Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

hệ số an toàn vốn và tình hình thực hiện hệ số an toàn vốn của nhtm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.29 KB, 27 trang )

Lời nói đầu
Hoạt động cho vay là nghiệp vụ chủ yếu và mang lại phần lớn lợi nhuận cho
ngân hàng thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức kinh tế, hộ
gia đình… phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… thúc đẩy sự phát triển chung
của nền kinh tế. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng bên
cạnh đầu tư hàng loạt các sản phẩm dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh khi hội nhập,
thì họ cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro có thể xảy ra. Để hạn chế nguy cơ tiềm
Èn, Thanh tra Ngân hàng Trung ương đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu CAMELS, trong
đó hệ số an toàn vốn tối thiểu (Capital) là một chỉ tiêu quan trọng mà theo quy định
quốc tế hệ số này phải đạt trên 8% mới đảm bảo an toàn cho bất kỳ tổ chức tín
dụng nào. Chỉ tiêu này không những thể hiện sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng
Trung Ương đối với các tổ chức tín dụng mà còn giúp cho các tổ chức tín dụng
không bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi có sự cố bất thường xảy ra.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng đã áp dụng hệ thống chỉ tiêu CAMELS để bộ
phận giám sát từ xa đánh giá hoạt động của các ngân hàng thương mại. Riêng đối
với chỉ tiêu hệ số an toàn vốn Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đưa ra quy định tỷ
lệ này cũng phải đạt trên 8%. Tuy nhiên trong thực tế việc chấp hành chỉ tiêu này
đối với các ngân hàng thương mại đang gặp rất nhiều khó khăn và đang ở trong
tình trạng nếu thực hiện đúng quy định về an toàn vốn thì các ngân hàng sẽ phải
chịu lỗ vốn, nếu muốn kinh doanh có lợi nhuận buộc các ngân hàng phải vi phạm
chỉ tiêu trên. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và làm cách nào để
khắc phục?
ĐỀ TÀI: hệ sè an toàn vốn và tình hình thực hiện hệ số an toàn
vốn của nhtm việt nam
CÔ GIÁO: VŨ THỊ LỢI
1
Chương I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ SỐ AN TOÀN VỐN
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế ngày
càng phong phú, đa dạng, được phép tự do kinh doanh trong khuôn khổ của pháp


luật. Hệ thống tài chính ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Quá
trình gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các thể
chế tài chính khác dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin làm cho nguồn tiền của
các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ. Các nguồn tiền gửi trở nên
dễ di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suÊt hơn. Đây rõ ràng là một thuận lợi cho các
ngân hàng trong việc tìm kiếm các nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh,
kém ổn định của cả hệ thống. Công nghệ ngân hàng cho phép các ngân hàng có thể
chuyển nguồn tiền của mình đầu tư trên các vùng, các thị trường khác nhau ngày
càng xa trụ sở của ngân hàng. Điều này một mặt giảm rủi ro thông qua đa dạng hoá
khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường, song mặt khác cũng làm tăng
tính rủi ro trong kinh doanh ngân hàng do tính biến động lớn trên thị trường thế
giới và khu vực, thông tin sai lệch… Vì vậy duy trì một hệ số an toàn vốn đủ tiêu
chuẩn là một mục tiêu và cũng là yêu cầu bắt buộc đối với bất cứ tổ chức tín dụng
nào.
1. Hoạt động giám sát từ xa và hệ số an toàn vốn
1.1 Giám sát từ xa Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng
Trong kỷ nguyên của công nghệ thông tin này hoạt động của các ngân hàng
ngày càng đa dạng đồng thời cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết
liệt, vấn đề thanh tra, giám sát đối với các ngân hàng đóng vai trò quan trọng hơn
2
bao giờ hết để với vai trò đưa ra các quy định đồng thời, kiểm tra, giám sát hoạt
động của các ngân hàng nhằm cảnh báo trước các nguy cơ đổ vỡ, tăng cường sự
lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Giám sát từ xa là một phương pháp tiến hành thanh tra giám sát của thanh tra
NHTW trong đó tổ thanh tra gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích các
báo cáo để đánh giá các nội dung hoạt động của ngân hàng và tổ chức tín dụng. Nói
cách khác giám sát từ xa là một hệ thống phân tích, đánh giá thông tin thông qua
các bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống kê định kỳ các tổ chức tín dụng để
những nhà làm công tác quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước nắm một cách
thường xuyên tình hình nhằm báo động cho các nhà lãnh đạo Ngân hàng những vấn

đề cần thiết hoặc kiến nghị biện pháp khắc phục thích hợp, kịp thời.
Trong các phương thức tiến hành thanh tra thì giám sát từ xa được coi là có
nhiều ưu điểm vì phương thức này mang tính toàn diện, tổng hợp, được tiến hành
thường xuyên, giải quyết được khối lượng công việc lớn mà không cần đến đội ngũ
thanh tra viên đông đảo giúp tiết kiệm chí phí cho hoạt động thanh tra… Vì vậy
phương thức này được áp dụng rất phổ biến đặc biệt là ở những nước phát triển vì
phương thức thanh tra này đòi hỏi những trang thiết bị hiện đại và những thanh tra
viên có trình độ về công nghệ thông tin để có thể xử lý số liệu trên máy tính.
1.2 Hệ thống chỉ tiêu
Hệ thống chỉ tiêu CAMELS do uỷ ban BASLE xây dựng nên để thanh tra Ngân
hàng Trung ương thực hiện việc giám sát đối với các tổ chức tín dụng và là tiêu
chuẩn để đánh giá xếp loại các tổ chức tín dụng. Giám sát từ xa theo CAMELS là
thực hiện giám sát đối với các tổ chức tín dụng theo 6 thành phần (key) của
CAMELS:
3
a. Capital (vốn của Ngân hàng): là một chỉ tiêu rất quan trọng trong hệ thống
chỉ tiêu và với đặc điểm kinh doanh tiền tệ, vốn có ý nghĩa quyết định đến sự sống
còn của một ngân hàng. Giám sát vốn là giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn,
nói cách khác đó là việc kiểm tra xem vốn thực có của ngân hàng so với vốn đăng
ký ghi trong giấy phép khi thành lập và so với vốn pháp định có đảm bảo hay
không? Theo BALSE, hệ số an toàn vốn tối thiểu phải đạt 8% thì mới đạt tiêu
chuẩn về an toàn vốn.
b. Asset quality (chất lượng tài sản có): là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng
bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và hầu hết rủi ro
trong kinh doanh tiền tệ tập trung vào tài sản có. Giám sát tài sản có là tập trung
phân tích đánh giá các nhóm tài sản có, từng loại cho vay, từng loại dịch vụ theo
mét chuẩn mực nhất định sau đó tổng hợp các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá cuối cùng
về chất lượng tài sản có.
c. Management ability (khả năng quản lý): đây là chỉ tiêu mang tính chất định
tính. Đánh giá năng lực quản lý là đánh giá về năng lực quản trị, điều hành của ban

lãnh đạo; hệ thống thông tin; sự tuân thủ pháp luật; độ tín nhiệm trong môi trường
kinh doanh đối với khách hàng và các ngân hàng khác.
d. Earning (khả năng sinh lời): Đánh giá khả năng sinh lời là đánh giá kết quả
cụ thể trong kinh doanh của ngân hàng. Khả năng sinh lời của một ngân hàng được
thể hiện qua các khía cạnh: kinh doanh phải có lãi, tránh rủi ro và bù đắp được rủi
ro; chí phí hoạt động của ngân hàng kể cả các khoản lỗ năm trước; những khoản
tổn thất trong năm tài chính; đảm bảo một tỷ lệ tài sản có sinh lời so với tổng tài
sản có; thu nhập tính theo bình quân tài sản có cao; chí phí cho vốn huy động thấp;
chi phí cho những khoản tổn thất trong năm thấp; chi phí cho sản xuất kinh doanh
hợp lý.
4
e. Liquidity (khả năng thanh toán): được đánh giá theo các tiêu chuẩn về nội
dung khác nhau. Để đảm bảo khả năng thanh toán, các ngân hàng luôn phải duy trì
một tỷ lệ hợp lý giữa tài sản có động so với tổng nguồn vốn huy động; tài sản có
động so với tài sản nợ động đồng thời cũng phải chú ý tới thành phần tiền gửi dễ
biến động.
f. Sensibility to market risk (sự nhạy cảm đối với rủi ro thị trường): đây là chỉ
tiêu mới được bổ sung vào trong hệ thống chỉ tiêu, ban đầu khi uy ban Basle đưa ra
quy định thì chỉ có 5 chỉ tiêu trên nhưng hiện nay trong mét môi trường kinh tế có
nhiều biến động thì đòi hỏi bất kì tổ chức tài chính nào cũng phải có khả năng dự
báo và phòng ngừa rủi ro nếu không sẽ rất dễ dẫn đến nguy cơ phá sản vì vậy nó đã
trở thành một chỉ tiêu bắt buộc trong hệ thống chỉ tiêu CAMELS.
Trên đây là sáu nội dung có vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi
ngân hàng, việc quản lý tốt các nội dung trên sẽ giúp giảm thiểu được sự đổ vỡ của
hệ thống ngân hàng.
2.Chỉ tiêu hệ số an toàn vốn
2.1 Khái niệm
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được William Cook – Chủ tịch Uỷ ban BALSE từ
năm 1977 đến 1988 xây dựng nên vì thế hệ số này còn được gọi là hệ số Cook.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có so với tổng

tài sản có rủi ro (Capital to Risk Weighted assets) kể cả cam kết ngoại bảng.
Vốn tự có
Hệ sè Cook =
Tài sản có rủi ro quy đổi
5
Theo quy định của BIS (Balse) thì các Ngân hàng thương mại phải duy trì tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu tức tỷ lệ giữa vốn tự có (vốn chủ sở hữu) so với tổng tài sản có
rủi ro nội, ngoại bảng được điều chỉnh theo các mức độ rủi ro phải lớn hơn 8%.
Chỉ số này nói lên việc xác định mức độ rủi ro tín dụng đối với những sản phẩm
và lĩnh vực kinh doanh không phản ánh được trong bảng tổng kết tài sản (Balance
Sheet) của một ngân hàng, nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro về các hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó trong tương lai. Để tính toán chính xác chỉ tiêu này, có 2
vấn đề cần đặt ra và phải được giải quyết một cách thoả đáng đó là: thứ nhất, làm
thế nào để xác định cơ cấu vốn tự có cho phù hợp với thông lệ quốc tế BIS (Balse)
và hoàn cảnh thực tiễn của mỗi quốc gia; thứ hai, xác định mức độ rủi ro đối với
từng sản phẩm tín dụng hay sản phẩm đầu tư của ngân hàng đó.
2.2. Ý nghĩa của chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại
Hệ sè an toàn vốn là chỉ tiêu được nhắc tới đầu tiên trong hệ thống sáu chỉ tiêu
đánh giá hoạt động của ngân hàng thương mại, đây cũng là chỉ tiêu được đưa ra bàn
luận nhiều nhằm đưa ra cách xác định hệ số này một cách hợp lý nhất. Từ đó có thể
thấy tầm quan trọng của hệ số này trong việc đánh giá hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Quả thực trong xu hướng quốc tế hoá và nền kinh tế thị trường ngày
nay, các ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với hai vấn đề lớn đó là năng lực
cạnh tranh và rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hệ số an toàn vốn là một
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng của một ngân hàng thương mại trước hai
vấn đề trên.
- Hệ số an toàn vốn là chỉ tiêu đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng:
hệ số Cook được cấu thành bởi hai số liệu rất quan trọng của một ngân hàng thương
mại đó là vốn tự có và tài sản có rủi ro quy đổi. Nếu như vốn tự có phản ánh khả

6
năng của một ngân hàng trong việc giảm rủi ro phá sản đồng thời đảm bảo khả
năng sinh lời thì tài sản có rủi ro quy đổi lại phản ánh hoạt động sử dụng vốn và
mức độ rủi ro của các khoản tín dụng mà ngân hàng đó cấp cho nền kinh tế. Vì vậy
hệ số Cook chính là chỉ tiêu thể hiện khả năng chống đỡ của ngân hàng nếu có rủi
ro xảy ra. Một ngân hàng có hệ số Cook đạt tiêu chuẩn (trên 8%) nghĩa là ngân
hàng đó có khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền gửi của
mình.
- Thực hiện đúng chỉ tiêu hệ số an toàn giúp tăng uy tín cho Ngân hàng thương
mại: kinh doanh tiền gửi là một loại hình kinh doanh đặc biệt mà trong đó uy tín
của ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại của
ngân hàng đó. Một ngân hàng có hệ số an toàn đạt tiêu chuẩn không đơn thuần là
việc ngân hàng đã chấp hành đúng quy định mà ngân hàng trung ương đặt ra mà
bản thân ngân hàng đó sẽ tạo được uy tín của mình đối với khách hàng. Tạo được
uy tín đối với khách hàng cũng đồng nghĩa với khả năng tăng sức cạnh tranh của
mình so với các ngân hàng khác.
Ngoài ra hệ số Cook còn là công cụ để thanh tra Ngân hàng trung ương thực
hiện giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn, tức là kiểm tra vốn thực có so với
vốn đăng ký ghi trong giấy phép khi thành lập và so với vốn pháp định xem có đảm
bảo hay không? Kiểm tra quỹ dự phòng rủi ro có chấp hành theo quy định không?
Kiểm tra chỉ tiêu an toàn và hiệu quả sử dụng và bảo toàn vốn. Vì nếu các ngân
hàng không chấp hành quy định về hệ số an toàn vốn (trên 8%) sẽ có thể rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản điều này có thể gây nguy hại
cho toàn bộ hệ thống tài chính của cả quốc gia.
Các nước có nền kinh tế phát triển, có hệ thống tài chính phát triển mạnh luôn là
những nước đi đầu về việc thực hiện chỉ tiêu hệ số an toàn vốn. Các Ngân hàng ở
Anh Quốc luôn có tỷ lệ an toàn vốn ở mức từ 7% đến 10%; các Ngân hàng của
7
Nhật Bản, Trung Quốc… cũng là các ngân hàng có hệ số an toàn vốn rất cao. Sau
đây ta có bảng thống kê tình hình thực hiện hệ số an toàn vốn của ngân hàng Phát

triển Trung Quốc qua các năm từ 1996 đến 2001:
Bảng 1
Vốn của ngân hàng tỷ lệ an toàn vốn
31/12/96 31/12/97 31/12/98 31/12/99 31/12/00 31/12/01
Nguồn : />3. Nội dung thực hiện chỉ tiêu hệ số an toàn vốn của các Ngân hàng thương
mại
8
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
18.00%
Hiện nay đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới việc duy trì một hệ số an
toàn vốn trên 8% là một quy định bắt buộc đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải thực
hiện. Thực hiện hệ số an toàn vốn chính là việc duy trì hệ số vốn tự có trên tài sản
có rủi ro quy đổi sao cho đạt được tiêu chuẩn đặt ra là lớn hơn 8%. Vậy các tổ chức
tín dụng phải có kết cấu vốn tự có và tài sản có rủi ro quy đổi như thế nào để vừa

đảm bảo có tỷ lệ an toàn đúng quy định vừa đảm bảo đem lại lợi nhuận cho mình?
3.1 Vốn tự có của Ngân hàng thương mại
Vốn tự có được hiểu là nguồn tiền được đóng góp bởi những người chủ Ngân
hàng. Sở dĩ vốn tự có là một nhân tố để tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bởi vốn tự
có đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì các hoạt động của ngân
hàng và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài: Thứ nhất, vốn tự có
được xem như một tấm đệm giúp cho Ngân hàng chống lại rủi ro phá sản. Thứ hai,
vốn tự có là điều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt
động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Thứ ba,
vốn tự có tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ và sức
mạnh tài chính của Ngân hàng. Thứ tư, vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho
sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, những chương trình và
trang thiết bị mới. Thứ năm, vốn tự có là một phương tiện điều tiết tăng trưởng của
một Ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài.
9
Vốn tự có của Ngân hàng thương mại để tính hệ số này được chia thành hai loại:
vốn cấp I và vốn cấp II.
- Vốn cấp I (tier I): bao gồm: cổ phần thường, và phần thặng dư; lợi nhuận để
lại, chứng khoán ưu đãi, vĩnh viễn và không tích luỹ; lợi Ých của việc sở hữu một
phần trong các hãng kinh doanh khác; các tài sản vô hình nhưng có thể nhận ra
được có lựa chọn trừ đi lợi thế thương mại và các tài sản vô hình khác.
Vốn cấp I được xem như là sức mạnh của ngân hàng và theo quy định của Balse
thì vốn này phải chiếm tối thiểu 50% hay Ýt nhất là bằng 4% tổng tài sản có rủi ro.
Vốn cấp II (tier II): gồm dự phòng tổn thất cho vay, cho thuê tài chính; công cụ
vốn nợ thứ cấp; các khoản nợ có thể chuyển đổi bắt buộc; cổ phần ưu đãi trung hạn;
cổ phần ưu đãi vĩnh viễn tích luỹ với cổ tức chưa được thanh toán; các chứng chỉ
vốn cổ phần và các công cụ vốn dài hạn khác mà có các đặc điểm của cổ phần và
nợ.
Vốn vấp II là phần vốn phụ trong cơ cấu vốn tự có của Ngân hàng, tổng giá trị
vốn loại II không được vượt quá 100% vốn loại I. Trong tổng giá trị của vốn cấp II

thì các công cụ nợ có kỳ hạn ưu tiên thấp tối đa bằng 50% tổng giá trị của vốn loại
I; dự phòng bù đắp rủi ro giới hạn ở mức tối đa là 1.25% tổng tài sản có rủi ro; dự
trữ tăng lên do đánh giá lại tài sản phải bị khấu trừ đi 55%.
Hiện nay những quan điểm khác nhau về cách xác định vốn tự có vẫn đang là
vấn đề gây nhiều bàn cãi. Mặc dù Uỷ ban Balse và Uỷ ban Châu Âu đã phải đưa ra
những quy tắc mới về tiêu chuẩn của các công cụ công cụ tạo vốn để được xếp vào
vốn cấp I hay cấp II thì các nhà quản lý của các quốc gia nhất là ở Châu Âu vẫn
đưa ra những cách giải thích khác nhau khiến cho có sự mất cân băng trên thị
trường. Chẳng hạn như tại Anh và một số nước Châu Âu khác thì công nhận cổ
phần ưu đãi vĩnh viễn cũng là một bộ phận của vốn tự có. Tại Mỹ, vào tháng 10
10
năm 1996 FED đã thông qua công cụ chứng khoán ưu đãi uỷ thác (trust preferred
securities) như một phần vốn cấp I, nhưng đã gây ra những phản ứng ở Châu Âu và
các nước khác vì như vậy đã tạo cho các Ngân hàng Mỹ một nguồn vốn rẻ hơn.
Vốn tự có có quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số an toàn vốn, nghĩa là vốn tự có càng
cao thì hệ số an toàn vốn càng tăng. Do đó để có một hệ số an toàn vốn cao thì giải
pháp trước hết là phải tăng vốn tự có của Ngân hàng. Hiện nay trên thế giới đang
bùng nổ hoạt động sáp nhập và mua lại giữa các Ngân hàng mà một trong những
động cơ của các vụ sáp nhập là để tăng vốn tự có của Ngân hàng. Bên cạnh việc
sáp nhập Ngân hàng các Ngân hàng cũng có thể tăng nhanh chóng vốn tự có thông
qua nghiệp vụ phát hành như: phát hành vốn nợ (debt capital), chứng khoán ưu đãi
uỷ thác…
3.2 Tổng tài sản có rủi ro quy đổi
Mọi khoản mục tài sản có (cả nội bảng và ngoại bảng) đều được nhân với tỷ lệ
rủi ro trước khi tính tỷ lệ an toàn vốn. Theo thông lệ quốc tế (do uỷ ban Balse công
bố) thì mức độ rủi ro phân theo từng nhóm tài sản được chia thành bốn loại khác
nhau:
Loại 1, nhóm tài sản có tỷ lệ rủi ro là 0% gồm các khoản mục: ngân quỹ, chứng
khoán Chính phủ, chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay mua nhà thế
chấp và các hợp đồng tín dụng có thể huỷ bỏ vô điều kiện.

Loại 2, nhóm tài sản có tỷ lệ rủi ro 20% gồm: tiền gửi tại các ngân hàng khác,
các khoản mục bất thường ngắn hạn mang tính tự thanh toán.
Loại 3, nhóm tài sản có tỷ lệ rủi ro 50% gồm: các khoản cho vay mua nhà
(nhưng phải thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay đó) và hợp đồng tín
11
dụng thời hạn trên một năm chưa thực hiện (Hiện nay ở Việt Nam chưa có quy
định cụ thể về nhóm tài sản này).
Loại 4, nhóm tài sản có tỷ lệ rủi ro 100% gồm: các khoản cho vay kinh doanh,
các khoản tín dụng cho khu vực tư nhân, đầu tư vào các tài sản cố định khác của
ngân hàng và đầu tư bất động sản.
Việc xác định các mức độ rủi ro này dựa theo tiêu chuẩn xếp hạng tín dụng
tương ứng từ AAA đến A-, A+ đến A-, BBB+ đến BBB-, BB+ đến B-, dưới B
Tài sản điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro của Ngân hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
hệ số an toàn vốn nhưng theo mối tương quan tỷ lệ nghịch với hệ số an toàn vốn.
Hai nhân tố vốn tự có và tài sản có rủi ro quy đổi là căn cứ để tính hệ số an toàn
vốn vì vậy các ngân hàng luôn phải đảm bảo sự cân đối của hai nhân tố này nếu
như muốn duy trì hệ số an toàn vốn đạt yêu cầu. Bảng 2 phản ánh số liệu về kết cấu
vốn cấp I, vốn cấp II và tài sản có rủi ro quy đổi của ngân hàng 77 của Nhật Bản
trong năm 2002 và 2003, việc duy trì kết cấu hợp lý giữa các nhân tố trên đã làm
cho hệ số an toàn vốn của ngân hàng này rất cao:
Bảng 2
Million of
Millions of Yen (Ơ) US
dollar
2003 2002 2003
Vốn cấp I Cổ phiếu thường 24,659 24,659 205
Thặng dư vốn 7,835 7,835 65
Lợi nhuận để lại 225,714 219,736 1,878
Lãi suất thiểu số 5,654 5,784 47
Trái phiếu kho bạc (900) (351) (7)

Tổng sè (A) 262,962 257,663 2,188
Vốn cấp II Dự phòng chung cho khoản thất
thoát tín dụng
35,333 36,129 294
12
Các công cụ tài trợ và công cụ
khác
2,000
Tổng sè 35,333 2,000 294
Vị thế bao gồm chi phí (B) 17,437 19,150 145
Các khoản giảm
trừ
Giấy tờ có giá phát hành được
các TCTC khác nắm giữ (C)
Tổng vốn tự có (A) +(B) – (C) 280,399 276,813 2,333
Tài sản có rủi ro
quy đổi
Tài sản có nội bảng 2,790,014 2,665,103 22,889
Tài sản có ngoại bảng 38,739 78,838 322
Tổng sè (E) 2,790,014 2,743,941 23,211
Hệ sè Cook (Tiêu chuẩn trong nước) =
(D) / (E)x 100 (%)
10,05% 10,08 %
13
Chương II
VIỆC THỰC HIỆN HỆ SỐ AN TOÀN VỐN Ở VIỆT NAM
Triển khai luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng ngày
25/8/1999, Thống đốc NHNN đã ký quyết định 297/1999/QĐ NHNN5 về việc ban
hành “ Quyết định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín
dụng”. Tại khoản 1, điều 6, mục III, quy định: “Tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ

tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bảng được
điều chỉnh theo mức độ rủi ro”.
Như vậy, kể từ khi hiệp định Balse- hiệp định sơ bộ về tiêu chuẩn mới về vốn
được thông qua vào tháng 7 năm 1998 thì đến tận năm 1999 Luật các tổ chức tín
dụng của Việt Nam mới quy định việc chấp hành các tỷ lệ an toàn trong hiệp định
này.
1. Quy định của Việt Nam về hệ số an toàn vốn tối thiểu
1.1 Quy định về vốn tự có
Theo quyết định 297, cơ cấu vốn tự có dùng để tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp) cộng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ, tổng giá trị vốn điều lệ cộng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ nói trên phải khấu
trừ đi số vốn góp, mua cổ phần tại các tổ chức tín dụng khác.Theo “Chế độ tài
chính của các tổ chức tín dụng” được quy định tại Nghị định số 166/1999/NĐ-CP
ngày 19/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ thì quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được
trích lập hàng năm bằng 5% lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của
các tổ chức tín dụng. Như vậy, khác với quy định của BIS (Balse), theo quy định
của Việt Nam vốn tự có dùng để tính hệ số Cook chỉ bao gồm vốn loại 1 (tier 1).
Trong khi các Ngân hàng đang ngày càng có nhiều biện pháp để tăng vốn tự có của
14
mình bằng cách tăng vốn loại 2 (tier 2) như tăng dự phòng tổn thất cho vay, cho
thuê tài chính, công cụ vốn dài hạn… thì quy định trên khiến cho các Ngân hàng
Việt Nam phải chịu thiệt thòi hơn trong việc thực hiện hệ số an toàn vốn.
1.2 Quy định về tài sản có được điều chỉnh theo hệ số rủi ro
Theo quy định tại điểm 8, tài sản có rủi ro bao gồm cả giá trị tài sản có nội bảng
và ngoại bảng, chủ yếu là các khoản đầu tư tín dụng và các cam kết bảo lãnh cho
khách hàng. Về các mức tính tài sản có rủi ro, Quyết định 297 có quy định rõ gồm
có 4 loại giống như quy định của thế giới là: 0%, 20%, 50%, 100%. Trong đó:
Thứ nhất, nhóm tài sản có mức độ rủi ro 0% gồm: Tiền mặt ngân phiếu thanh
toán còn giá trị lưu hành; vàng; tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam; giấy tờ
có giá trị do ngân hàng nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam phát hành, bảo

lãnh; khoản cho vay có bảo đảm bằng tiền gửi tiết kiệm tại chính tổ chức tín dụng;
khoản cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá do chính tổ chức tín dụng phát hành;
khoản cho vay có bảo đảm bằng các loại giấy tờ có giá trị ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phát hành, bảo lãnh.
Thứ hai, nhóm tài sản có mức độ rủi ro 20% gồm: tiền gửi tại các tổ chức tín
dụng khác trong nước và ở nước ngoài; giấy tờ có giá trị do chính quyền tỉnh, thành
phố bảo lãnh, có tổ chức tín dụng khác phát hành; khoản cho vay từ các nguồn vốn
uỷ thác; khoản cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá trị có giá do chính quyền
tỉnh; thành phố bảo lãnh, tổ chứng tín dụng khác phát hành; khoản vay được các tổ
chức khác bảo lãnh; khoản cho thuê tài chính đối với tổ chức tín dụng khác.
Thứ ba, nhóm tài sản có, mức độ rủi ro 50%
Thứ tư, nhóm tài sản có mức độ rủi ro 100% gồm: khoản cho vay có thế chấp
bất động sản, cầm cố động sản khác; có bảo lãnh của tổ chức; cá nhân khác theo
15
qui định của pháp luật; khoản cho vay không có bảo đảm; khoản cho thuê tài chính
đối với cá nhân; khoản cho thuê tài chính đối với các tổ chức khác; khoản góp vốn
mua cổ phần của các doanh nghiệp; giá trị tài sản có nội bảng tương ứng của bảo
lãnh; cam kết trong nghiệp vô thanh toán L/C cam kết bán hối đoái có kỳ hạn; các
tài sản có khác (trừ các khoản góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng khác).
Như vậy quyết định 297 không có quy định cụ thể về nhóm tài sản có mức độ
rủi ro 50%. Trong khi đó theo quy định của thế giới thì loại tài sản có rủi ro ở mức
50% là những khoản cho vay được thế chấp toàn bộ bằng những bất động sản mà
người vay vốn đang hoặc sẽ sử dụng hoặc cho thuê. Điều này có nghĩa là những
khoản cho vay của các Ngân hàng Việt Nam nằm trong loại phải chịu rủi ro 50%
thì sẽ phải chịu mức rủi ro 100%. Đây là vấn đề đòi hỏi phải có sự chỉnh sửa, bổ
sung vì trên thực tế, nếu như người vay đã thế chấp bằng bất động sản thì nếu có
rủi ro xảy ra ngân hàng có thể phát mại tài sản đó để hoàn vốn và chắc chắn giá trị
thu hồi tối thiểu cũng bằng 50% giá trị thực của tài sản tại thời điểm bán.
2. Tình hình thực hiện hệ số an toàn vốn trong hệ thống Ngân hàng thương
mại Việt Nam

Tại thời điểm quyết định có hiệu lực, tất cả các Ngân hàng thương mại Nhà
nước đều không đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu như quy định và còn đang
ở mức rất thấp, chỉ vào khoảng 3%, riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn (NHNN&PTNT) đạt hơn 4%. Tuy nhiên vào thời điểm đó các Ngân
hàng còn chưa vội lo lắng vì tại khoản 2, điều 6, mục III còng quy định: “ Tại thời
điểm quyết định này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng có mức tỷ lệ an toàn tối
thiểu nhỏ hơn mức quy định tại khoản 1 điều này, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày
quyết định này có hiệu lực thi hành phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức
tỷ lệ quy định. Mức tăng tỷ lệ hàng năm tối thiểu bằng 1/3 số tỉ lệ còn thiếu.” Như
vậy, các Ngân hàng hàng năm còn phải tăng tỷ lệ này thêm 1,2-1,7%.
16
Song trên thực tế sau 1 năm kể từ khi quyết định 297 được ban hành tỷ lệ này
không tăng mà còn giảm và sẽ khó có thể trở thành hiện thực nếu NHNN không
đưa ra được các giải pháp hợp lý vì các Ngân hàng luôn phải tăng tài sản có rủi ro
(vì chức năng của Ngân hàng là cấp tín dụng cho nền kinh tế) trong khi đó vốn tự
có hầu như không tăng đáng kể.
Đến năm 2002, trong đề án cơ cấu lại Ngân hàng thương mại Nhà nước và Ngân
hàng thương mại cổ phần, NHNN đã đề nghị Chính phủ và được phê duyệt chủ
trương cả hai khối Ngân hàng là NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần phải cùng có
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%. Song đối với cả hai khối việc thực hiện chỉ tiêu
này vẫn còn gặp nhiều khó khăn:
Đối với khối NHTM Nhà nước, mặc dù được sự hỗ trợ trực tiếp từ nguồn ngân
sách Nhà nước nhưng việc đạt được chỉ tiêu trên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Từ năm 2002 đến nay NHNN đã phối hợp với Bộ Tài Chính trình Chính phủ phê
duyệt 2 đợt cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước bằng trái phiếu
Chính phủ. Năm 2002 cấp đợt I với số vốn cấp cho 5 NHTM Nhà nước là 4900 tỷ.
Năm 2003 cấp bổ sung cho các Ngân hàng: Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng
Ngoại Thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển(NH ĐT & PT) mỗi Ngân hàng 400
tỷ, riêng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNN & PTNT) được
cấp 700 tỷ. Như vậy tổng số vốn điều lệ cấp bổ sung cho các Ngân hàng qua 2 đợt

đã đạt 6800 tỷ . Song tỷ lệ an toàn tối thiểu của các NHTM Nhà nước vẫn rất thấp,
chủ yếu là dưới 5%, riêng chỉ có Ngân hàng Ngoại thương đạt 5.43%. Sở dĩ có thực
trạng này vì khi vốn tự có của các Ngân hàng tăng thì tài sản có được điÒu chỉnh
theo mức độ rủi ro cũng tăng nhanh, điều này khiến cho tỷ lệ an toàn vốn của các
Ngân hàng không được cải thiện đáng kể. Theo số liệu đến đầu năm 2003 ta có tình
hình vốn điều lệ, tổng dư nợ và hệ số Cook của 4 Ngân hàng quốc doanh như sau:
17
Bảng 3Hệ sè Cook của các ngân hàng thương mại Nhà nước tính đến đầu năm
2003
Tên Ngân hàng Vốn điều lệ Tổng dư nợ Hệ sè Cook
NHNN & PTNT 4400 tỷ 95000 tỷ Gần 5%
NH ĐT & PT 2700 tỷ 82000 tỷ Gần 3%
NH Công thương 2500 tỷ 70000 tỷ 3.4%
NH Ngoại thương 2500 tỷ 33000 tỷ Trên 5%
Theo Bảng 1 thì Ngân hàng Ngoại thương có vẻ khả quan nhất nhưng trên thực
tế tổng tài sản có của Ngân hàng này còn lớn hơn tổng dư nợ nên tỷ lệ này là thấp
hơn trong thực tế. NHNN & PTNT và Ngân hàng Công thương cũng đang ở trong
trường hợp tương tự.
Đối với khối Ngân hàng thương mại cổ phần, tình hình được xem là có vẻ khả
quan hơn vì hiện nay ở nước ta đang có khoảng 34 Ngân hàng thương mại cổ phần
thì có tới 32 Ngân hàng có đủ vốn điều lệ quy định thậm trí có nhiều Ngân hàng
còn đạt mức cao hơn. Nhờ vậy mà cũng có nhiều Ngân hàng đã đạt được tỷ lệ an
toàn vốn 8%. Tuy nhiên theo số liệu thống kê đến tháng 9 năm 2003, ta có tình
hình vốn điều lệ, vốn huy động và việc cho vay của các ngân hàng thương mại cổ
phần như sau:
Bảng 4
Vốn điều lệ / tổng
nguồn vốn
Vốn huy động / tổng
nguồn vốn

Đầu tư nkt / tổng
nguồn vốn
Đầu tư nkt / vốn huy
động
6.46% 84.51% 63.2% 74.78%
Từ số liệu tại bảng 2 ta có thể thấy hiện nay nhiều ngân hàng thương mại cổ
phần vẫn chưa thực hiện triệt để quy định về hệ số an toàn vốn. Trong khi đó lại có
18
những ngân hàng không giám tăng trưởng dư nợ vì sợ rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán, sợ vi phạm chỉ tiêu vốn tối thiểu. Chẳng hạn như ngân hàng
TMCP Á Châu (ACB) có nguồn vốn huy động lên đến 11000 tỷ đồng, nhưng ACB
chỉ giám cho vay gần 50% nguồn vốn huy động. Như vậy nếu như không có các
dịch vụ khác để tạo nguồn thu thì ACB đã không thể có đủ thu nhập để bù đắp cho
các chi phí hoạt động. Một vấn đề nữa đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam là
quy mô vốn còn quá nhỏ bé nếu so với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới. Ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất của ta có vốn điều lệ khoảng 30000
USD thì quy mô cũng chỉ bằng 10% quy mô trung bình của các ngân hàng trong
khu vực và chỉ bằng quy mô lớn nhất của một chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở
Việt Nam.
3. Một số giải pháp để tăng hệ số an toàn vốn trong hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam
Từ thực trạng trên chúng ta có thể thấy các Ngân hàng thương mại Việt Nam rất
khó có thể đạt được tỷ lệ an toàn vốn theo yêu cầu với hai khó khăn chủ yếu đó là
quy mô quá nhỏ bé và cách xác định tài sản có rủi ro quy đổi còn nhiều bất cập
khiến cho các Ngân hàng phải chịu thiệt thòi. Tuy rằng để các Ngân hàng có thể đạt
được tỷ lệ an toàn vốn trên 8% không thể là vấn đề có thÓ giải quyết trong một
sớm một chiều song để xây dựng được một hệ thống Ngân hàng có quy mô lớn, có
năng lực tài chính đủ mạnh, có khả năng kiểm soát rủi ro để phục vụ cho sự phát
triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta thì những việc mà cả
hai khối Ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải làm trong thời gian tới sẽ là:

3.1 Tăng vốn tự có của Ngân hàng
19
Một nguyên nhân khiến cho hệ số an toàn vốn của các ngân hàng thương mại
Việt Nam quá nhỏ bé là do quy mô vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam còn quá nhỏ bé. Trong khối NHTM Nhà nước thì NHNN & PTNT là Ngân
hàng có quy mô lớn nhất thì cũng chỉ trên 280 triệu USD, trong khi các Ngân hàng
trong khu vực đạt vài tỷ thậm trí vài chục tỷ USD. Còn trong khối NHTM cổ phần
thì như đã trình bày ở phần thực trạng, ngân hàng của Việt Nam có vốn điều lệ lớn
nhất cũng chỉ tương đương với một chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam
và bằng 10% một ngân hàng có quy mô trung bình trong khu vực. Hiện nay quy
định về các công cụ vốn trong vốn cấp I và cấp II còn đang trong quá trình hình
thành và hoàn thiện vì vậy chưa thể có những giải pháp phát hành các công cụ nợ
như vốn nợ (debt capital ) hay chứng khoán ưu đãi uỷ thác (trust preferred
securities)… mà thế giới và nhiều nước trong khu vùc đã áp dụng. Bởi vậy những
biện pháp mà chúng ta có thể áp dụng để tăng vốn tự có gồm:
3.1.1 Biện pháp mở rộng vốn tự có từ bên trong: có thể có hai biện pháp để
tăng vốn tự có từ bên trong bao gồm:
Thứ nhất, bổ sung thêm một số nguồn vốn vào cơ cấu vốn tự có của các Ngân
hàng để tính tỷ lệ này như: quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận
giữ lại chưa chia, vốn khác… các quỹ này được hình thành từ lợi nhuận sau thuế và
theo quy định của BIS (Balse) thì có thể xếp vào vốn tự có của Ngân hàng. Riêng
đối với Ngân hàng thương mại Nhà nước thì nên đưa thêm cả quỹ đầu tư xây dựng
cơ bản vào để tính toán vì đây là nguồn Ngân sách Nhà nước cấp cho Ngân hàng để
xây dựng cơ sở vật chất, nó là tài sản của Ngân hàng do đó cần phải xếp vào vốn tự
có của Ngân hàng. Để thực hiện được biện pháp này cần có sự tham gia của ngân
hàng Nhà nước để đưa ra các quy định về tỷ lệ lợi nhuận để lại, thời gian tối đa
phải bổ sung vốn (trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn thì ngân hàng sẽ không
được mở rộng quy mô). Từ phía các ngân hàng thương mại, các ngân hàng cần xây
20
dựng kế hoạch phát triển hàng năm, tỷ lệ tích luỹ từ lợi nhuận để bổ sung vốn điều

lệ cho phù hợp với mục đích của mình.
Thứ hai: Theo Worldbank, sáp nhập là một xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ
của nhiều ngân hàng trên thế giới như vụ sáp nhập lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản
của 3 ngân hàng hàng đàu là Somwa Bank, Tokai Bank và Asahi Bank thành tập
đoàn Mizuko là tập đoàn tài chính lớn thứ 3 trên thế giới với tổng tài sản là 1000 tỷ
USD. Tại Đức cũng có sự sáp nhập 2 ngân hàng là Deutsch Bank và Dresdner
Bank thành ngân hàng Deutsch Bank lớn thứ 2 thế giới với tổng tài sản là 1250 tỷ
USD.
Tuy nhiên với thực tế hiện nay, việc sáp nhập các ngân hàng ở Việt Nam còn rất
khó trở thành hiện thực vì: đối với khối NHTM Nhà nước thì vẫn còn vướng mắc
những vấn đề về nhận thức nên nó mới chỉ dừng lại ở những kiến nghị, trao đổi,
bàn luận trong các diễn đàn, hội thảo. Đối với khối NHTM cổ phần thì còn vướng
phải tâm lý không muốn chia sẻ quyền lực của các cổ đông lớn trong hội đồng quản
trị của các ngân hàng.
3.1.2 Giải pháp từ bên ngoài:
Ngoài những biện pháp tăng vốn tự có từ nội bộ, thì các nguồn vốn bên ngoài
cũng là một bộ phận quan trọng giúp cho các ngân hàng tăng vốn tự có của mình:
a. Bổ sung từ Ngân sách nhà nước cấp: hiện nay các ngân hàng thương mại lớn
nhất nước ta đều là các ngân hàng thương mại quốc doanh và từ năm 2002 đến nay
Ngân sách Nhà nước đã phối hợp với Bộ Tài Chính thực hiện hai đợt cấp vốn điều
lệ bổ sung cho 5 ngân hàng thương mại quốc doanh với tổng số vốn cấp qua hai đợt
đã lên đến 6800 tỷ. Trong khi quy mô của các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn
còn quá nhỏ bé thì việc cấp bổ sung vốn điều lệ để mở rộng thêm quy mô của ngân
hàng và làm tăng vốn tự có là rất cần thiết. Song đồng thời với việc tăng quy mô
21
vốn tự có nếu như không có quy định chặt chẽ điều chỉnh việc tăng dư nợ cho vay
thì hệ số an toàn vốn của ngân hàng thương mại cũng khó có thể cải thiện.
b. Cho phép các Ngân hàng thương mại Nhà nước phát hành trái phiếu dài hạn
(10 năm) sau đó một thời gian sẽ cho phép chuyển sở hữu trái phiếu thành cổ
phiếu, tức là sẽ tiến hành cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước, trong đó

Nhà nước vẫn giữ trên 50% vốn thì Nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu chủ yếu trong
ngân hàng theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước. Giải pháp cổ phần hoá tuy
tạo được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều cơ quan hơn nữa nó còn giúp mở rộng quy
mô vốn đang rất nhỏ bé của Ngân hàng Việt Nam song trên thực tế nó vẫn chỉ mới
nằm trên giấy tờ chứ chưa thể tiến hành thực hiện được.
3.2 Hạn chế mức tăng trưởng của tài sản có quy đổi theo hệ số rủi ro của các
ngân hàng
Một thực tế là việc giảm tài sản có của Ngân hàng để có thể cải thiện hệ số an
toàn vốn là rất khó khăn vì:
Thứ nhất, việc giảm dư nợ trước hết sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân
hàng vì chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng là cấp tín dụng cho nền kinh tế
và nguồn thu từ hoạt động này cũng là nguồn thu nhập chính cho Ngân hàng.
Thứ hai, việc giảm dư nợ sẽ gây ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế, đi ngược lại với đường lối phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước.
Tuy nhiên cũng không hẳn là không có giải pháp nào để cải thiện hệ số an toàn
vốn từ nhân tố nằm dưới mẫu này:
Từ phía Ngân hàng Nhà nước: cần có quy định cụ thể về tài sản có có mức độ
rủi ro 50% như theo quy định của BIS (Balse) đó là các khoản cho vay nhà ở và
22
được người vay thế chấp cho ngân hàng bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay
đó. Nếu như giải pháp này được thực hiện sẽ góp phần làm giảm đáng kể giá trị tài
sản có rủi ro vì hiện nay các khoản vay vốn chỉ có mức rủi ro 50% nhưng vẫn phải
nhân với hệ số rủi ro 100% khi tính hệ số Cook. Trong khi hiện nay dư nợ cho vay
xây dựng nhà đang chiếm một phần đánh kể trong tổng dư nợ cho vay: ngân hàng
Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) chiếm trên 60%; ngân hàng phát
triển nhà thành phố Hồ Chí Minh chiếm trên 50%; Sacombank chiếm 11.37%;
Ngân hàng cổ phần á Châu khoảng 10%; ngân hàng Kỹ thương Việt Nam khoảng
10%; ngân hàng NN & PTNT khoảng 4%; ngân hàng phát triển nhà Hà Nội chiếm
4%… Có thể nhận thấy các ngân hàng này đặc biệt là ngân hàng có tỷ trọng cho

vay nhà ở lớn như MHB phải chịu rất nhiều thiệt thòi khi tính hệ số an toàn vốn vì
tài sản có rủi ro quá cao làm cho hệ số này càng thấp xuống.
Từ phía các ngân hàng thương mại, phải thay đổi cơ cấu dư nợ theo hướng tăng
dư nợ lành mạnh, giảm những khoản nợ xấu đă đóng băng. Cụ thể ngân hàng
thương mại có thể tiến hành các biện pháp sau:
- Để phòng tránh được các khoản nợ xấu, nợ đóng băng các Ngân hàng cần đưa
ra nhưng quy định cụ thể về tài sản thế chấp, giá trị thực của những tài sản thế
chấp, cần cân nhắc tính toán kỹ lưỡng trước khi quyết định cho vay để hạn chế
những rủi ro có thể xảy ra làm tăng tỷ trọng nợ xấu của ngân hàng.
- Đối với những khoản nợ đóng băng mà ngân hàng chưa bán được tài sản bảo
đảm thì công ty mua bán nợ của Nhà nước mua lại để sau đó bán dần.
- Đối với những khoản nợ không có tài sản đảm bảo và phần chênh lệch giữa dư
nợ và giá trị tài sản bảo đảm bán cho công ty mua bán nợ, không có khả năng thu
hồi, các NHTM dùng nguồn dự phòng rủi ro để xử lý dần.
23
- Đối với những khoản cho vay thanh toán công nợ không có khả năng thu hồi
và Ngân hàng Nhà nước cho vay không tính lãi nguồn tương ứng thì chuyển thành
nguồn vốn cơ cấu lại nợ cho các NHTM Nhà nước để xử lý loại khỏi bảng tổng kết
tài sản để theo dõi ngoại bảng. Nếu sau này thu hồi được thì sẽ tính vào tăng vốn
Ngân sách cấp.
- Đối với những khoản nợ mà các NHTM Nhà nước ứng trả cho Ngân sách Nhà
nước, phải trả về cho Ngân sách Nhà nước thông qua hệ thống kho bạc hoặc Ngân
hàng Chính sách.
Bên cạnh các giải pháp cho các ngân hàng thì để thực hiện tốt hệ số an toàn vốn
đòi hỏi thanh tra ngân hàng – những người trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực
hiện hệ số này cũng cần có những giải pháp để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của
mình: thứ nhất, nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng bằng cách: tăng khả
năng phát hiện sớm những biểu hiện xấu của các tổ chức tín dụng, chỉ đạo công tác
có trọng tâm, kết luận thanh tra cần phải được giải quyết triệt đÓ, chế tài áp dụng
xử lý vi phạm hành chính đối với các tổ chức tín dụng thuộc quyền hạn của thanh

tra ngân hàng phải kiên quyết… thứ hai, thường xuyên bổ sung lực lượng cán bộ
giám sát từ xa có chất lượng, đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của giám sát từ
xa.
24
KẾT LUẬN
Mặc dù đưa ra quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu muộn hơn rất nhiều so với
thế giới (năm 1999 ta mới có quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 trong khi uỷ ban
Basle đã đưa ra chỉ tiêu này từ năm 1988) nhưng cho đến hiện nay việc thực hiện
được chỉ tiêu này đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam còn gặp phải
rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên có thể nói việc đưa ra quy định bắt buộc đối với các
ngân hàng để thực hiện chỉ tiêu này là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế và
việc triển khai thực hiện đã đạt được kết quả nhất định. Trong thời gian tới cần tiếp
tục có những quy định chặt chẽ hơn để hệ số an toàn vốn của các ngân hàng thương
mại phải đạt được tiêu chuẩn quốc tế đồng thời cũng phải tránh cho các ngân hàng
thương mại phải chịu những thiệt thòi không đáng có. Hy vọng rằng không lâu nữa
cả hai khối ngân hàng thương mại của Việt Nam: ngân hàng thương mại quốc
doanh và ngân hàng thương mại cổ phần sẽ đều đạt được chỉ tiêu hệ số an toàn vốn
trên 8%. Điều đó cũng có nghĩa là các ngân hàng đã được mở rộng thêm về quy mô
và làm tăng thêm uy tín của mình đối với công chúng, đối với các tổ chức tín dụng
khác trong và ngoài khu vực.
25

×