả các hình tượng như thật với tư
cách là một loại kí hiệu từ lâu đã được nghệ thuật sử dụng và sáng
tạo. Ngôn ngữ tự nhiên này phong phú vô tận, khả năng diễn đạt hiện
thực bằng ngôn ngữ hiện thực tự nhiên cũng vô tận. Đó là lí do vì sao
ngôn ngữ hiện thực cho đến nay vẫn là ngôn ngữ gần gủi, yêu thích
của nhân loại. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang đường, kì ảo, gắn với
mẫu gốc, biểu tượng cũng có giá trị phổ biến nên cũng được sử dụng
lâu dài như một ngôn ngữ văn học hữu hiệu, nhưng do quan niệm về
“chủ nghĩa hiện thực độc tôn” một thời ấu trĩ mà nhiều khi nó bị bài
xích. Nhưng trong văn học dù có sử dụng yêú tố ngôn ngữ biểu đạt
tượng trưng như truyện và tiểu thuyết của Kafka, V. Hugo thì ngôn
ngữ hiện thực ở trong đó vẫn có vị trí nền tảng.
6. Tác phẩm văn học - sáng tạo kí hiệ u sinh nghĩa
Một thời gian dài do quan niếm sơ lược về phản ánh hiện thực, cho
rằng phản ánh là tái hiện đời sống như sự phản chiếu gương, như
chụp ảnh, giống như thật. Thực ra trong đầu óc con người không có

gương hay máy chụp ảnh nào hết, do đó, các thuật ngữ phản ánh, tài
hiện, miêu tả…đều chỉ có ý nghĩa ẩn dụ, nghĩa là nói, (hoặc tin rằng)
ý thức con người có khả năng nhận thức đúng như sự vật vốn có trong
thực tế. Đây cũng là lí do mà Lênin đã dùng các từ “sao chép”, “chụp
ảnh” để chỉ khả năng phản ánh của ý thức trong sách Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Đáng tiếc là nhiều người cố
tình hiểu các thuật ngữ ấy theo nghĩa đen (không phải nghĩa ẩn dụ )
để mà vận dụng trong trường hợp dung tục hoặc bắt bẻ, phê phán về
logich. Ngày nay với các lí thuyết kiến tạo, người ta cho thấy sự phản
ánh thực chất là một sự kiến tạo của ý thức con người. Mọi hình ảnh,
từ giản đơn đến phức tạp đều do hoạt động kiến tạo tinh vi trong đầu
óc con người trên cơ sở thông tin mà giác quan và kinh nghiệm tích
luỹ. Điều này trong Tư bản luận Marx cũng nói đến trong từ “biến
cải” trong đầu óc người. Hiểu như vậy thì phản ánh là kiến tạo, mà đã
kiến tạo tức là có vai trò sáng tạo của thể. Phản ánh và sáng tạo thông
nhất với nhau. Các hình thái ý thức chỉ khác nhau trong cách kiến
tạo, chứ không khác nhau ở chỗ có hình thái thiên về phản ánh, có
hình thái ý thức thiên về sáng tạo như có người hiểu. Khoa học kiến
tạo thành khái niệm, còn nghệ thuật kiến tạo thành hình tượng hoặc
giai điệu cảm tính. Thực chất kiến tạo tác phẩm nghệ thuật là tạo nên
một “văn bản” có khả năng sinh nghĩa, người đọc qua hệ thống các
biểu tượng, kí hiệu, kết cấu sẽ lại kiến tạo ý nghĩa của nó. Các nhân
vật, chi tiết, hình ảnh thực chất đều là những kí hiệu thuộc các cấp độ
khác nhau, được tổ chức vào hệ thống, có mở đầu, có kết thúc, có
tương phản, đối chiếu…tức là có cấu trúc, từ đó mà tạo nên nghĩa của
tác phẩm. Từ đó ta thấy chủ nghĩa hiện thực là một kiểu kiến tạo kí
hiệu mà chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa lãng mạn cũng là những kiểu
kiến tạo kí hiệu khác, không phân biệt hơn kém về giá trị nhận thức
và nghệ thuật. R. Jakobson căn cứ vào cặp đối lập trục dọc và trục
ngang, cho rằng ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện thực là kiến tạo văn bản

theo nguyên tắc tương cận, đặt các sự vật bên nhau theo sự liên tục,
liên tiếp để chúng bộc lộ ý nghĩa như thật, còn ngôn ngữ của chủ
nghĩa lãng mạn là thay thế cái này bằng cái khác, tạo thành những ẩn
dụ về hiện thực.
7. Nhìn lại lí thuyết chủ nghĩa hiện thực và lí thuyết điển hình
Chủ nghĩa hiện thực về lí luận, chủ trương phản ánh đời sống như
nó vốn có trong thực tế, tức là chủ trương dùng chi tiết chân thực lấy
từ đời sống. Theo quan niệm của tôi, đó là những kí hiệu tự nhiên
dược chọn lọc và nghệ thuật hoá. Chủ nghĩa hiện thực là kiểu sáng tác
sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để sáng tác. Nhân vật điển hình của văn
học lâu nay hiểu là loại nhân vật có sự thống nhất giữa cái chung khái
quát cao và cái cá biệt đặc thù, thì “cái chung” là nghĩa, cái được biểu
đạt, còn “cái cá biệt” là yếu tố cảm tính đóng vai trò cái biểu đạt, hai
mặt này họp lại tạo nên cấu trúc của kí hiệu văn học. Lí luận điển
hình ngoài yêu cầu về cái chung như là yêu cầu về tính khái quát cao,
có giá trị phổ biến, còn yêu cầu về tính cụ thể, cá thể, độc đáo, đặc
trưng, cá tính không lặp lại… đều chung chung, bởi nó không đi ra
ngoài cấu trúc chung của kí hiệu[4]. Khái quát hóa chỉ là một cách
mã hóa ý nghĩa khái quát trong hình tượng cụ thể. Biêlinski nói điển
hình là “người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành
danh từ chung” cũng nhằm chỉ đặc điểm của hình tượng nhân vật
như một kí hiệu. Một đặc điểm quan trọng nữa của chủ nghĩa hiện
thực, theo tôi, là loại kí hiệu mà giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt
có mối liên hệ nhân quả. Miêu tả người vô sản có nghĩa là khái quát
về vô sản, miêu tả địa chủ tức là khái quát về địa chủ, phong kiến.
Engels khi nói rằng chủ nghĩa hiện thực ngoài chi tiết chân thực ra
còn phải tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.” đã
nâng tính nhân quả lên một mức cao hơn, ông yêu cầu các chi tiết
giống như thật đến mức có thể có giá trị nhận thức độc lập về lịch sử.
Marx cũng khen các nhà văn hiện thực thế kỉ XIX qua các chi tiết

chân thực có khă năng cing cấp tri thức kinh tế chân xác hơn tri thức
trong các sách kinh tế học thời ấy cộng gộp lại. Đó không hề là lời
khen về tính nghệ thuật cũng như chủ nghĩa hiện thực, nhưng đã
được trích dẫn, vận dụng như là danh ngôn về chủ nghĩa hiện thực.
Engels lại đòi hỏi văn học nhận thức về bản chất giai cấp, xã hội của
nhân vật đúng như trong thục tế. Ông đã phê bình tác phẩm Cô gái
thành thị của Hackness là miêu tả giai cấp công nhân trong đó thiếu
tính tích cực như nó vốn có ở khu phố phía Đông thành Luận Đôn.
Các quan điểm đó một mặt nào đó là khởi đầu cho cho quan niệm
dung tục trong phản ánh hiện thực. Nhưng quan hệ giữa mặt biểu đạt
và mặt được biểu đạt trong kí hiệu lại có tính chất võ đoán, do vậy,
bản chất giai cấp của nhân vật có lúc làm nên tính điển hình, nhưng
nhiều lúc tính điển hình lại nằm ở chỗ khác. Ví dụ như ở hình tượng
AQ, tính giai cấp cố nông của y không làm nên tính điển hình, còn cái
phép thắng lợi tinh thần rất điển hình thì lại không thuộc về tính giai
cấp của y. Do vậy tuyệt đối hoá mối liên hệ nhân qủa trong điển hình
hiện thực sẽ làm nghèo sự đa dạng của khái quát văn học. Hơn nữa,
tạo thói quen đọc nhầm văn học. Trong truyện cổ tích ông vua có
thuộc về giai cấp phong kiến đâu, nó chỉ là phần thưởng cho những ai
ở hiền. Trong lí luận văn học hiện thực điển hình là một kí hiệu xây
dựng theo ngôn ngữ tự nhiên, còn các kiểu hình tượng khác sử dụng
kí hiệu huyền thoại, hoang tưởng. Phân tích về mặt cấu trúc kí hiệu ta
thấy điển hình không khác gì hình tượng phi điển hình. Nó chỉ là loại
hình tượng đặc thù chứ không có gì tỏ ra là khái quát cao cấp hơn,
chân thực hơn các hình tượng nghệ thuật khái quát theo ngôn ngữ
nghệ thuật khác, ví dụ như nhân vật nhân viên đạc điền trong Lâu
đài của Kafka. Suy nghĩ lại về khái niệm điển hình không có nghĩa là
phủ định điển hình và chủ nghĩa hiện thực, mà chỉ là muốn nói rằng
đó là một loại ngôn ngữ nghệ thuật có tác động to lớn, sâu rộng, được
bạn đọc yêu thích, nhưng không hề là phương pháp sáng tác hay

ngôn ngữ nghệ thuật có giá trị nhân thức cao hơn ngôn ngữ của chủ
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại mà một thời chúng ta đã gán cho
nó. Trong thực tế so với các ngôn ngữ khác, ngôn ngữ tự nhiên của
chủ nghĩa hiện thực do dễ đọc dễ cảm, vẫn được đông đảo nhà văn và
người đọc yêu thích đón nhận. Tuy vậy lạm dụng ngôn ngữ này sẽ
kìm hãm sự phát triển năng lực sáng tạo, sức tưởng tượng bay bổng
củ nhà văn cũng như trong thói quen thưởng thức truyền thống, xa lạ
với ngôn ngữ khác và sẽ khó khăn trong giao lưu văn học trong thời
đại hội nhập.
8. Sự đa dạng của các phươ ng thức sáng tạo phản ánh hiện thực[5]
Theo cách hiểu nêu trên, mọi sáng tác nghệ thuật đều phản ánh
hiện thực theo những cái khả nhiên mà nghệ sĩ lựa chọn để nêu lên
những vấn đề bức xúc của nhân sinh, hướng tới tạo lập một nhãn
quan mới về thế giới cho người đọc. Sự khác nhau của sáng tác nằm ở
phương thức sáng tác với tư cách là ngôn ngữ phản ánh khác nhau.
Do đó để phản ánh hiện thực sâu sắc, rộng lớn, không phải chỉ độc
tôn một chủ nghĩa hiện thực như trước đây mà có thể sử dụng nhiều
phương thức – ngôn ngữ nghệ thuật khác. Dòng ý thức, theo tôi hiểu
cũng là một ngôn ngữ hiện thực, bởi nhà văn sử dụng ngôn ngữ
chiêm nghiệm bên trong của dòng ý thức của mỗi con người mà do
một thời chúng ta chỉ quen với ngôn ngữ khách quan bên ngoài mà
bỏ quên nó đi. Ngôn ngữ huyền thoại, hoang tưởng, nghịch dị, xáo
trộn không gian thời gian cũng không xa lạ với tư duy kì ảo dân gian
và sáng tác của các tác giả lớn như Bồ Tùng Linh, Kafka, Marquez…
đều có giá trị trong việc sáng tạo ra những hình tượng văn học có tầm
cỡ dân tộc và nhân loại. Như thế để khai quát hiện thực hôm nay
chúng ta có thể sử dụng các loại ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng nhất
mà không phải tự trói mình vào ngôn ngữ hiện thực.

×