Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

vận dụng công cụ dự trữ bắt buộc vào việc nâng cao hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.57 KB, 15 trang )

Lời nói đầu
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trong nhất của mọi quốc gia .Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ,chính
sách tiền tệ được coi là “linh hồn” của mọi Ngân hàng trung Ương . Lịch sử
phát triển kinh tế thế giới đã chứng tỏ rằng : Để có một chính sách tiền tệ
khôn ngoan ,phù hợp với từng thời kỳ luôn là một bài toán khó .Chính vì vậy
,trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi những bộ óc ưu tú
nhất .Trong từng thời kỳ ,tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể ,việc nghiêng
về sử dụng công cụ nào trong hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ
hay sử dụng đồng thời tất cả các công cụ đó ,hoặc xác định công cụ nào là
chủ yếu ,công cụ nào là bổ trợ … cho phù hợp ,nhằm hướng tới mục tiêu
cuối cùng là ổn định giá trị tiền tệ là một vấn đề luôn được bàn luận và trao
đổi ở mỗi quốc gia .
Với Việt Nam ,trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi ,vận hành theo cơ
chế kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của nhà nước ,việc nghiên cứu
để lập và thực thi chính sách tiền tệ là mọt đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và
thực tiễn . Để chính sách tiền tệ thực sự phát huy tính hiệu quả và vai trò của
nó thiết nghĩ cần có những giải pháp khác nhau với những cách thức tác
động khác nhau . Bài viết này xin được tập trung vào việc vận dụng công cụ
dự trữ bắt buộc vào việc nâng cao hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc ở
Việt Nam trong thời gian thực hiện luật ngân hàng .
Mặc dù đã cố gắng nhưng với tầm hiểu biết còn hạn chế ,khả năng vận
dụng các kiến thức có liên quan vào việc giải quyết vấn đề chưa tốt nên bài
viết chắc không tránh khỏi những thiếu sót,hạn chế nhất định . Em rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để cho bài viết
được hoàn chỉnh hơn .
Hà Nội ngày 15 tháng 11 năm
2004
Sinh viên thực hiện
1
Đào Anh Tuấn


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ TRỮ BẮT
BUỘC
I.KHÁI NIỆM ,CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ TRỮ BẮT BUỘC .
1.1. Khái niệm dự trữ bắt buộc .
Từ thời nguyên thuỷ của hoạt động ngân hàng ,khi chưa có ngân hàng
Trung ương cũng như chưa có bất kỳ sự quản lý hành chính nào khác ,các
chủ ngân hàng tư nhân thời Êy ,khi dùng tiền gửi của khách hàng để cho vay
đã sớm có ý thức rằng ngân hàng của mình muốn tồn tại và phát triển phải
tạo được niềm tin đối với khách hàng . Trong trường hợp một ngân hàng mất
khả năng thanh toán với khách hàng ,người gủi tiền họ sẽ lo ngại cho số tiền
của mình gửi tại ngân hàng và điều tất yếu là họ sẽ đến ngân hàng để rút tiền
ồ ạt .Khi tất cả các khách hàng đến rút tiền cùng một lúc ,ngân hàng sẽ
không có khẳ năng trả nợ .Việc phá sản này sẽ kéo theo sự ảnh hưởng nặng
nề đến tất cả các ngân hàng khác và tới nền kinh tế . Do vậy để duy trì niềm
tin của người gửi tiền ,các chủ ngân hàng đều có một khoản tiền mặt để
phòng ngừa và từ đó khái niệm “tiÒn mặt dữ trữ” hình thành . Cho đến hết
thế kỷ 19 ,việc dự trữ hoàn toàn do các ngân hàng tự nguyện thực hiện mà
không có bất kỳ một sự quản lý nào .
Đến năm 1826, các chủ ngân hàng tư nhân Anh Quốc bắt đầu nhận thấy
rằng việc mở tài khoản và gửi số tiền vàng dự trữ vào Ngân hàng Anh sẽ
kiếm được một khoản lãi .Hơn nữa ,khi có nhu cầu rút tiền ra sẽ được đáp
ứng ngay vì ngân hàng Anh là ngân hàng lớn nhất ,được phép độc quyền
phát hành tiền và nhất là nó đã trở thành ngân hàng của Chính phủ .Những
lợi Ých Êy đã khuyến khích các ngân hàng tư nhân đem tiền dự trữ gửi vào
ngân hàng Anh .Cho đến cuối thế kỷ 19 ,hầu hết ở các quốc gia đã có một
ngân hàng độc quyền giống như ngân hàng Anh lúc đó .
Tuy nhiên ,việc tự do quyết định mức dự trữ tiền mặt đã tạo cho các ngân
hàng có điều kiện lạm dụng cho vay quá nhiều ,để lại dự trữ quá Ýt . Điều
2
này dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1907 tại Mỹ với làn

sóng ồ ạt đòi rút tiền ,kéo theo sự đổ vỡ của hàng trăm ngân hàng .Bối cảnh
đó đặt ra cho nước Mỹ sự cần thiết phải có một phương thức mới về quản lý
dự trữ nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra các cuộc khủng hoảng về tài chính .
Cho đến năm 1913 ,phương thức đó được hình thành bởi Luật dữ trữ Liên
bang Hoa Kỳ .Luật Êy đã khai sinh ra Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ như
một ngân hàng Trung ương và giao cho hệ thống này quyền áp đặt tỷ lệ dự
trữ tối thiểu mà các ngân hàng trung gian phải để lại trên tổng số dư tiền gửi
huy động của chủ thể phi ngân hàng .Thuật ngữ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ dự
trữ bắt buộc còng ra đời từ đó .Và như vậy ,ở mỗi ngân hàng trung gian
không có quyền được tự nguyện hay tự giác để lại dự trữ là bao nhiêu theo
cảm tính hoặc tính toán của mình như trước mà bắt đầu phải tuân theo một tỷ
lệ dự trữ nhất định do ngân hàng Trung ương nước đó yêu cầu .Phần dự trữ
theo tỷ lệ này gọi là dữ trữ bắt buộc .
Như vậy ,có thể hiểu Dự trữ bắt buộc là phần vốn tiền gửi mà tổ chức
tín dụng buộc phải đưa vào dữ trữ theo luật định . Phần dự trữ này có thể
phải gửi toàn bộ vào tài khoản tại ngân hàng trung ương hay được để lại một
phần tại quỹ tiền mặt của ngân hàng là tuỳ theo quy định của ngân hàng
Trung ương từng nước . Ngày nay ,các ngân hàng được phép bù trừ số tiền
dự trữ giữa các ngày trong kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc ,miễn sao bình quân
ngày trong kỳ đó phải đảm bảo đủ mức dự trữ bắt buộc đã được xác định
.Chính sách mới này giúp cho ngân hàng trung gian có cơ hội được sử dụng
tối đa khả năng cho vay từ nguồn tiền gửi và góp phần nâng cao năng lực
kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh ,lợi nhuận của hệ thống ngân hàng
và giúp Ngân hàng Trung ương tăng cường quyền kiểm soát của mình .
1.2. Cơ chế tác động của dữ trữ bắt buộc .
1.2.1. Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng .
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên trong điều kiện các nhân tố khác không
thay đổi có tác động làm tăng nhu cầu vốn khả dụng của các ngân hàng . Để
3
đáp ứng nhu cầu này ,các ngân hàng phải thu hẹp các món tiền cho vay hoặc

bán chứng khoán đang nắnm giữ ,Những người vay nợ ngân hàng hoặc mua
chứng khoán của ngân hàng sẽ dùng tiền mặt hoặc tiền gửi ngân hàng để
thanh toán .Kết quả là lượng tiền gửi giảm và lượng tiền cung ứng cũng giảm
theo . Cơ chế tác động sẽ diễn ra theo chiều hướng ngược lại .
1.2.2. Tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ .
Sự tăng lên của dự trữ bắt buộc trong điều kiện các yếu tố khác không
thay đổi có tác động làm tăng lượng tiền dự trữ bắt buộc . Hành vi thu hẹp
các món cho vay hoặc bán chứng khoán của ngân hàng hoặc vay ngân hàng
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt dữ trữ bắt buộc
sẽ hướng lãi suất thị trường tăng lên . Lãi suất tăng khiến cho cầu tiền tệ của
các chủ thể phi ngân hàng giảm ,khả năng mở rộng cho vay cũng như mở
rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng sẽ giảm đi . Ngược lại ,việc giảm tỷ lệ
dữ trữ bắt buộc sẽ làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ ,kích thích nhu cầu
vay vốn của các chủ thể phi ngân hàng .Điều này dẫn đến khả năng cho
vay ,khả năng mở rộng tiền gửi và lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân
hàng tăng lên .
II. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LỸ DỰ TRỮ BẮT BUỘC .
2.1 Phương pháp tính dự trữ bắt buộc .
Về nguyên tắc ,dự trữ bắt buộc được tính như sau :
Mức dự trứ bắt buộc = tỷ lệ dự trữ bắt buộc × Số dư bình quân tài khoản
thuộc đối tương dự trữ bắt buộc kỳ xác định .
Trong đó , số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng dự trữ bắt buộc kỳ xác
định = Tổng số dư cuối ngày của các tài khoản phải dự trữ bắt buộc (kỳ xác
định) ⁄ số ngày trong kỳ .
Kỳ xác định dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian tính bằng số ngày trong
mỗi kỳ để tính toán tiền dự trữ bắt buộc .
Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian mà đối tượng thực hiện dự
trữ bắt buộc thực hiện theo mức đã được tính toán vào cuối kỳ xác định .
4
2.2. Phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc .

Có nhiều phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc .Căn cứ vào mức độ chênh
lệch về thời gian giữa kỳ xác định và kỳ duy trì ,có thể phân chia các phương
pháp này thành ba loại .
a. Phương pháp nối tiếp .
Đây là phương pháp mà kỳ xác định và kỳ duy trì nối tiếp nhau .Với cách
xác định này ,đối tượng phải dự trữ bắt buộc chủ động hoàn toàn trong việc
sử dụng dự trữ vì vào đầu kỳ duy trì họ đã biết được mức dự trữ bắt buộc mà
họ phải thực hiện trong kỳ .Tuy nhiên ,theo phương pháp này thì số dư tiền
gửi để tính dự trữ bắt buộc sẽ biến động không ngừng và do vậy việc sử
dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát khả năng cho vay Ýt có tác dụng . Bên
cạnh đó ,phương pháp nối tiếp có thể dẫn đến sự biến động lớn về lãi suất do
có sự biến động về vốn khả dụng đầu kỳ và cuối kỳ .
b. phương pháp trùng một phần .
Theo phương pháp này ,kỳ xác định và kỳ duy trì trùng nhau một phần .Đây
là phương pháp được phần lớn các nước sử dụng .
Với cách quản lý này ,đối tượng thuộc diện phải dự trữ bắt buộc luôn
quan tâm đến dự trữ bắt buộc ,không sử dụng quá mức dự trữ có được .Vì
vậy ,số dư tiền gửi để tính dự trữ bắt buộc cũng như lãi suất thị trường Ýt
biến động hơn .Hiệu quả của phương pháp này cao hơn phương pháp nối tiếp
.
c. phương pháp trùng hoàn toàn .
Đây là phương pháp quy định kỳ duy trì đồng thời cũng là kỳ xác định .
Phương pháp này phát huy được hiệy quả cao nhất so với 2 phương pháp
trên vì nó buộc đối tượng chịu sự quản lý về dự trữ bắt buộc phải chủ động
duy trì dự trữ ở một mức nào đó mà không thể tuỳ ý sử dụng dự trữ vì các
mục tiêu khác nhau của mình .
III. CHỨC NĂNG ,VAI TRÒ CỦA DỰ TRỮ BẮT BUỘC .
5
Chức năng ban đầu của dự trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và đo đó ,hạn chế rủi ro

thanh khoản cho cả hệ thống .Tuy nhiên ,theo thời gian ý nghĩa của chức
năng này giảm dần do tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các
quốc gia do sự phát triển mạnh của công nghệ ngân hàng ,do đó cho phép
các ngân hàng có thể sử dụng các hình thức bảo hiểm rủi ro đa dạng mà
không cần phụ thuộc vào dự trữ tiền mặt . Ngày nay dù trữ bắt buộc có
những chức năng và vai trò như sau :
3.1. Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng .
Để đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý ,các ngân hàng sẽ lập một
mức dự trữ phù hợp dưới hình thức dự phòng trung bình .Mức dự trữ này sẽ
được quyết định trên cơ sở mức dự trữ trung bình hàng ngày của một ngân
hàng .Mức dự phòng cho phép các ngân hàng có thể điều hoà được những
biến động về vốn khả dụng .Sự thiếu cân bằng tức thời về nhu cầu tiền mặt
trong chi trả có thể được bù đắp bằng một phần trong lượng dự phòng ngay
trong kỳ duy trì ,giảm áp lực đối với lãi suất trên thị trường .Dự trữ cho
thanh toán nhiều khi có thể bị thiếu hụt và lượng dự phòng trung bình sẽ bù
đắp cho những thiếu hụt này . Đó chính là cơ chế bình ổn lãi suất qua đêm
trên thị trường tiền tệ .
3.2. Điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng .
Sự đòi hỏi có dự trữ bắt buộc đã làm tăng nhu cầu vốn khả dụng của các
ngân hàng ,từ đó đã hình thành chức năng điều tiết vốn khả dụng của dự trữ
bắt buộc .
Để tối đa hoá hiệu quả của dự trữ bắt buộc trong chức năng này ,các nhà
chức trách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và khoảng thời gian của kỳ duy trì
để sao cho hệ thống ngân hàng luôn trong tình trạng thiếu hụt dự trữ ròng
phải phụ thuộc vào ngân hàng trung ương ,từ đó đảm bảo cân bằng tài
chính .
3.3. Kiểm soát tăng trưởng tiền tệ .
6
Trong điều kiện các công cụ gián tiếp và trực tiếp khác không phát huy
được hiệu quả thì chức năng này phát huy tác dụng của nó . Nó cho phép

ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được khối lượng tiền gửi có thể phát
hành séc mà các ngân hàng có thể tạo ra theo mong muốn .
3.4. Tạo thu nhập cho Ngân hàng Trung Ương .
Vì tiền gửi dự trữ bắt buộc không được trả lãi hoặc được trả lãi thấp hơn
lãi suất cho các ngân hàng vay nên nó đã tạo thu nhập cho Ngân hàng Trung
ương .Nguồn thu từ dữ trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung Ương có thể được
dùng để bù đắp cho việc phát hành tiền và cho hoạt động của ngân hàng
.Nhìn chung ,những khoản thu nhập từ dự trữ bắt buộc khá nhỏ bé ,chỉ có ở
những quốc gia có tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cao thì mới có thể bù đắp được một
phần chi phí .
7
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ DỰ TRỮ
BẮT BUỘC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
I .KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT
BUỘC HIỆN NAY Ở NƯỚC TA .
Luật Ngân hàng Nhà nước được chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam công bố ngày 26/12 /1997 ,có hiệu lực 1/10/1998 , đánh dấu bước
mới trong hoạt động ngân hàng .Đối với công cụ dự trữ bắt buộc đang được
áp dụng trong hệ thống ngân hàng đã bộc lộ một số nhược điểm chưa tương
thích với quy định của pháp luật và đáp ứng với yêu cầu của chính sách tiền
tệ đó là :
Một là ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10% tính trên quy mô vốn huy động là quá
cao ,tất
Yếu làm tăng chi phí của tổ chức tín dụng ,trong điều kiện chênh lệch lãi
suất cho vay và tiền gửi được hưởng của tổ chức tín dụng ở mức thấp hoặc
có xu hướng giảm .
Hai là ,việc duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức cao lại tính bao gồm cả
tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng đã phát sinh mâu thuẫn với các công cụ khác
. Thí dụ với chính sách lãi suất ,khống chế lãi suất tín dụng ở mức thấp
nhưng tổ chức tín dụng lại khó có thể thực hiện được việc giảm chi phí để hạ

thấp lãi suất huy động ;không khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng
huy động vốn trung dài hạn .
Ba là ,việc trả lãi đối với số tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại
Ngân hàng Nhà nước là 0.2 %/ tháng ,trên thực tế lại không có tính khả thi vì
tổ chức tín dụng lại phải dự trữ bắt buộc ,tiền gửi làm phương tiện thanh toán
phụ thuộc vào sự tính toán điều hành kinh doanh của tổ chức tín dụng trong
điều kiện huy động vốn ngày càng trở nên khó khăn và mục tiêu của chính
sách tiền tệ là khuyến khích việc mở rộng tín dụng chứ không khuyến khích
tổ chức tín dụng dự trữ thanh toán quá mức .
8
Bốn là ,công nghệ thông tin quản lý vốn ,tài sản của tổ chức tín dụng
chưa được đồng bộ và cập nhập hàng ngày ,nhất là đối với hệ thống ngân
hàng nông nghiệp ,NHTM cổ phần nông thôn thì việc cập nhập số vốn huy
động hàng ngày để tính dự trữ bắt buộc cần phải duy trì là việc làm rất khó
khăn đối với các tổ chức tín dụng .
Để khắc phục những khó khăn ,hạn chế trên ,ngày 31/05/1999 Thống đốc
NHNN ra quyết định 1991/1999/QĐ NHNN1 “về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các tổ chức tín dụng” . Theo quyết định này có một số điểm mới đó là :
Thứ nhất ,đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của
các NHTM quốc doanh ,NHTM cổ phần đô thị ,chi nhánh ngân hàng nước
ngoài ,ngân hàng liên doanh và công ty tài chính : 6% trên tổng số dư tiền
gửi .
Thứ hai ,đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các
NHTM cổ phần nông thôn ,ngân hàng hợp tác ,quỹ tín dụng nhân dân trung
ương ,quỹ tín dụng nhân dân khu vực : 4% trên tổng số dư tiền gửi .
Thứ ba ,đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên : 0% trên tổng số dư
tiền gửi .
Đặc biệt số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại
ngân hàng nhà nước trong kỳ duy trì .Với cách tính dự trữ bắt buộc mới ,các
tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây ,đồng thời

NHNN có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của NHTM ,tăng khả năng kiểm
soát tiền tệ của NHNN .
Năm 2000 ,NHNN đã điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc của các NHTM đối
với tiền gửi bằng ngoại tệ đã có tác dụng hạn chế dòng chuyển đổi từ VND
sang USD ,khắc phục tình trạng khan hiếm VND của các tổ chức tín dụng .
Năm 2001 ,để tiếp tục nâng cao hiệu quả điều tiết tiền của công cụ này
,NHNN đã điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15%
vào tháng 5-2001 .Điều này đã có tác dụng làm tăng chi phí huy động vốn
bằng ngoại tệ và buộc các NHTM phải giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại
9
tệ ,NHNN đã quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng
VND xuống 3% . Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,với xu thế giảm lãi
suất trên thị trường quốc tế ( Fed giảm lãi suất 11 lần trong năm 2001 ) đã
tác động làm cân bằng lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ .Nhờ đó ,tốc độ tăng
trưởng huy động vốn bằng VND được cải thiện ,ngược lại xu hướng tăng
trưởng huy động vốn ngoại tệ giảm dần ,từng bước cân bằng nguồn vốn bằng
ngoại tệ và nội tệ . Tuy nhiên ,đến thời điểm tháng 11 –2001 ,do ảnh hưởng
của lãi suất trên thị trường Việt Nam có xu hướng giảm mạnh ảnh hưởng xấu
tới tình hình tài chính của các NHTM ,NHNN đã thực hiện việc điều chỉnh
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ từ 15 % xuống 10
%.
Năm 2002 ,trong tình hình lãi suất USD trên thị trường quốc tế xuống thấp
,để giảm bớt khó khăn cho NHTM ,NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ từ 10 % xuống 8% ( Tháng 4/2002)
sau đó xuống 5% ( tháng 12/2002 ) .Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
VND vẫn giữ ở mức 3% .Việc điều chỉnh công cụ dự trữ bắt buộc của
NHNN tạo lợi thế cho VND trong mối tương quan tỷ giá - lãi suất giữa VND
và USD ,hạn chế dòng chuyển đổi VND sang USD .Từ đó làm hạn chế tình
trạng đô là hoá trong nền kinh tế .
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CÔNG CỤ

DỰ TRỮ BẮT BUỘC ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
Cuối năm 1997 ,thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 396- 397 ngày
1/12/1997 và nay là quyết định số 51 /1999/QĐ - NHNN1 ngày 10/02/1999
(Quyết định 51 chỉ khác quyết định 396 ở một số nội dung được điều chỉnh
phù hợp với luật Ngân hàng ,như đối tượng áp dụng được mở rộng thêm
ngân hàng hợp tác xã tín dụng ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0-20% ,tiền dự trữ bắt
buộc phải gửi tại NHNN ,việc trả lãi do chính phủ quy định ) . Đây là một
10
bước tiến mới khắc phục những mặt còn tồn tại của công cụ dự rữ bắt
buộc ,cụ thể :
- Số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân trên số dư tiền gửi tại
NHNN trong kỳ duy trì .
- Các loại ngoại tệ gồm DEM ,JPY ,GBP ,FRF nếu có tỷ lệ tiền gửi
chiếm trên 50% tổng nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ thì dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ đó và gửi tại sở giao dịch NHNN .
Như vậy ,từ khi NHNN sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để điều hành
chính sách tiền tệ cho đến nay ,công cụ này đã không ngừng hoàn
thiện .Về cơ bản ,
Nhờ công cụ đó ,NHNN có thể dự đoán được tổng nhu cầu dự trữ của các
NHTM và qua đó sẽ có quyết định bơm tiền hay rót tiền về thông qua các
công cụ tái cấp vốn hoặc nghiệp vụ thị trường mở của NHNN .Như vậy
,NHNN có thể gia tăng khả năng kiểm soát của mình với khối tiền M1. Tuy
nhiên ,công cụ này vẫn còn một số hạn chế như sau :
- Do quy định Dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với các loại tiền gửi dưới
12 tháng nên mối quan hệ giữa khối tiền trong nền kinh tế chỉ mới
thực hiện ở mức M1 ,trong khi đó M2 có tính nhạy cảm với lạm phát
hơn với M1 .Điều này dẫn đến khả năng kiểm soát M2 của NHNN còn
hạn chế .
- Việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt mức không khuyến

khích các NHTM sử dụng tối đa nguồn vốn dẫn đến tình trạng dự trữ
vượt mức nhiều ,từ đó hạn chế các hoạt động cho vay qua đêm .
Có thể nói công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hỗ trợ cho
các công cụ khác trong điều hành chính sách tiền tệ ở một số quốc gia có nền
kinh tế phát triển .Công cụ này đặc biệt phát huy hiệu quả khi chính sách tái
chiết khấu không có hiệu lực và khi nền kinh tế có những biến động quá lớn .
Nó có tác dụng là lập tức không chÕ vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng
theo ý muốn của Ngân hàng Nhà nước .Tuy nhiên ,một điều có thể thấy là
11
việc áp dụng công cụ này có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí kinh doanh của
ngân hàng .Vì vậy ,ở một số nước đa loại bỏ công cụ này .
Với nước ta ,việc duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc là cần thiết vì nó sẽ hỗ
trợ cho các công cụ khác khi nền kinh tế có những biến động lớn .Tuy
nhiên ,để công cụ này pháp huy được hiệu quả ,theo em ,cần có một số vấn
đề sau :
Một là , tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên quy định như nhau đối với tất cả các loại
tiền gửi có cùng kỳ hạn .
Hai là ,Trong điều kiện nền kinh tế đang thiếu vốn dài hạn đầu tư cho phát
Triển do vây việc khuyến khích thu hút vốn dài hạn là rất cần thiết . Do đó ,
chúng ta không nên áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn dài .
Tuy nhiên ,từ tháng 8/2003 chóng ta đã tính dự trữ bắt buộc cho cả tiền gửi
có kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng .Điều này sẽ hạn chế việc cho vay tiền
gửi có kỳ hạn dài .
Ba là ,tất cả các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc
với tỷ lệ thống nhất vì có như vậy thì mới tạo ra sự bình đẳng trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng và ngân hàng Nhà nước cũng thuận lợi hơn
trong việc quản lý cung ứng tiền . Kể từ tháng 6/2004 Ngân hàng chính sách
xã hội ,Quỹ tín dụng nhân dân ,và cả các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi
< 500 triệu VND vẫn phải tính dự trữ bắt buộc nhưng được trả lãi ,lãi suất là
1.2 % /năm .Điều này sẽ đảm bảo tính công bằng trong hoạt động kinh doanh

của tất cả các loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Sự thay đổi này
của NHNN là nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN để nâng cao hiệu
quả của chính sách tiền tệ ,tăng cường quyền kiểm soát khối lượng tiền cung
ứng.
Bốn là ,chúng ta nên xác định khoảng thời gian duy trì dự trữ bắt buộc là
hai tuần thay vì một tháng như hiện nay . Điều này sẽ phù hợp với các nước
trên thế giới hiện nay .Mặt khác ,trong phương pháp quản lý dự trữ bắt
buộc ,chúng ta không nên áp dụng phương pháp quản lý nối tiếp hiện nay
12
mặc dù phương pháp này có ưu điểm nổi bật là tính toán dễ ,quản lý dễ ,phù
hợp với trình độ của nước ta khi các NHTM của chúng ta trong điều kiện
vốn ,năng lực quản lý kém có thể chủ động trong việc sử dụng vốn . Tuy
nhiên ,cách quản lý này sẽ tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ ,và NHNN
sẽ khó khăn trong việc quản lý và NHTM sẽ gặp khó khăn trong quá trình
hoạt động . Do đó ,theo em NHNN nên sử dụng phương pháp quản lý kỳ xác
định và kỳ duy trì trùng một phần để nâng cao hiệu quả quản lý .
Năm là , số tiền dự trữ bắt buộc được quản lý theo nguyên tắc bình quân
,có nghĩa là mức dự trữ được yêu cầu trong thời kỳ duy trì được căn cứ vào
tỷ lệ phần trăm quy định trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong thời kỳ xác
định
số tiền dự trữ bắt buộc được quản lý theo nguyên tắc bình quân ,có nghĩa là
mức dự trữ được yêu cầu trong thời kỳ duy trì được căn cứ vào tỷ lệ phần
trăm quy định trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong thời kỳ xác định
( thời kỳ trước đó ) .Thời kỳ xác định và thời kỳ duy trì có thể trung nhau
một số ngày nhất định . Số ngày trung nhau càng nhiều thì số dư dự trữ bắt
buộc càng được quản lý chặt .
Sáu là ,với tiền gửi ngoại tệ ,để hạn chế tình trạng đô la hoá trong nền kinh
tế ,Ngân hàng Nhà nước nên quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn đối với
loại tiền gửi này .
Nếu trong nền kinh tế không có những biến động quá lớn thì tốt nhất

không nên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc .Một tỷ lệ nhỏ dự trữ sẽ góp phần
phòng ngừa rủi ro và duy trì thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng .Trong
những trường hợp đặc biệt ,khi cần có sự điều chỉnh khối lượng lớn tổng
phương tiện thanh toán thì Ngân hàng Nhà nước mới sử dụng đến công cụ
này với mục đích hỗ trợ các công cụ khác .
13
KẾT LUẬN
Như vậy ,bằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn của công cụ dự trữ
bắt buộc hiện nay ở Việt Nam có thể thấy rằng công cụ dự trữ bắt buộc bên
cạnh tính hiệu lực cao còn có một số hạn chế nhất định cần phải khắc phục
từng bước . Để cho công cụ này thực sự phát huy được hiệu quả ttong việc
thực hiện chính sách tiền tệ thì trước hết cần phải hoàn thiện công cụ này
như những giải pháp ở trên đã để ra .Đó là nhà nước nên quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc như nhau đối với tất cả các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn ,có cùng
tính chất và đối với các loại hình ngân hàng khác nhau .Khoảng thời gian của
kỳ xác định và kỳ duy trì nên rút ngắn lại hai tuần thay vì một tháng như
hiện nay ,và đối với tiền gửi có kỳ hạn dài nên duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở
mức thấp để khuyến khích cho vay trung và dài hạn còn đối với ngoại tệ thì
nên duy trì ở mức cao để hạn chế tình trạng đô la hoá . Nếu những giải pháp
này được áp dụng đồng bộ thì chắc chắn chính sách tiền tệ ở Việt Nam sẽ
phát huy được hiệu quả tốt hơn .
14
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Ngân hàng trung Ương – Học Viện Ngân Hàng
Nhà Xuất bản Thống Kê .
2. Bàn về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện
nay – Hoàng Xuân Quế – Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội-
2004
3. Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng – Học Viện Ngân
Hàng

Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội –2001.
4. Tạp chí ngân hàng số tháng 1+2 năm 2004.
15

×