Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

các công cụ của chính sách tiền tệ và các giải pháp nhằm chuyển đổi chính sách tiền tệ ở viêt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.01 KB, 25 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Học viện ngân hàng
Bộ môn kinh tế
******************************************
Đề tài :
Các công cụ của chính sách tiền tệ và các giải pháp
nhằm chuyển đổi chính sách tiền tệ ở viêt nam.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là tăng
trưởng kinh tế, ổn định đồng tiền, cân bằng cán cân đối ngoại và giải quyết
công ăn việc làm, chính sách tiền tệ quốc gia có vai trò rất quan trọng. Thông
thường, việc điều hành chính sách tiền tệ được Quốc hội hoặc Chính phủ các
quốc gia giao cho Ngân hàng Trung ương đảm nhiệm. Với việc quản lý một đối
tượng đơn chiếc, riêng lẻ và duy nhất trong một nước là tiền tệ, với tính chất
nhạy cảm và có tính công cộng cao như tiền tệ, thì việc điều hành và thực thi
CSTT quốc gia của Ngân hàng Trung ương không phải là dễ dàng. Bất kỳ một
động thái nào của Ngân hàng Trung ương trong việc đưa ra các quyết sách của
mình về tiền tệ, ngân hàng đều gây ra các phản ứng tức thời tới các hoạt động
kinh tế vĩ mô và vi mô trong nền kinh tế.
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện CSTT từ
đầu những năm 90 của thế kỷ 20 vừa qua. Cho đến nay, CSTT quốc gia đã thực
sự góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của Nhà
nước, nhất là trong việc kìm chế lạm phát từ 3 con số vào những năm 1985-
1989 xuống còn 1 con số kể từ đầu những năm 90, cung cấp tổng phương tiện
thanh toán (M2) cho nền kinh tế phù hợp với tốc độ tăng của GDP, từ đó thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Quan điểm điều hành
CSTT ở Việt Nam hiện nay là theo quan điểm đa mục tiêu, tuỳ vào diễn biến
kinh tế- xã hội mà lựa chọn mục tiêu thích hợp. Trình độ hoạch định và điều
hành CSTT của NHNN Việt Nam ngày càng tăng lên thông qua việc chú trọng
công tác phõn tớch mọi diễn biến kinh tế- tiền tệ trong nước và quốc tế để có
những dự báo và quyết định kịp thời tới việc ổn định giá trị đồng tiền Việt


Nam, sử dụng ngày càng nhuần nhuyễn hơn các công cụ của CSTT. Với quan
điểm điều hành CSTT một cách thận trọng và linh hoạt để kiểm soát lạm phát ở
mức 1 con số, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, củng cố sự vững mạnh của hệ thống
2
ngân hàng trong bối cảnh có nhiều bất lợi, CSTT vừa qua thực sự có những
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ngày càng mạnh mẽ thì việc điều hành CSTT của Việt Nam hiện nay chưa hẳn
là hoàn thiện. Vẫn còn nhiều bất cập khi điều hành CSTT mà NHNN và các Bộ
hữu quan cần phải tập trung giải quyết.
3
PHẦN NỘI DUNG
Sự phát triển của thương mại điện tử và quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra
vô cùng mạnh mẽ trên thế giới cũng như trong khu vực. Việt Nam trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải hành động gì? Nền kinh tế Việt Nam sẽ
chuyển biến ra sao để có thể hoà nhập mà không hoà tan, vẫn giữ được định
hướng xã hội chủ nghĩa? Ngân hàng sẽ đóng vai trò như thế nào trong các
chính sách tài chính - tiền tệ để điều tiết nền kinh tế của chính phủ?
Phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại cũng như sức mạnh, vai trò
quản lý tiền tệ của ngân hàng trung ương và xây dựng một nền kinh tế không
sử dụng tiền mặt liệu có phải là một trong những giải pháp không?
Vậy trước hết chúng ta cần hiểu một số khái niệm tiền là gì và tiền mặt là
gì?
Tiền chính là một loại hàng hoá đặc biệt được sử dụng để làm vật trung gian,
đo lường giá trị các loại vật phẩm khác. Tiền mặt là một phần của tiền tệ bao
gồm các loại tiền giấy và tiền đúc. Ngoài ra tiền tệ ngày nay còn bao gồm tiền
qua ngân hàng, các loại tài khoản, séc, tiền ghi sổ… và các loại trái phiếu, cổ
phiếu trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, ngày nay tiền tệ có bản chất là
phương tiện trao đổi được xã hội chấp nhận và được pháp luật thừa nhận, bảo
vệ.

Trong nền kinh tế hiện đại thì tiền tệ là một trong những công cụ đắc lực để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ban đầu khi mới ra đời thì tiền tệ chủ yếu làm
vai trò trung gian để trao đổi hàng hoá, tiền tệ mới chỉ phát huy được chức năng
là phương tiện lưu thông. Nhưng do sự phát triển ngày càng tăng của sản xuất
thì tiền tệ cũng ngày càng phát triển theo và ngược lại tiền tệ phát triển làm cho
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế cũng tăng lên và thúc đẩy sản
xuất phát triển.
4
Tiền chỉ là phương tiện. Tiền được dùng để hạch toán các quá trình thực
hiện sản xuất - kinh doanh, để đo lường hiệu quả của quá trình sản xuất - kinh
doanh, để thể hiện thu nhập của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Tiền là phương tiện
để mở rộng khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp. Không có vốn bằng
tiền, các doanh nghiệp không thể bảo đảm được trách nhiệm của mình với
người khác khi doanh nghiệp huy động của cải xã hội, tài nguyên thiên nhiên
và sức lao động vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Quá trình phát triển kinh tế
trong điều kiện của kinh tế thị trường thì tiền tệ luôn được tích luỹ để thực hiện
tái sản xuất mở rộng. Qua mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn sản xuất vừa được bù
đắp, vừa được mở rộng thêm làm cho vốn của doanh nghiệp ngày càng tăng lên
nhanh chóng. Khi mà quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới được thực
hiện ở phạm vi và mức độ cao, sự phân công lao động quốc tế, sự liên kết kinh
tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh thì tự do hoá thị trường thế giới là xu thế
tất yếu. Trong điều kiện tự do hoá thị trường thế giới thỡ cỏc công cụ quản lý
kinh tế đối ngoại như thuế quan, hạn mức xuất khẩu, nhập khẩu, cỏc cụng cụ kỹ
thuật dần dà bị dỡ bỏ. Sự dỡ bỏ các công cụ ngăn cấm sự xâm nhập hàng hoá
giữa các nước với nhau đã tạo điều kiện cho tiền tệ giữ vai trò đo lường hiệu
quả của các quan hệ kinh tế quốc tế, trở thành công cụ quan trọng nhất trong
điều hành cỏc chớnh sách kinh tế đối ngoại hiện nay. Trong xu thế đó quan hệ
tỷ giá, quan hệ tín dụng quốc tế, quan hệ đầu tư quốc tế, quan hệ thanh toán
quốc tế là những quan hệ chủ yếu để hình thành các chính sách kinh tế đối
ngoại của mỗi nước.

Quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường ngày càng bị tiền hoá. Có nghĩa
là các quan hệ xã hội ấy được thực hiện thông qua một chi phí bằng tiền cụ thể.
5
Để giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư nghèo khổ, chưa có công
ăn việc làm, mất sức lao động…. nhà nước phải huy động một luồng vốn tiền tệ
cụ thể để giúp đỡ các tầng lớp dân cư này. Việc giúp đỡ bằng công sức lao
động, bằng hàng hoá vật chất cụ thể ngày càng hạn chế. Do nhu cầu của mỗi
người, mỗi khỏc nờn việc giúp đỡ bằng vật chất trở nên không hiệu quả vì nhà
nước không thể biết được nhu cầu cụ thể của từng người mà thoả mãn một cách
chính xác. Song qua sự trợ giúp bằng tiền, người được giúp đỡ sẽ tự quyết định
lấy họ sẽ chi khoản tiền đó vào việc gì để thoả mãn nhu cầu của mình.
Thông qua chính sách tài chính, nhà nước thực hiện sự phân phối lại trong
nền kinh tế để nâng cao mức sống của người dõn cú thu nhập thấp, giúp đỡ học
sinh nghốo… thông qua các định chế tài chính mang tính chất chính sách xã
hội mà những tầng lớp dân cư có thể tìm được sự tài trợ thiết thực để vươn lên
xây dựng cuộc sống đẹp hơn.
Do mỗi người có một cuộc sống riêng, mỗi người đều phải tự lao động để
gia tăng thu nhập của bản thân nên sự quan tõm giỳp đỡ lẫn nhau trong gia tộc,
bạn bố… bằng tình cảm hoặc vật chất ngày càng khó thực hiện và để thực hiện
sự quan tâm đó không có cách nào khác hơn thông qua sự tài trợ bằng tài chính.
Bên cạnh đó, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải có ngân sách
để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước và thực hiờn cỏc hoạt động của nhà nước.
Không có sự chi phí bằng tiền thì khó có thể làm cho hoạt động quản lý nhà
nước thực hiện thông suốt được. Để có một nền quốc phòng vững mạnh, một
nền giáo dục tiên tiến, một nền y tế tốt… đòi hỏi hàng năm nhà nước đều phải
chi phí một khoản ngân sách lớn. Trong các quan hệ ngoại giao, cộng tác nước
ngoài cũng đều phải tổn thất một khoản ngân sách nhất định. Sự giúp đỡ, hợp
tác giữa quốc gia này với quốc gia khác cũng được thực hiện, đo lường, bằng
một khoản tiền tệ cụ thể.
6

Với một nền kinh tế đang phát triển của nước ta hiện nay, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội còn dài và còn nhiều chông gai, đứng trước nguy cơ đe doạ
của các thế lực thù địch, các thế lực phản động trong và ngoài nước, liệu chính
phủ có đồng ý cho phép các ngân hàng nước ngoài như các ngân hàng của Mĩ,
của Nhật… vào nước ta kinh doanh, cạnh tranh theo cơ chế thị trường với hệ
thống ngân hàng non trẻ, ít vốn, ít kinh nghiệm của ta không? Chính sách tiền
tệ của chính phủ, của ngân hàng trung ương sẽ còn có hiệu lực không khi mà
các ngân hàng của nước ngoài, của các thế lực thù địch đóng ở nước ta không
tuân thủ hoặc tìm cách phá hoại?
Bên cạnh đó, tất cả chúng ta hiện nay đều không thể phủ nhận được vai trò
của bảo hiểm thương mại, sự cần thiết của các loại hình bảo hiểm thương mại
trong đời sống cũng như trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng
những người đã, đang và sẽ làm ngân hàng nghĩ gì khi các tổ chức bảo hiểm
thương mại có số vốn lớn hơn số vốn mà hệ thống ngân hàng thương mại có
được, khi mà khả năng sinh lời của các tổ chức bảo hiểm là rất cao thông qua
các loại hình đầu tư dựa trên số vồn khổng lồ với tính chất gần như không sợ
rủi ro. Họ sẽ nghĩ gì khi mà các tổ chức bảo hiểm lấn át cả hệ thống ngân hàng
thương mại trong việc huy động và cho vay lượng tiền nhàn rỗi trong dân và
khi đú thì liệu hệ thống ngân hàng thương mại có còn tồn tại hay không? Chính
phủ cũn cú vai trò gì trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách
tiền tệ khi mà các tổ chức bảo hiểm thương mại nắm được quyền điều tiết
lượng tiền lưu thông trong xã hội, khi các tổ chức bảo hiểm thương mại được
các ngân hàng nước ngoài, được các thế lực thù địch, các thế lực phản động hỗ
trợ, giúp đỡ cho việc chống phá nhà nước, chống phá chính quyền.
7
Cũng tương tự như vậy khi mà các tổ chức tín dụng tư nhân trong nước
được các tổ chức, thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước hỗ trợ và
đứng đằng sau chỉ đạo, trở thành công cụ tay sai đắc lực cho chúng trong việc
chống phá nhà nước, chống phỏ chớnh quyền thì chúng ta phải làm gì đõy?
Nền kinh tế nước ta sẽ có những biến động như thế nào khi mà các ngân hàng

nước ngoài, các công ty bảo hiểm, các tổ chức tín dụng tư nhân được các tổ
chức, thế lực thù địch trong, ngoài nước đứng sau thực hiện đầu cơ tiền tệ, tiến
hành lũng đoạn thị trường tiền tệ nước ta, nắm được quyền điều tiết tiền tệ của
chính phủ, của ngân hàng trung ương? Đõy là câu hỏi lớn mà chúng ta cần phải
quan tâm trong quá trình xây dựng và phát triển, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa
xã hội một cách ổn định, bền vững và đạt tốc độ tăng trưởng cao. Và chúng ta
hãy thử nhìn qua hậu quả của các nước trong khu vực khi xảy ra cơn khủng
hoảng tiền tệ.
Khi các cơn hoảng loạn tài chính bắt đầu xuất hiện, việc Thái Lan phỏ giá
đồng tiền của mình dẫn đến một khối lượng lớn vốn được đưa ra khỏi khu vực.
Diễn biến tình hình ở Thái Lan đã buộc các nhà đầu tư phải xem xét nghiêm túc
hơn tới những yếu kém mà trước đõy họ đã bỏ qua. Trong quá trình đó họ đã
phát hiện được những thông tin mới làm tăng mối lo ngại của họ, đặc biệt là
các vấn đề liên quan đến sức mạnh của hệ thống tài chính và tầm quan trọng
của các khoản nợ ngắn hạn. Mối nghi ngại về thị trường đã hình thành do sự
thiếu tính minh bạch của khu vực tài chính và doanh nghiệp, và quy mô cũng
như thời hạn của các khoản nợ phải trả. Khi các nhà đầu tư đã mất đi niềm tin
rằng nguồn dự trữ có thể thanh toán đủ cho các khoản nợ ngắn hạn thì lập tức
cả các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước đều hối hả rút vốn của họ ra
khỏi khu vực. Thị trường vì thế cũng trở nên khốc liệt hơn. Không nghi ngờ gì
nữa, sự thiếu vắng một cơ cấu đủ mạnh để có thể xử lý khoản nợ của ngân hàng
đã góp phần vào cơn khủng hoảng tài chính ở quy mô rộng tàn phá các nước
như Thái Lan, Hàn Quốc, Inđụnờsia, và ở một mức độ thấp hơn là ở Malaisia.
8
Sự lây lan đó đồng thời cũng dẫn đến sự giảm giá các tài sản và gia tăng
luồng vốn đổ ra nước ngoài. Chỉ trong vòng sáu tháng, luồng vốn đi ra từ khu
vực đã lớn hơn gấp nhiều lần so với luồng vốn đi vào và tổng luồng vốn thực
vào là âm 12 tỷ USD. Sự sụt giá chứng khoán kể từ tháng Bảy (cả đồng nội tệ
và đồng đụla) đã trở nên trầm trọng hơn nhiều so với bất cứ đợt sụt giá nào
trước đõy. Biến động tỷ giá hối đoái đó lên đến mức rất cao giữa bốn nước

Đông Nam Á từ tháng hai tới tháng tám và thậm chí còn cao hơn nữa trong thời
gian từ tháng Mười tới đầu tháng Giêng 1998. Các số liệu về cổ phiếu và các
công cụ thị trường vốn khác trong quý IV – 1997 và nửa đầu năm 1998 cho
thấy rằng luồng vốn tư nhân đã ngưng trệ ở tất cả các quốc gia này.
Sự ràng buộc thương mại giữa các quốc gia có nghĩa là khi cầu nhập khẩu
giảm ở một nước sẽ dẫn tới giảm xuất khẩu ở các nước khỏc. Cỏc mối quan hệ
tài chính trong khu vực, kể cả việc thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài,
cho vay của ngân hàng và các hoạt động thị trường vốn có thể dẫn tới việc
những sự kiện ở một nước này có thể tác động tiêu cực đến một nước khác
trong khu vực. Các nhà đầu tư từ bên ngoài khu vực có thể bị buộc phải bán tài
sản ở một nước khi có sự thua thiệt ở các nước khác. Điều này có thể tạo ra
những tác động tiêu cực tới giá của tài sản ở rất nhiều các quốc gia khác, đặc
biệt là trên thị trường chứng khoán.
9
Khi cuộc khủng hoảng ở Thái Lan lan rộng ra các nước Đông Nam Á và
Hàn Quốc thì cuộc khủng hoảng tiền tệ đã trở thành khủng hoảng tài chính.
Cuộc khủng hoảng tài chính này đến lượt nó lại biến thành cuộc khủng hoảng
xã hội. Những cuộc khủng hoảng này đó tác động mạnh mẽ đến chính trường
các nước Hàn Quốc và Thái Lan, nơi mà quá trình chuyển đổi hầu như không
bị gián đoạn. Các chính sách tài chính và tiền tệ đã được thắt chặt để giúp cho
các nước này đối phó với các vụ hoảng loạn tài chính dẫn đến việc hiện tượng
đồng tiền của các nước này bị mất giá mạnh mẽ. Các nước đã dự định tăng lãi
suất để tăng giá tài sản trong nước khiến cho các tài sản này trở nên hấp dẫn
hơn đối với người sở hữu các quỹ ngoại tệ nhưng chính điều này lại dẫn đến
những điều kiện buộc phải đánh đổi rất khó khăn. Lãi suất cao làm tăng thờm
khú khăn cho khu vực doanh nghiệp vốn đã nợ nần chồng chất. Lãi suất tăng
đúng vào thời điểm lợi nhuận của họ giảm mạnh trong thời kỳ suy thoái tiếp
diễn và rất nhiều doanh nghiệp không thể trả được nợ lãi. Bên cạnh đó, xuất
khẩu không tăng buộc phải thu hẹp nhập khẩu và giảm sản lượng đầu ra. Do
những gánh nặng lãi suất đố lên khối dịch vụ nờn cỏc công ty không còn muốn

đầu tư ngay cả trong các ngành xuất khẩu tiềm tàng thu được nhiều lợi nhuận.
Các công ty tài chính đang chịu áp lực của việc lưu chuyển tiền mặt, nhưng do
các khoản tiền gửi bị rút ra và các khoản vay không đưa được vào sản xuất, đó
không tái tạo được vốn trong kinh doanh. Niềm tin vào các nhà đầu tư nước
ngoài và trong nước có những nguồn thu từ bên ngoài không còn nữa. Nạn thất
nghiệp tăng lên do các nền kinh tế bị thu hẹp lại.
10
Luồng vốn đi vào thường không được cân nhắc cẩn thận và thiếu thận trọng,
đã được chuyển qua hệ thống tài chính trong nước không được quản lý điều
hành tốt, và tiếp sức cho cuộc bùng nổ tín dụng trong nước. Đõy là một sờri
cỏc cuộc cá cược mà lúc đầu được hoàn lại dưới hình thức tăng trưởng mạnh.
Nhưng khi luồng vốn vào đẩy giá cả tài sản lên cao và làm tăng tỷ lệ nợ (tỷ lệ
vốn vay trên vốn góp) của các doanh nghiệp, chúng đã làm cho khu vực phải
đối mặt với những cú sốc về thay đổi kỳ vọng của các nhà đầu tư. Kỳ vọng của
các nhà đầu tư đã trở nên biến động hơn do sự thiếu vắng các dữ liệu được
chứng thực về tài chính công ty, hồ sơ ngân hàng và thậm chí tình hình dự trữ
của các ngân hàng trung ương. Trong những năm bùng nổ và phát triển, việc
thiếu dữ liệu làm hạn chế ý nghĩa những lời cảnh báo cần thận trọng, còn trong
khi đổ vỡ thỡ nú lại làm tăng thêm tình trạng hoảng loạn. Cuộc khủng hoảng
được xem như là câu chuyện về sự tăng trưởng nhanh chóng được xây dựng
trên một nền móng không vững chắc mà sau đó đã phải đương đầu với gió bão
của thị trường vốn quốc tế.
Trong một bản nghiên cứu gần đõy, Demirguc-Kunt và Detragachia (1998)
đã tiến hành phân tích quan hệ nhân quả giữa khủng hoảng ngân hàng và quá
trình tự do hoá tài chính ở 53 nước trong giai đoạn từ 1980 đến 1995. Kết quả
các cuộc điều tra này cho thấy khủng hoảng ngân hàng thường nảy sinh trong
các hệ thống tài chính được tự do hoá, đặc biệt trong các hệ thống có môi
trường thể chế yếu kém. Đặc biệt, đối với việc tuân thủ luật pháp, mức độ tham
nhũng và năng lực quản lý, thực hiện các cam kết là các đặc điểm liên quan
mang tính thể chế. Xem xét sự vận động của các giá trị đặc quyền của ngân

hàng sau khi được tự do hoá và các mối quan hệ giữa tự do hoá tài chính,
khủng hoảng ngân hàng, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đều khẳng
định quan điểm cho rằng tự do hoá tài chính cần phải được tiến hành một cách
thận trọng, đặc biệt khi mà các định chế cần thiết để đảm bảo việc tuân thủ luật
pháp và nghĩa vụ thực hiện các cam kết, các quy định về hướng dẫn thực thi và
giám sát hoạt động chưa được phát triển đầy đủ dù đã đạt được sự ổn định kinh
tế vĩ mô.
11
Những kết luận trên thực sự là một bài học kinh nghiệm quý báu và vô cùng
cần thiết cho chúng ta đang từng bước hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá, thực
hiện cơ chế thị trường. Đó là nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng
trung ương, của chính phủ đối với nền kinh tế, nâng cao vai trò của hệ thống
ngân hàng thương mại, của các chính sách tài chính - tiền tệ.
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình
thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời
gian nhất định thì thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
12

Thế chấp

Kênh tín dụng
Bùng nổ đầu tư

Tăng giá tài sản

Bùng nổ tiêu dùng
tự do hoá tài chính không có sự giám sát đầy đủ
Khả năng dễ bị tổn thương của các yếu tố kinh tế vĩ mô tăng
lên trong khi rủi ro hoạt động của các ngân hàng cao hơn
Các điều kiện

kinh tế vĩ mô và
các chính sách
tương ứng
Tăng các khoản
nợ ngắn hạn và
nhu cầu vay vốn
ngoại tệ
khu vực ngân
hàng : điều kiện
ban đầu và cơ
chế giám sát
Bùng nổ cho vay
nguồn vốn
Tín dụng không những tạo ra thanh khoản mà nú cũn làm cho số lượng
phương tiện thanh toán và lưu thông trong nền kinh tế tăng lên. Khi ngân hàng
cấp một khoản tín dụng thì điều đó có nghĩa là nó đã tạo ra một khoản tiền
cung ứng thêm trong nền kinh tế. Thông thường các chủ thể kinh tế trong xã
hội gửi tiền vào ngân hàng số tiền mà mình đang cần để làm phương tiện thanh
toán, để sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng như séc, thẻ tín dụng
…… nhưng khi ngân hàng dựa trên số dư tiền gửi này để cấp thêm một khoản
tín dụng thì lập tức phương tiện thanh toán sẽ tăng thêm một lượng tương ứng.
Tuy nhiên, để ngăn chặn rủi ro cũng như để điều tiết được mức cung ứng tiền
của hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc (r
d
), hệ số mở rộng tiền gửi (m), tỷ lệ sử dụng tiền gửi của khách
hàng / tiền gửi không kỳ hạn (c), tỷ lệ dự trữ dư thừa / tiền gửi không kỳ hạn
(r
e
)

Giả sử, chúng ta đã thực hiện được một nền kinh tế không sử dụng tiền mặt
thì khi đó ta có c = 0, r
e
= 0 và ngân hàng trung ương quy định r
d
= 10 %
Một khách hàng A có tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng X là 10
triệu đồng. Bảng tài khoản tiền gửi (BTKTG) của ngân hàng X là:
tài sản Có ngân hàng X tài sản Nợ
- Dự trữ : 10 triệu - Tiền gửi : 10 triệu
( của khách hàng A)
Vì r
d
= 10% nên ngân hàng X có thể cho vay tối đa là 9 triệu đồng. Nếu
khách hàng B vay hết số tiền này và được ngân hàng X cho phép sử dụng để
chi trả cho C bằng sộc thỡ BTKTG của ngân hàng X sẽ là:
tài sản Có ngân hàng X tài sản Nợ
- Dự trữ bắt buộc : 1 triệu - Tiền gửi : 10 triệu
- Cho vay: 9 triệu ( của khách hàng A )
(khách hàng B )
và BTKTG của ngân hàng Y phục vụ khách hàng C sẽ là :
13
tài sản Có ngân hàng Y tài sản Nợ
- Dự trữ : 9 triệu - Tiền gửi : 9 triệu
( của khách hàng C)
Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, mức dự trữ bắt buộc là 0,9 triệu và số tiền
cho vay tốI đa là 8,1 triệu. Ví dụ, khách hàng D vay số tiền này và sử dụng nó
để trả cho khách hàng E (ngân hàng Z phục vụ ) bằng sộc thỡ tình hình
BTKTG của ngân hàng Y và ngân hàng Z sẽ như sau:
tài sản Có ngân hàng Y tài sản Nợ

- Dự trữ bắt buộc : 0,9 triệu - Tiền gửi : 9 triệu
- Cho vay: 8,1 triệu

tài sản Có ngân hàng Z tài sản Nợ
- Dự trữ : 8,1 triệu - Tiền gửi : 8,1 triệu
( của khách hàng E)
Quỏ trình lại diễn ra tương tự với tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là 10%, số gia tăng
tiền gửi và cho vay giảm dần cho đến 0. Số tiền gửi ban đầu trở thành dự trữ
bắt buộc cho số tiền được tạo ra theo bảng sau:
ngân hàng số gia tăng tiền gửi số gia tăng tín dụng dự trữ bắt buộc
X
Y
Z

10 triệu
9 triệu
8,1 triệu

9 triệu
8,1 triệu
7,29 triệu

1 triệu
0,9 triệu
0,81 triệu

14
Tổng số gia tăng tiền gửi là :
S
n

= 10 + 9 + 8,1 + …. + 0 = 100 (triệu)
Tổng số gia tăng tín dụng là :
C
n
= 9 + 8,1 + 7,29 + … + 0 = 90 (triệu)
Dự trữ bắt buộc của cả hệ thống là :
C
n
= 1 + 0,9 + 0,81 + … + 0 = 10 (triệu)
Mở rộng tiền gửi là khả năng vốn có của hệ thống ngân hàng thương mại
gắn liền với hoạt động tín dụng và thanh toán. Từ một khoản tiền gửi ban đầu
(do ngân hàng trung ương đưa vào lưu thông), thông qua cho vay bằng chuyển
khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so
với lượng tiền gửi ban đầu.
Với quá trình này hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả xã hội.
Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của
hệ thống ngõn hàng điện tử gắn liền với nhu cầu của thị trường mới, lưu thông
hàng hoá và lưu thông tiền tệ không tách rời nhau. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin thông minh vào hoạt động ngân hàng không chỉ có việc làm cho các
dịch vụ thanh toán đạt được mức độ nhanh nhạy, chính xác, tạo vòng quay vốn
cho khách hàng và cho xã hội, mà còn nhiều lĩnh vực quan trọng khác của ngân
hàng cũng cần phải được điện tử hoá, tin học hoá.
- Với các nguồn dữ liệu được truy cập kịp thời, chính xác qua hệ thống mạng
thông tin, ngân hàng trung ương có thể khai thác các khả năng phân tích, lựa
chọn các giải pháp tối ưu để sử dụng các công cụ điều tiết, kiểm soát nguồn
gốc cung ứng tiền tệ để đạt được mục đớch điều hoà giữ vững ổn định tiền tệ
theo mong muốn, có đủ điều kiện để đỏnh giỏ tỡnh hình thực hiện cán cân
thương mại, cán cân thanh toán và diễn biến tốc độ phát triển kinh tế.
- Mạng thông tin giúp cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng được chặt

chẽ, kịp thời chấn chỉnh những vi phạm, giữ vững an toàn hệ thống.
15
- Việc tổ chức giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng có nhiều thay đổi lớn.
Người gửi tiền vào, rút tiền ra, vay tiền ngân hàng, sử dụng các phương tiện
thanh toán …. được thực hiện thông qua hệ thống chuyển khoản, hệ thống
thông tin của các ngân hàng, khách hàng dễ dàng kiểm soát số dư tiền gửi
trên tài khoản của mình vào bất cứ lúc nào. Việc sử dụng các loại thẻ nhựa,
thẻ tín dụng, thẻ ATM là phổ biến và tiện lợi. Việc trả tiền dịch vụ bưu điện,
nhà ở, điện, nước, văn hoá thông tin, viện phí y tế và đóng thuế… đều được
thực hiện thông qua hệ thống chuyển khoản của ngân hàng thương mại.
Internet giữa các ngân hàng với mọi người dõn, cỏc doanh nghiệp, các cơ
quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ….làm thay đổi lớn đến công
nghệ ngân hàng tạo ra năng suất cao với chi phí giảm thiểu. Đồng tiền điện
tử xuất hiện.
- Đầu tư tín dụng có nhiều sự thay đổi lớn. Các dự án đầu tư có thể được đưa
lên trên mạng để chào mời các ngân hàng thương mại. Máy tính điện tử sẽ
phân tích các dữ liệu đã được truy cập rồi đưa ra các phưong án để lựa chọn.
Ngân hàng thương mại thấy rõ những điều cần tư vấn để đưa ra những quyết
định đảm bảo khả năng thực thi của dự án. Kết quả của sản phẩm được đầu
tư bằng vốn tín dụng trong đú có hàm lượng tri thức của ngân hàng.
- Quá trình khách hàng sử dụng vốn vay, thông qua hệ thống tài khoản, ngân
hàng dễ dàng nắm được diễn biến tình hình sản xuất, tiêu thụ, tình hình sử
dụng lao động, sử dụng nguyên, vật liệu…. của doanh nghiệp như là một kế
toán ngầm của doanh nghiệp để theo dõi khả năng tài chính của doanh
nghiệp và từ đó có thể đưa ra các giải pháp kịp thời, phòng ngừa rủi ro.
- Khi mà mọi hoạt động thanh toán đều thông qua hệ thống ngân hàng thương
mại thì ngân hàng trung ương cũng sẽ nắm được diễn biến của các thị trường
: chứng khoán, hối đoỏi…, những diễn biến về lãi suất, giá cổ phiếu, tỷ giá
hối đoỏi…Thụng tin này sẽ giúp cho ngân hàng trung ương cú cỏc quyết
sách đúng và hoạch định các chính sách, phưong án hoạt động có hiệu quả.

16
Khi mà xã hội không còn sử dụng tiền mặt thì cũng có nghĩa là mọi hoạt
động thanh toán hàng hoá - dịch vụ trong xã hội đều thông qua các hình thức
chuyển khoản hay thẻ tín dụng của ngân hàng. Do đó, người dân, doanh nghiệp
sẽ không phải lo lắng đến chuyện mất cắp, trộm vào nhà hay cướp trên đường
phố bởi vì tiền của họ chỉ có giá trị thanh toán khi nó được sử dụng bởi chính
họ. Ví dụ như 1 tờ séc chỉ có thể thanh toán được các hàng hoá - dịch vụ khi nó
được ký phát bởi chủ của nó. Vì vậy, mỗi người sẽ phải tự chịu trách nhiệm
trước mọi vấn đề thanh toán của mình. Mỗi khi ra ngoài hay đi mua sắm hàng
hoá - dịch vụ, chúng ta không cần phải mang theo bất kỳ một lượng tiền nào cả
mà chỉ cần đặt bút viết số tiền và ký lên trên tờ séc là chúng ta sẽ có một lượng
tiền cần thiết ngay lập tức. Khi nền kinh tế không còn sử dụng tiền mặt thì mỗi
chủ thể đến tuổi công dân sẽ được cấp một tấm thẻ đặc biệt là một chứng minh
thư mang tính năng của một thẻ ATM hiện đại, một thẻ điện thoại đa năng có
thể dùng để thanh toán các dịch vụ như gọi điện thoại, truy cập internet, mua
xăng dầu, khám chữa bệnh, đi xe buýt, vào thư viện, để chuyển tiền từ tài
khoản của mình sang tài khoản của người khỏc…. Bên cạnh đó, do thanh toán
bằng tiền chuyển khoản nờn cỏc loại hình dich vụ, các quán hàng rong, vỉa hè
sẽ tự nhiên bị loại bỏ do nằm ngoài vòng quay của xã hội. Vì vậy, để có thể tồn
tại được thì họ buộc phải liên kết lại với nhau, hợp tác với nhau trên cơ sở tất cả
cùng có lợi để hình thành nờn cỏc trung tâm thương mại cung cấp các hàng hoá
- dịch vụ cho xã hội. Có như vậy thì họ mới có thể có điều kiện để đáp ứng
được những yêu cầu khắt khe khi sử dụng thẻ tín dụng, séc và các loại hình
thanh toán khác của ngân hàng. Tương tự như vậy thì các hộ nông dân, thợ thủ
công hay các tổ chức kinh tế hộ gia đình cũng phải tập hợp nhau lại hình thành
nờn cỏc trang trại, hợp tác xã, các xưởng thợ… để có thể chuyên môn hoá sản
xuất theo nhu cầu của thị trường cũng như khả năng của bản thân. Qua quá
trình này thỡ cỏc hình thức sở hữu tập thể, kinh tế tập thể cũng ngày càng được
củng cố, phát huy và phát triển bền vững trên cơ sở nhu cầu tự nguyện của từng
thành viên cũng như do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế.

Đõy cũng là tiền đề để xây dựng mô hình của hoạt động thanh toán trong nền
17
kinh tế xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước phấn đấu xây dựng - một
nền kinh tế phát triển cao, ổn định và bền vững dựa trên cở sở dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, hạnh phúc, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, vai trò điều tiết xã hội, ổn định tình hình an
ninh trật tự xã hội, thực hiện công bằng, dân chủ trong xã hội của nhà nước
cũng được nâng cao. Khi mà mọi hoạt động thanh toán các hàng hoá - dịch vụ
trong xã hội đều có sự tham gia của hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự
quản lý của chính phủ và ngân hàng trung ương thì mọi mối quan hệ về kinh tế
giữa các chủ thể trong xã hội đều được theo dõi, giám sát chặt chẽ. Mọi sự
tăng, giảm số lượng tiền của các chủ thể trong xã hội ở trên mỗi tài khoản đều
được hệ thống ngân hàng thương mại ghi chép đầy đủ nên chính phủ và ngân
hàng trung ương có thể biết được các khoản thu – chi nào là bất thường, là
tham nhũng, là hối lộ…Đồng thời biết được chủ thể và khách thể của các khoản
thu – chi này là ai, mục đích của các khoản thu – chi này là gì. Để xã hội không
còn tình trạng tham nhũng, hối lộ, rửa tiền – các công cụ làm giàu bất hợp pháp
cũng như tạo điều kiện để các thế lực xấu, các thế lực phản động trong và ngoài
nước có thể góp phần làm tha hoá phẩm chất của các cấp lãnh đạo như hiện nay
thì chính phủ và ngân hàng trung ương cần phối hợp với các bộ, ban, ngành có
liên quan để tiến hành thanh kiểm tra tài chính của bất kỳ một cá nhân, tổ chức
nào trong xã hội với đầy đủ các chứng cứ hợp phỏpbờn cạnh việc quản lý chặt
chẽ nguồn tài chính của các chủ thể trong xã hội trờn cỏc tài khoản của họ còn
cần phải thường xuyên tiến hành kê khai, kiểm tra tài sản hiện vật của họ một
cách trung thực, chính xác, kịp thời nữa để có thể trách tình trạng tặng quà (hối
lộ) bằng hiện vật thay cho phong bì … Điều này sẽ làm cho các tệ nạn tham
nhũng, rửa tiền, trốn lậu thuế, buôn bán hàng lậu …… sẽ không còn cơ sở để
tồn tại và phát triển, không còn khoảng trống nào để có thể luồn lách được và
họ sẽ không còn lý do gì để mà phải đi hối lộ, phải trốn, lậu thuế… bởi tài
khoản vô tình trở thành hồ sơ kinh tế để nhà nước, chính phủ theo dõi, giám sát

tất cả các công dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trên tất cả các mối
quan hệ kinh tế - xã hội.
18
Với việc nắm toàn quyền trong các chính sách tiền tệ và đóng vai trò trung
gian trong tất cả các hoạt động thanh toán hàng hoá - dịch vụ trong xã hội,
chính phủ và ngân hàng trung ương có thể thu thập được một cách chính xác và
đầy đủ số liệu về toàn bộ tài sản quốc gia, đỏnh gớa chính xác tốc độ tăng
trưởng cũng như hạn chế được tiêu cực, từng bước xác lập và xây dựng nền
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khi đã tối thiểu hoá sự thất thu ngân sách nhà nước cũng như tối đa hoỏ cỏc
nguồn thu từ thuế thì nhà nước đó có trong tay một nguồn tài chính vô tận mà
hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp trên cơ sở huy động được tối đa
nguồn vốn trong dân thông qua việc quy định mọi hoạt động thanh toán các
giao dịch trong nền kinh tế đều không sử dụng tiền mặt mà sử dụng các hình
thức thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng. Với nguồn tài chính dồi
dào như vậy cộng với việc quản lý chặt chẽ các cá nhân, tổ chức trong nền kinh
tế, nhà nước có thể sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào việc phát triển hệ
thống giáo dục, đào tạo con người, để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ
thống thông tin liên lạc, để đầu tư phát triển sản xuất… cũng như tăng cường
phúc lợi xã hội, nâng cao đời sồng nhân dân. Nhà nước thông qua việc nắm
được chính xác thu nhập của từng cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong
xã hội mà có thể đưa ra được một cách hợp lý số thuế mà cá nhân, doanh
nghiệp phải nộp cho ngân sách nhà nước cũng như là có những biện pháp trợ
cấp thích hợp đối với các cá nhân có mức thu nhập thấp, các đối tượng chớnh
sỏch…. để đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế sự phõn hoỏ giàu nghèo.
19
Muốn xây dựng được một nền kinh tế không sử dụng tiền mặt thì trước hết,
chúng ta phải không ngừng tăng cường vai trò và hiệu quả của ngân hàng trong
lĩnh vực tài chính để có thể quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay
hoặc cho người dân vay với khả năng hoàn trả cao. Do trình độ dõn trí của

nước ta còn thấp cũng như sự phát triển không đều giữa các khu vực thành phố
với nông thôn, sự chênh lệch giữa đồng bằng với miền núi. Vì vậy vấn đề đầu
tư, xây dựng hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, giáo dục - đào tạo,
phát triển văn hoá xã hội đang là những khó khăn mà chúng ta cần phải khắc
phục để từng bước xây dựng, triển khai thực hiện nền kinh tế không sử dụng
tiền mặt. Chúng ta phải tổ chức lại các loại hình thanh toán trong nền kinh tế,
xây dựng, củng cố lại hệ thống ngân hàng, từng bước loại bỏ dần phạm vi hoạt
động của các tổ chức bảo hiểm thương mại và các tổ chức tín dụng tư nhõn…
Đồng thời, chúng ta cũng phải phát triển một hạ tầng công nghệ thông tin để có
thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán các giao dịch trên thị trường mà không
cần sử dụng đến tiền mặt và khả năng bảo mật của hệ thống ngân hàng trước
những tên khủng bố máy tính, những tin tặc…khi mà vấn đề bảo mật các thông
tin trên hệ thống quản lý tài khoản, quản lý các giao dịch của hệ thống ngân
hàng thương mại đóng vai trò quan trọng nhất trong việc ổn định tình hình an
ninh trật tự và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng và bền vững.
20
Để tiến tới một nền kinh tế không sử dụng tiền mặt trên thế giới đã từng
bước hình thành nền kinh tế mạng thông qua các giao dịch “ảo”. Kinh doanh
điện tử là thuật ngữ để chỉ các hoạt động kinh doanh trên internet, cung cấp
hàng hoá - dịch vụ và thông tin về bán buôn thông qua các trang web cho khách
hàng và hợp tác làm ăn với các đối tỏc khỏc. Cỏc công ty thực hiện chức năng
kinh doanh thông qua các phương tiện điện tử truyền thông như sử dụng hệ
thống thanh khoản tự động trong cỏc ngõn hàng… Cỏc công ty có thể sử dụng
các trang web để mua bán hàng hoá - dịch vụ từ các công ty khác và tiến hành
hợp tác. Kinh doanh điện tử còn là thuật ngữ dùng để mô tả các chức năng điều
hành trong các tổ chức chớng quyền các cấp và các tổ chức, hiệp hội nhờ sử
dụng các giao thức dựa trên internet để nâng cao hiệu quả truyền thông và trao
đổi thông tin với những bộ phận bên ngoài.
Thương mại điện tử bao gồm :
- “ Bán lẻ điện tử” hay “ cửa hàng ảo” trờn cỏc trang web với các danh

mục hàng hoá - dịch vụ được tập hợp thành “dóy cửa hàng ảo”. Các dữ kiện về
nhân khẩu học trên mạng thông qua chưong trình trao dữ liệu điện tử, trao đổi
dữ liệu kinh doanh qua thư điện tử và fax được dùng để tiếp cận và thiết lập
mối quan hệ của khách hàng. Đõy là nơi bán hàng trực tuyến 24/24 giờ trên
quy mô toàn cầu vớI khả năng trao đổi thông tin và đặt hàng trực tiếp, trang
web đã trở thành nơi kinh doanh có doanh thu hàng tỷ USD của các doanh
nghiệp trên thế giới.
- Nghiên cứu thị trường : Nhờ có khả năng kết nối rộng rãi của mạng
internet, các công ty đã tập hợp được rất nhiều số liệu về khách hàng bằng cách
đăng ký, đặt câu hỏi và đặt hàng qua mạng. Qua đó họ đã thu thập được 1
lượng lớn dữ liệu về các đối tượng thị trường.
- Thư điện tử, fax và điện thoại internet :
21
Thương mại điện tử được thực hiện qua các hình thức kết nối điện tử như thư
điện tử, fax và gọi điện thoại qua mạng internet. Trong các giao tiếp trực tiếp,
các công ty thường sử dụng thư điện tử và fax để quảng cáo về công ty và sản
phẩm của mình tới khách hàng và các doanh nghiệp khác hoặc người sử dụng
có thể tự nguyện đăng ký để nhận thư điện tử có nội dung quảng cáo về những
danh mục sản phẩm mà họ quan tõm.
- Mua bán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp :
Các công ty kinh doanh thấy rằng mạng internet không chỉ là nơi trưng bày
sản phẩm của họ 24 tiếng mỗi ngày mà đõy còn là cách để đi nhanh đến đỳng
các đối tượng các thông tin chi tiết về công ty.
- Bảo đảm an toàn cho các giao dịch mua bán :
Bảo đảm an toàn cho các giao dịch mua bán, kiểm soát việc truy cập các
trang web của người sử dụng đã đăng ký, tạo các giao dịch được mật mã chính
là nhằm bảo đảm tính bảo mật và hiệu quả của các giao dịch.
Bên cạnh sự xuất hiện của thương mại điện tử là sự ra đời của các loại tiền
điện tử như : thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và siêu thẻ ATM (thẻ thông minh). Khi
một khách hàng dùng thẻ ATM trả tiền mua một loại hàng hoá - dịch vụ nào đú

thì tiền sẽ được chuyển từ tài khoản của khách hành sang tài khoản người bán.
Hệ thống thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ điện tử là một phương tiện thanh toán
thuận lợi, nhưng không phải là một hệ thống thanh toán mới. Thẻ thông minh là
các thẻ tín dụng bằng nhựa có gắn một vi mạch điện tử. Thẻ có thể được nạp
tiền từ máy ATM, từ điện thoại hoặc từ máy tính cá nhân qua một máy đọc thẻ.
Thẻ ATM giống một thẻ ghi nợ thông thường nhưng nú khụng nhất thiết phải
có sự phê duyệt của ngân hàng trong từng giao dich thanh toán, không cần phải
hạch toán cuối ngày và giá trị nằm ở tài khoản bên thứ ba. Ngoài ra, ngân hàng
có thể tạo giá trị cho thẻ thông minh thông qua cho vay, thanh toán hàng hoá -
dịch vụ. Tiền điện tử còn có thể được tải xuống từ một tài khoản qua internet.
Khi tiền điện tử được xác nhận, nó có thể được quay vòng vô tận, cho phép
thanh toán trực tiếp một cách thoải mái, thuận tiện và nhanh chóng
22
Cùng với thương mại điện tử và tiền điện tử, chữ ký điện tử cũng đã xuất
hiện để phù hợp với hình thức thanh toán mới. Chữ ký điện tử là một phương
pháp uỷ quyền cá nhân bằng cách mó hoỏ và sử dụng mã số uỷ quyền bí mật
được dùng để ký các văn bản điện tử. Chữ ký điện tử là một phần quan trọng
của Luật thương mại điện tử bởi vì thời hạn và giá trị của các văn bản điện tử
sẽ được tính dựa trên cơ sở sự xác nhận của các chữ ký đó.
Một trong các yêu cầu quan trọng khi tiến hành thưong mạI điện tử cũng
như thanh toán các giao dịch trong nền kinh tế không sử dụng tiền mặt đó là
vấn đề bảo mật. Và một trong những hình thức bảo mật mới và có hiệu quả
nhất hiện nay, đú chính là hệ thống chứng thực điện tử CA (certificate
authority). Hệ thống chứng thực điện tử này được xây dựng trên cơ sở có sự tin
cậy tuyệt đối vào nhà cung cấp chứng thực. Theo đú các chứng thực điện tử
được cung cấp cho các tổ chức, doanh nghiệp, người dùng là duy nhất mà qua
đó trong các giao dịch và hoạt động thương mại, các tổ chức, doanh nghiệp,
người dựng cú cơ sở để tin tưởng lẫn nhau.
Ngoài việc cung cấp các chứng thực điện tử để xác nhận người dùng, hệ
thống xác thực điện tử còn cung cấp kèm theo một cặp khoỏ mó cho phép các

chứng thực đã cấp thực hiện các chức năng mó hoỏ dữ liệu đảm bảo thông tin
trong các giao dịch và thương mại. Việc cung cấp các chứng thực điện tử cho
các tổ chức, doanh nghiệp, người dùng được thực hiện bởi các hệ thống phân
phối. Người dùng có thể thực hiện các yêu cầu về chứng thực bằng cách thực
hiện yêu cầu trực tuyến hoặc tự sinh ra các file mô tả đầy đủ các yêu cầu về
chứng thực sau đó gửi cho nhà cung cấp dịch vụ. Từ cơ sở đó, nhà cung cấp sẽ
thực hiện các thủ tục chấp nhận. Chứng thực sau khi được chấp nhận có thể
được chuyển tới cho người dùng trực tuyến từ địa chỉ của nhà cung cấp dịch vụ
hoặc được gửi tới cho người dùng thông qua một phương thức đảm bảo (chỉ có
người dùng đã đăng ký mới nhận được chứng thực). Chứng thực có tác dụng và
thời gian tồn tại phụ thuộc vào nhà cung cấp. Chứng thực với khoỏ mó riờng
được cài đặt tại ứng dụng trung tâm, khoỏ mó công cộng được chuyển tải rộng
rãi cho người dùng.
23
Chứng thực điện tử bao gồm các ứng dụng giao dịch trờn cỏc trang web
thương mại điện tử, các ứng dụng riêng của doanh nghiệp trong đó toàn bộ dữ
liệu người dùng được mó hoỏ bởi khoỏ mó công khai và giải mã bằng khoỏ mó
riờng. Chứng thực điện tử còn được sử dụng trong các ứng dụng thư tín điện tử
mà trên đó chứng thực được hiện hữu như là một chữ ký điện tử, có hoặc không
có mó hoỏ dữ liệu thư điện tử.
Hoạt động xác thực :
- Khách hàng truy cập vào ứng dụng có sử dụng xác thực điện tử sẽ được
thông báo về chứng thực điện tử được sử dụng, chủ sở hữu, mục đích sử dụng
và nguồn gốc của nó. Người dùng có thể kiểm tra trực tuyến về sự đúng đắn
của một chứng thực điện tử. Người dùng chấp nhận việc sử dụng dựa trên các
thuộc tính được cung cấp bởi chứng thực về nhà cung cấp chứng thực và người
sở hữu chứng thực.
- Các giao dịch sau đó giữa ứng dụng phía người sử dụng với ứng dụng
phía trung tâm được thực hiện một cách tuyệt đối tin cậy có hoặc không có mó
hoỏ sử dụng cặp khoỏ mó công cộng và dựng riờng được cung cấp cùng với

chứng thực.
- Đối với ứng dụng sử dụng chữ ký điện tử (trường hợp dùng trong thư
điện tử), người dùng sẽ được cấp một chữ ký điện tử không trùng nhau. Khi đó
người nhận sẽ xác thực chữ ký trên máy chủ CA thông qua đó người nhận có
thể biết chắc chắn về nguồn gốc và chủ sở hữu của văn bản.
Với sự ra đời của hệ thống chứng thực điện tử thì chúng ta có thể hoàn toàn
yên tâm về vấn để bảo mật các giao dịch trên thị trường khi mà các ngân hàng
đảm bảo độ tin cậy tuyệt đối về việc giữ bí mật các thông tin đó thông qua việc
đảm bảo bí mật số liệu trờn cỏc tài khoản của khách hàng.
Mặc dù đã cố gắng nhiều nhưng bài viết này của em cũng không tránh khỏi
sai sót. Rất mong được sự giúp đỡ và đúng góp của thầy cô để bài viết được tốt
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
24

mục lục sách tham khảo
1) Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng (Học viện ngân hàng)
2) Giáo trình kinh tế học vĩ mô (trường đại học kinh tế quốc dân)
3) Đông Á – con đường dẫn đến phục hồi (nhà xuất bản chính trị quốc gia)
4) Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước (nhà xuất bản chính trị quốc gia)
5) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (nhà xuất bản chính trị
quốc gia)
6) Ngân hàng với nền kinh tế tri thức (viện nghiên cứu khoa học ngân hàng)
7) Khám phá internet (thông tin hỗ trợ khách hàng sử dụng dịch vụ
VNN/INTERNET – VDC)
25

×