Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Xây dựng liên minh công, nông và trí thức trong cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.78 KB, 23 trang )

Xây dựng liên minh công, nông và trí thức trong cách mạng
Việt Nam
Ngày 10/6/2003. Cập nhật lúc 20
h
6'
Đảng vạch ra cương lĩnh đúng đắn là vấn đề có ý nghĩa quyết định
hàng đầu đối với thắng lợi của cách mạng. Song muốn đưa cách
mạng đến thắng lợi hoàn toàn, Đảng còn phải xây dựng lực lượng
cách mạng hùng hậu, mà trong đó quan trọng hơn cả là xây dựng
khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức cách
mạng. Dựa vào khối liên minh này, Đảng mới đoàn kết được các
lực lượng tiến bộ, làm cho cuộc cách mạng mang tính chất nhân
dân.
Mác và Ǎngghen phát hiện vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, đồng
thời hết sức quan tâm nghiên cứu các lực lượng đồng minh để giai
cấp vô sản có điều kiện hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau khi giai cấp vô sản Nga đã giành được chính quyền, nước Nga
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin đã vận dụng
sáng tạo tư tưởng nói trên của Mác và Ǎngghen vào điều kiện
nước Nga. Lênin nói: "Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc
biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của
những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.)
hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư
bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự
chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của
giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội".
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 60 nǎm qua chứng minh rằng -
vấn đề nông dân và trí thức chẳng những là nội dung cơ bản của
cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn là lực lượng có ý nghĩa quyết
định đối với việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng ta và phương


pháp cách mạng trong việc giành và giữ chính quyền.
Liên minh công, nông và trí thức là một nguyên tắc chiến lược của
chủ nghĩa Mác - Lênin, một tất yếu phổ biến đối với các cuộc cách
mạng do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Liên minh đặc biệt này
có tầm quan trọng đối với cách mạng nước ta, nhất là ở chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
I- ĐẢNG TA THỰC HIỆN LIÊN MINH CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ THỨC
TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
Trước Cách mạng Tháng Tám (1945), Việt Nam là một nước thuộc
địa, nửa phong kiến. Giai cấp công nhân còn ít, tầng lớp trí thức
mới ra đời, nông dân chiếm hơn 95% dân số. Song nhờ có ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ khi chuẩn bị thành lập
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí tiền bối đã nhận
thức đúng vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, lực lượng cách
mạng to lớn của giai cấp nông dân và vai trò "ngòi pháo" cách
mạng của tầng lớp trí thức.
Tại Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất ở Mátxcơva (tháng 10-
1923), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: " chỉ trở thành quốc tế thật
sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân
phương Đông, nhất là nông dân ở các nước thuộc địa ) đều tham
gia Quốc tế ". Nǎm 1927, Người lại nói thêm "công nông là gốc
cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn
cách mệnh của công nông thôi".
Hơn 45 nǎm tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng
ta đã dày công xây dựng khối liên minh công, nông và trí thức cách
mạng. Đảng chú ý giáo dục tinh thần yêu nước theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin cho công nhân, nông dân và trí thức để đoàn
kết, tập hợp họ chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, chống đế quốc
và tay sai.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng những thành quả cách mạng

đã giành được, nhất là thành công của Cách mạng tháng Tám, có ý
nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội to lớn. Đó là nguồn sức mạnh vật
chất, tinh thần vô tận đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946-1954) và thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ - cứu nước trong những nǎm 1955-1975.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xây
dựng khối liên minh công, nông và trí thức cách mạng trên cơ sở
nhận thức và giải quyết sớm những vấn đề dưới đây:
1. Sớm nhận thức vị trí các giai cấp trong liên minh
Thấm nhuần học thuyết Mác - Lênin, những người cộng sản Việt
Nam sớm khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong
cách mạng Việt Nam.
Vào cuối những nǎm 20 của thế kỷ này, số lượng công nhân Việt
Nam chỉ chiếm 1,2% dân số. Tuy còn trẻ và ít, song giai cấp công
nhân Việt Nam có đủ bản chất chung của giai cấp công nhân quốc
tế; đồng thời còn có những đặc điểm riêng, rất thuận lợi trong việc
giành và giữ quyền lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời và trưởng thành trước giai cấp tư sản Việt Nam và
bước lên vũ đài chính trị sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga đã
giành được thắng lợi và giai cấp tư sản ở nhiều nước đã vứt bỏ
ngọn cờ dân tộc. Chính bối cảnh chính trị thế giới ấy đã làm cho
giai cấp công nhân Việt Nam có thêm uy tín chính trị để giương cao
ngọn cờ lãnh đạo dân tộc làm cách mạng giải phóng, giành độc lập,
dân chủ theo con đường mới.
Nhưng điều quan trọng hơn là giai cấp công nhân Việt Nam sớm
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, có lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng tiền
phong lãnh đạo. Đảng lại có đường lối cách mạng đúng, đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của dân tộc và giai cấp. Sau khi ra đời, Đảng đã lập
ra tổ chức công hội để giáo dục và vận động công nhân; lập ra
nông hội, hội vǎn hoá cứu quốc và các đoàn thể thanh niên, phụ

nữ, v.v., để giáo dục và tổ chức nông dân, trí thức và các tầng lớp
lao động khác.
Vì vậy, giai cấp công nhân không những đã đoàn kết được giai cấp
mình mà còn đoàn kết được giai cấp nông dân và tranh thủ phần
lớn những người yêu nước trong tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc
và các nhân sĩ yêu nước ngày càng tham gia đông đảo vào phong
trào giải phóng dân tộc theo đường lối của Đảng.
Đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói, chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận
cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc
tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất
và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
Chiếm hơn 95% số dân, nông dân nước ta là một lực lượng cách
mạng to lớn, sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Nông dân Việt
Nam chưa từng đi theo giai cấp tư sản không phải vì giai cấp tư
sản Việt Nam ra đời sau giai cấp công nhân, mà vì giai cấp tư sản
Việt Nam yếu về kinh tế, bạc nhược về chính trị, không thể đáp ứng
được yêu cầu của nông dân và của dân tộc.
Nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng, nhưng họ không thể là
lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ vì họ không gắn
liền với một phương thức sản xuất mới và không có hệ tư tưởng
độc lập. Họ cũng không có khả nǎng xây dựng một chế độ xã hội
mới.
Dưới thời đế quốc Pháp thống trị, các nhà yêu nước như Phan
Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học,
v.v., đã kêu gọi nhân dân, trong đó có nông dân, đấu tranh chống
đế quốc Pháp để giữ nước nhưng chưa có ai đề ra đường lối cách
mạng dân chủ triệt để, khả dĩ tập hợp nông dân chống địa chủ
phong kiến, giành lại ruộng đất, để cứu nước và cứu lấy mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người Cộng sản Việt Nam thấu
hiểu điều mong muốn thiết tha nhất của nông dân. Từ khi thành lập,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương "lãnh đạo dân cày nghèo
làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến".
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã làm cho phong trào nông dân từng bước xích
lại gần với phong trào công nhân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng còn chỉ rõ mục tiêu, nội
dung và đối tượng của liên minh trong từng thời kỳ nhằm từng
bước thực hiện mục tiêu chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc.
Nhờ kết hợp thực hiện đúng đắn hai khẩu hiệu chiến lược "độc lập
dân tộc" và "người cày có ruộng" với việc giải quyết yêu cầu cụ thể
của từng cuộc đấu tranh trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng đã
lãnh đạo nông dân đi theo giai cấp công nhân đấu tranh, từng bước
giành lại những quyền lợi thiết thân cho dân tộc và giai cấp; đồng
thời Đảng giáo dục để loại bỏ dần những hành động tiêu cực trong
phong trào nông dân như cục bộ, địa phương, hẹp hòi, mê tín dị
đoan, v.v
Đảng coi trọng khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức.
Đế quốc Pháp thống trị nước ta vừa làm phân hoá, mai một tầng
lớp trí thức phong kiến, đồng thời tạo ra tầng lớp trí thức mới - trí
thức tư sản. Nhưng một mặt do chế độ chuyên chế về chính trị, độc
quyền về kinh tế, nên tầng lớp này không có cơ sở kinh tế - chính
trị để phát triển. Mặt khác, do truyền thống yêu nước của dân tộc và
sự thu hút của phong trào công nông nên phần lớn trí thức Việt
Nam đã tích cực tham gia phong trào giải phóng dân tộc, chống đế
quốc và tay sai.
Từ khi phong trào yêu nước lâm vào khủng hoảng về đường lối,
nhiều trí thức đã đứng ra tổ chức phong trào chống đế quốc Pháp,
lập ra một số tổ chức và đảng cách mạng như: Tâm Tâm Xã

(1923), Phục Việt, Tân Việt cách mạng Đảng (1926-1930), Hội kín
của Nguyễn An Ninh (1927-1929), Đảng thanh niên của Trần Huy
Liệu (1928), Việt Nam quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học (1927-
1930), v.v
Tuy có tinh thần phản đế, nhưng lúc đầu họ chịu ảnh hưởng của hệ
tư tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ nên không thể tự tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn, không thể đóng vai trò lãnh đạo cách
mạng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) do Việt
Nam quốc dân Đảng tổ chức với khẩu hiệu "không thành công cũng
thành nhân" đã thể hiện quan điểm bấp bênh tiểu tư sản và sự bất
lực của đảng này.
Từ khi đồng chí Nguyễn ái Quốc lập ra Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội, tổ chức tiền thân của Đảng, thì những trí thức
yêu nước đã từng bước chịu ảnh hưởng tư tưởng cứu nước của
Người và chuyển dần từ lập trường cách mạng dân tộc dân chủ
kiểu cũ sang lập trường cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới của
giai cấp công nhân.
Đảng luôn luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức cách
mạng vào hàng ngũ của mình và các đoàn thể cách mạng khác,
làm cho họ trở thành một "động lực" cách mạng quan trọng.
Đảng luôn luôn uốn nắn những quan điểm tư tưởng lệch lạc mang
tính chất tiểu tư sản, biểu hiện ở một số chủ trương như: thanh
đảng, thanh hội của xứ uỷ Trung Kỳ (20-5-1931) hay "trí, phú, địa,
hào đào tận gốc, trốc tận rễ", vận dụng rập khuôn kinh nghiệm cách
mạng ruộng đất của Trung Quốc vào điều kiện nước ta , đồng thời
Đảng đấu tranh chống những xu hướng đánh giá thấp lực lượng
nông dân (bạn đồng minh chủ yếu và đáng tin cậy nhất của giai cấp
công nhân). Đảng còn phê phán quan điểm của một số trí thức
trong Đảng dân chủ đòi chia quyền lãnh đạo cách mạng và quan
điểm tư tưởng sai trái của nhóm "Nhân vǎn giai phẩm" trong những

nǎm 1957-1959, v.v Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tầng lớp trí thức đã cùng với giai
cấp công nhân, nông dân và cả dân tộc lập nhiều chiến công trong
sự nghiệp giành và giữ chính quyền cũng như trong kháng chiến và
kiến quốc.
Trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm đánh giá
và phát huy đúng mức khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức;
đặt vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng. Nhưng
về mặt lý luận, Đảng ta chưa vượt khỏi khuôn khổ các vǎn kiện của
Quốc tế cộng sản, nhất là Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế cộng sản
(9-1928). Đại hội Đảng lần thứ II (2-1951) đã khẳng định trí thức "là
một trong những động lực đáng kể của cách mạng. Họ là bạn đồng
minh tin cậy được của giai cấp công nhân".
2. Giải quyết kịp thời quyền lợi thiết thân của công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời. Đó là nhà nước của nhân dân lao động đầu tiên ở Đông
Nam châu á. Các giai cấp công nhân, nông dân và trí thức cách
mạng trở thành người làm chủ đất nước và tham gia xây dựng
chính quyền.
Đảng hết sức quan tâm giải quyết quyền lợi của nông dân và nhân
dân lao động khi có điều kiện.
Sau Cách mạng Tháng Tám, cǎn cứ vào chủ trương của Chính phủ
lâm thời, ngày 20-11-1945, ủy ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thông tư
giảm tô 25%. Ngày 14-7-1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô và
từng bước thực hiện cải cách ruộng đất, Đảng đã chia cho nông
dân 177.000 ha ruộng đất, trong đó có 18.400 ha ruộng đất tịch thu
của thực dân Pháp, 39.600 ha ruộng đất của đại địa chủ và 119.000
ha ruộng đất công.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn

quyết liệt, tháng 10-1953, Đảng phát động phong trào quần chúng
đòi triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất. Tuy có phạm
một số sai lầm, nhưng Đảng đã lãnh đạo nông dân các tỉnh miền
Bắc giành thêm 456.000 ha ruộng đất từ tay địa chủ. Chế độ chiếm
hữu ruộng đất của địa chủ, phong kiến ở các tỉnh miền Bắc bị xoá
bỏ. Quyền sở hữu ruộng đất của nông dân lao động được Nhà
nước thừa nhận.
Cũng trong thời gian này, từ tỉnh Quảng Trị đến các tỉnh ở Nam Bộ,
dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, nông dân đã được
chia cấp hơn 750.000 ha ruộng đất. ở nhiều nơi địa tô phong kiến
đã giảm, có nơi chỉ còn 15%.
Thành quả về cách mạng ruộng đất có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó
làm tǎng thêm nguồn sức mạnh của nhân dân trong quá trình cách
mạng. Thành quả ấy chẳng những động viên cổ vũ giai cấp nông
dân mà cả giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức, bởi lẽ giai cấp
công nhân và phần lớn trí thức đều xuất thân từ giai cấp nông dân
và nhân dân lao động, chẳng những họ có kẻ thù chung là đế quốc
và phong kiến đại địa chủ, đại tư sản làm tay sai, mà còn có quan
hệ gia đình, xã hội hết sức gần gũi với nông dân. Phần đất người
nông dân được chia không chỉ là lợi ích riêng của họ mà người
công nhân, người trí thức ít nhiều đều có lợi ích chung.
Vì vậy, vấn đề ruộng đất của nông dân là một nội dung cơ bản của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.
Ngoài quyền lợi ruộng đất, nhân dân ta nói chung, công - nông và
tầng lớp trí thức nói riêng còn được hưởng những quyền lợi khác
không kém phần quan trọng. Đó là quyền tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do đi lại trong nước và tự
do xuất dương, v.v., đã được Đảng ta công bố trong Chương trình
của Việt Minh (25-11-1941) và ngày càng tạo điều kiện để thực hiện
những quyền lợi đó.

Đảng chủ trương khuyến khích và giúp đỡ, tạo điều kiện cho trí
thức, vǎn nghệ sĩ phát triển tài nǎng bằng việc lập các trường
chuyên môn huấn luyện, đào tạo nhân tài của đất nước ngày càng
đông đảo.
Những kết quả về cách mạng ruộng đất và việc thực hiện quyền tự
do, dân chủ cũng như về cách mạng vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật
trong mấy chục nǎm qua đã làm tǎng sự gắn bó giữa công nhân,
nông dân và trí thức đối với Đảng, với chế độ mới mà nhân dân ta
đang xây dựng.
3. Xác định đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng
Đảng ta chẳng những vạch ra đường lối chiến lược và sách lược
đúng đắn, mà còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để liên kết các
lực lượng cách mạng, bảo đảm cho giai cấp công nhân giữ vững
quyền lãnh đạo và vai trò nòng cốt trong các cuộc đấu tranh.
Với lý luận Mác - Lênin soi đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã sớm giải quyết đúng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vạch ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trên quan điểm giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội,
Đảng ta giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế
quốc với nhiệm vụ chống phong kiến. Giải quyết đúng đắn hai
nhiệm vụ chiến lược ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, bảo
đảm cho Đảng ta vừa củng cố được liên minh công nhân, nông dân
và trí thức, vừa lôi kéo được những người thuộc tầng lớp trên (tư
sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ) có tinh thần chống đế quốc vào
mặt trận dân tộc thống nhất; vừa ngǎn ngừa, sửa chữa kịp thời
những sai lầm tả, hữu khuynh trong việc thực hiện đường lối cách
mạng.
Liên minh công nhân, nông dân và trí thức được củng cố, phong
trào cách mạng ở hai địa bàn chiến lược thành phố và nông thôn,

gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau tạo thành
sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Trong mối quan hệ giữa hai
địa bàn chiến lược này, Đảng coi trọng cả hai địa bàn, nhưng đánh
giá thành phố là địa bàn xung yếu, vì nếu phong trào công nhân và
nhân dân lao động (lao động chân tay và trí óc) ở thành phố yếu thì
khởi nghĩa quần chúng không thể trở thành tổng khởi nghĩa để
giành thắng lợi.
Trong khi khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân, động
lực cách mạng là các giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức, Đảng ta hết sức quan tâm xây dựng Mặt trận dân tộc thống
nhất, coi đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách
mạng. Đảng ta xác định liên minh công, nông và trí thức là nền tảng
của Mặt trận dân tộc thống nhất. Tổng kết công tác mặt trận, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng ta chỉ rõ: "Mặt trận dân tộc
thống nhất lấy liên minh công nông và lao động trí thức làm nòng
cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo". Khối liên minh này được
củng cố vững chắc bao nhiêu thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng
có điều kiện mở rộng bấy nhiêu. Có thể nói, không củng cố được
liên minh công, nông và trí thức thì cũng không thể có Mặt trận dân
tộc thống nhất.
II- CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG LIÊN MINH CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ
THỨC TRONG CHẶNG ĐƯỜNG ĐẦU THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Những bước phát triển mới của liên minh công, nông và trí
thức từ khi cả nước bước vào chặng đường đầu thời kỳ quá
độ
Từ cuối nǎm 1954, miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hơn 15 nǎm kể từ ngày hoà bình, thống nhất Tổ quốc, là một thời

kỳ sôi động, phức tạp và đầy khó khǎn, thử thách của quá trình
phát triển đi lên của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, tuy có nhiều sai lầm, khuyết điểm trong nhận
thức cũng như hành động, song xét về cơ bản, Đảng ta đã sửa
chữa có kết quả và từng bước giải quyết đúng vấn đề nông dân,
thực sự góp phần củng cố khối liên minh công - nông và trí thức.
Nǎm 1930, giai cấp công nhân mới có 22 vạn người, chiếm tỷ lệ
1,2% dân số. Là lực lượng sản xuất chủ yếu trong kinh tế của thực
dân Pháp, nhưng thân phận của giai cấp công nhân cũng như nhân
dân ta nói chung đều là người nô lệ.
Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, giai cấp công nhân
làm chủ các cơ sở sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, ngân
hàng do giành lại được từ tay thực dân Pháp và tư sản mại bản
mà nhân dân ta xây dựng nên. ở miền Nam, sau khi hoàn thành cải
tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân làm
chủ phần tư liệu sản xuất chủ yếu lấy lại từ tay đế quốc, thực dân
và tầng lớp tư sản mại bản bao gồm 12.680 xí nghiệp lớn, nhỏ.
Thông qua từng bước tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
và sự liên doanh, liên kết với các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp
công nhân đã tǎng lên cả về số lượng và chất lượng. Đến nay cả
nước có hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật, trong đó có 3.150 công
nhân bậc cao.
Giai cấp công nhân cả nước có tổ chức thống nhất là Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam với hơn 4 triệu đoàn viên. Lực lượng giai
cấp công nhân, chủ thể của liên minh, được tǎng cường và củng cố
thêm một bước.
Tuy vậy, so với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, giai
cấp công nhân chưa đáp ứng đầy đủ. Giai cấp công nhân hiện nay
vẫn còn ít về số lượng và yếu về tay nghề, trình độ giác ngộ xã hội
chủ nghĩa còn bị hạn chế.

Tầng lớp trí thức Việt Nam phát triển và trưởng thành cùng với sự
phát triển và thắng lợi của cách mạng. Sau ngày đất nước thống
nhất (1976), lực lượng trí thức thêm đông đảo và trình độ khoa học
ngày càng được tǎng lên.
Thực hiện chính sách vǎn hoá, giáo dục, đào tạo của Nhà nước ta,
hàng nǎm ở Việt Nam trung bình có khoảng 11 triệu học sinh đến
trường. Ngoài 12.012 trường phổ thông cơ sở còn có 832 trường
phổ thông trung học và 298 trường dạy nghề với 12 vạn chỗ ngồi.
Hàng nǎm có hàng vạn học sinh đại học và trung học chuyên
nghiệp tốt nghiệp toả đi phục vụ khắp mọi miền đất nước. Nǎm
1976 là 18,8 vạn người thì nǎm 1980 lên 29,7 vạn người. Đến ngày
1-4-1980 số người tốt nghiệp phổ thông trung học là 3,1 triệu; cao
đẳng, đại học và trên đại học là 74 vạn; trung học chuyên nghiệp
gần 12,7 vạn. Nǎm 1989, số học sinh phổ thông là 12,2 triệu, trung
học chuyên nghiệp là 13,8 vạn; cao đẳng và đại học là 12,8 vạn.
Chỉ riêng trong khu vực nông nghiệp, số cán bộ được đào tạo đến
nǎm 1975 nhiều gấp 93,2 lần nǎm 1955. Nǎm 1955 cứ 1.000 công
nhân chỉ có 5 người có trình độ đại học trở lên, đến nǎm 1975 đã
có 64 người . Số người này đã và sẽ gia nhập vào hàng ngũ công
nhân, viên chức nhà nước và sẽ ngày càng được trí thức hoá.
Đội ngũ trí thức Việt Nam ngày một tǎng cả về số và chất lượng.
Cùng với hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật, chúng ta có một đội ngũ
cán bộ khoa học, kỹ thuật trên 697.430 người; trong đó có 443.273
người có trình độ trung học chuyên nghiệp, 66,986 người có trình
độ cao đẳng, 70.000 người có trình độ đại học và hơn 6.000 người
có trình độ phó tiến sĩ và tiến sĩ khoa học.
Tầng lớp trí thức đã trở thành một lực lượng quan trọng trong dân
cư nước ta, chiếm một tỷ lệ khá lớn trong số 4 triệu cán bộ, công
nhân, viên chức, làm việc khắp mọi lĩnh vực thuộc bộ máy lãnh đạo
và quản lý của Đảng, Nhà nước các cấp, trong các cơ sở kinh tế

tập thể và ngoài quốc doanh. Bên cạnh những nhà khoa học quản
lý và khoa học xã hội, số đông những nhà trí thức khoa học công
nghệ đã có nhiều sáng chế, phát minh được áp dụng vào sản xuất
và đời sống. Việc lai tạo nhiều giống lúa cho nǎng suất cao, lai tạo
đàn gia súc và gia cầm có kết quả, đã làm cho nền nông nghiệp
nước ta có những đóng góp quan trọng vào chương trình lương
thực, thực phẩm thế giới. Trong thực tế, tầng lớp trí thức đã là lực
lượng xung kích, nòng cốt của 40 triệu lao động nước ta, đang
khắc phục khó khǎn để kiến thiết đất nước.
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã "coi khoa học và công nghệ là
một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới , coi người làm
công tác khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy quý báu
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta".
Tuy vậy, sự đóng góp của trí thức chưa làm chuyển biến mạnh mẽ
nền kinh tế cũng như các mặt khác của đời sống xã hội. Sự hạn
chế đó của tầng lớp trí thức do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Nhưng trước hết là nhiều cấp uỷ Đảng và chính quyền,
trong nhận thức chưa nhất trí về vai trò của lực lượng quan trọng
này, nên chưa quan tâm đúng mức đến tầng lớp trí thức trong công
cuộc đổi mới; chính sách, chế độ đãi ngộ trong khoa học còn nhiều
điều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính bình quân. Lao động
chất xám nói chung rẻ hơn lao động giản đơn. Điều kiện tối thiểu để
làm việc và sinh hoạt của cán bộ khoa học chưa được bảo đảm.
Những điều bất hợp lý đó là lực cản, hạn chế trí thức đem tài nǎng
và trí tuệ đóng góp vào sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh".
Đối với giai cấp nông dân, sau khi miền Nam được giải phóng,
Đảng tiếp tục lãnh đạo nông dân đấu tranh xoá bỏ tàn dư của chế
độ thực dân, phong kiến về ruộng đất. Hoàn thành nhiệm vụ này,
Đảng đã trao lại cho nông dân các tỉnh phía Nam 470.517 ha ruộng
đất.

Trải qua 40 nǎm đấu tranh liên tục, từ Cách mạng Tháng Tám
(1945) đến hết nǎm 1985, ngoài ruộng đất công, nông dân cả nước
đã giành lại 2.027.517 ha ruộng đất từ tay đế quốc, phong kiến, địa
chủ và bọn phản cách mạng.
Quan hệ sản xuất thuộc địa, nửa phong kiến ở nông thôn hoàn toàn
bị xoá bỏ. Người nông dân đã làm chủ gia đình, thôn xóm và ruộng
đồng.
Trên cơ sở phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, Quốc hội khoá VII
(12-1987) đã thông qua Luật đất đai. Theo luật toàn bộ đất đai,
rừng, biển Việt Nam đều là tài sản chung của toàn dân. Mọi người
dân đều có quyền được phân phối sử dụng theo khả nǎng để phát
triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu của gia đình và xã hội.
Hội nông dân ra đời từ tháng 10 nǎm 1930 và tháng 3 nǎm 1988 đã
tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất. Sự kiện quan
trọng này nói lên sự phát triển nhận thức, lý luận và thực tiễn của
Đảng ta về giai cấp nông dân Việt Nam, đồng thời thể hiện một
bước củng cố liên minh về mặt chính trị.
Tuy vậy, kết quả của phong trào hợp tác hoá cũng như Đại hội Hội
nông dân chưa thực sự củng cố liên minh. Sai lầm trong vấn đề này
là đã đồng nhất cải tạo nông nghiệp với hợp tác hoá. Do đó, "về nội
dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức
quản lý và chế độ phân phối".
Đời sống nông dân chậm được cải thiện. Đại bộ phận dân cư nông
nghiệp chưa thật sự thoát khỏi nghèo nàn, đời sống vật chất, tinh
thần còn nhiều khó khǎn.
Đảng ta biết coi trọng kinh tế nông nghiệp, nhưng chưa thật có
chính sách khuyến nông đầy đủ. Điều đó đã làm cho người sản
xuất nông nghiệp luôn bị thua lỗ, làm nhiều nhưng hưởng ít. Theo
báo cáo của Bộ Nông nghiệp, tỷ lệ lương thực Nhà nước huy động

ở nhiều hợp tác xã đồng bằng và trung du Bắc Bộ trước nǎm 1980
là 20 đến 23% sản lượng. Những nǎm 1981-1985 tǎng lên 30 đến
40% sản lượng. Nếu tính cả phần lương thực dành cho chǎn nuôi
để làm nghĩa vụ bán thịt cho Nhà nước thì mức huy động đã lên tới
45 đến 50% sản lượng.
Những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp
đã làm mất đi động lực phát triển sản xuất, ngǎn cách người nông
dân với đồng ruộng. Điều đó làm suy giảm sự bền chặt vốn có của
liên minh công, nông và trí thức trong những nǎm vừa qua.
2. Công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa củng cố
liên minh công, nông và trí thức.
- Từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Thực trạng kinh tế - xã hội nước ta trong những nǎm 1978-1980 là
thời kỳ sa sút, khó khǎn chồng chất. Nông nghiệp, một nền kinh tế
chủ yếu ở nước ta, đã lâm vào tình trạng trì trệ; hiệu quả đầu tư
thấp, không tương xứng với công của bỏ ra. Quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa bị suy yếu. Khối liên minh công nhân, nông dân và trí
thức bị rạn nứt. Trước tình hình ấy, Hội nghị lần thứ sáu của Trung
ương Đảng (khoá IV - tháng 9 nǎm 1979) đề ra nhiều chủ trương
nhằm khắc phục tình hình trên. Trung ương đã nhấn mạnh nhân tố
lợi ích kinh tế trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, đưa ra các
hình thức tổ chức và quản lý thích hợp với chặng đường đầu thời
kỳ quá độ ở nước ta. Trên cơ sở Nghị quyết 6, Ban Bí thư ra Chỉ thị
100 CT/TW về "khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong các hợp tác xã nông nghiệp", Hội đồng Chính phủ có Chỉ thị
26/CP về mở rộng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
- kinh doanh của Nhà nước.
Tuy nhiên, khoán mới cũng chỉ có tác dụng nhất định. Từ cuối nǎm
1985 đến nǎm 1986, nông nghiệp lại có chiều hướng giảm sút.
Để khắc phục tình trạng này, Đại hội Đảng lần thứ VI và sau đó Hội

nghị Trung ương lần thứ hai đã quyết định đổi mới toàn diện và
đồng bộ chính sách đối với nông nghiệp và nông dân nhằm giải
phóng sức sản xuất ở nông thôn.
Đối với nông dân, Đảng chủ trương "phải giải quyết tốt quan hệ
giữa nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền lợi của nông dân.
Nhà nước phải soát lại các chính sách quan hệ đến nông dân, bãi
bỏ những chính sách không đúng".
Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân,
ngoài thuế là nghĩa vụ bắt buộc duy nhất, mọi quan hệ trao đổi đều
là quan hệ mua bán hàng hoá, dựa trên cơ sở vận dụng đúng quy
luật giá trị. Đó là quan hệ thuận mua, vừa bán, thật sự bình đẳng.
Xoá bỏ các khoản "phụ thu lạm bổ" của bất cứ ngành nào, cấp nào
đối với nông dân. Tiếp theo, Bộ Chính trị có Nghị quyết 10 về đổi
mới quản lý nông nghiệp, nhằm hướng dẫn giải quyết tốt mối quan
hệ trong nội bộ hợp tác xã theo hướng hoàn thiện cơ chế khoán
sản phẩm cuối cùng đến người lao động, cải tiến công tác hạch
toán và phân phối thu nhập để động viên nhiệt tình lao động của
nông dân. "Khoán 10" đã động viên cổ vũ nông dân bỏ công, bỏ
vốn vào kinh doanh, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Khoán 10
đã đi vào nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn, nông nghiệp và
nông dân có nhiều biến đổi. "Khoán 10" làm xuất hiện động lực mới
trong sản xuất, tạo ra sự gắn bó trực tiếp giữa người lao động với
tư liệu sản xuất, giữa lao động và thu nhập, đưa lại hiệu quả sản
xuất - kinh doanh. Chưa đầy 3 nǎm thực hiện cơ chế khoán mới,
nông sản hàng hoá trên thị trường dồi dào hơn. Đặc biệt là lương
thực. Lần đầu tiên trong nhiều nǎm, nước ta có dự trữ lương thực
tương đối khá và còn có để xuất khẩu. Nǎm 1988 nước ta sản xuất
được 19 triệu tấn lương thực, nǎm 1989 đạt 20 triệu tấn và nǎm
1990 đạt 21 triệu tấn, đưa mức bình quân lương thực đầu người từ
206,5 kg nǎm 1977 lên 335 kg nǎm 1990. Nǎm 1989, lượng gạo

xuất khẩu của nước ta đạt 1,5 triệu tấn, đứng hàng thứ 3 trên thế
giới, sau Thái Lan và Mỹ.
Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, các tầng lớp nhân dân đã
đầu tư vốn, vật tư, kỹ thuật để phát triển sản xuất.
Qua "khoán hộ" và liên minh kinh tế, người nông dân thực sự làm
chủ mảnh đất mà Đảng và Nhà nước trao quyền sử dụng cho họ.
Dân chủ về mặt kinh tế bước đầu được bảo đảm. Lòng tin của
nông dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố thêm một bước.
- Điều chỉnh phương hướng và bước đi của công nghiệp hoá, tập
trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp thật sự là mặt
trận hàng đầu.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình nước ta ngay từ những nǎm đầu
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là một nước nông nghiệp Muốn
phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy phát
triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông
nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp". Tư tưởng nói
trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở cho sự hình thành đường
lối công nghiệp hoá đất nước của Đảng.
Song do toàn Đảng chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ, chưa
xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu, nên đã đẩy
mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ những điều kiện, tiền
đề cần thiết, dẫn đến kết quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả kinh tế
thấp.
Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định muốn đưa nền kinh tế sớm
thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối "phải dứt khoát sắp xếp lại
nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lý". Đại hội đã xác định
nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những nǎm còn lại trong
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt kinh tế - xã hội , xác
định 5 mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội, coi ba chương trình kinh

tế là cốt lõi của kế hoạch kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết bằng
được nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
thiết yếu và các nhu cầu khác về đời sống nhân dân và phục vụ cho
dân giàu, nước mạnh. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã nêu mục tiêu
tổng quát 5 nǎm (1991 - 1995) là "vượt qua khó khǎn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, tǎng cường ổn định chính trị, đẩy
lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng hiện nay".
Trong khi thực hiện mục tiêu cách mạng do Đại hội đề ra, không thể
tách rời việc xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng
sản xuất hàng hoá, không thể tách rời các mục tiêu phát triển kinh
tế tương ứng khác và hỗ trợ cho nông nghiệp như công nghiệp
nặng, kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải và các ngành vǎn
hoá, xã hội.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội.
Đại hội lần thứ VI của Đảng vạch rõ, trước mắt tập trung sức giải
quyết những vấn đề có thể giải quyết được phù hợp với từng đối
tượng.
Đối với giai cấp công nhân, Đảng đề ra những biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về
mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng;
đồng thời chǎm lo đời sống vật chất và vǎn hoá, tạo ra những điều
kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Đảng quyết định cần "có chế độ tiền lương và phúc lợi xã
hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật chất và vǎn hoá của công nhân,
viên chức và gia đình".
Đối với trí thức, Đại hội lần thứ VI của Đảng chủ trương: "điều quan
trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng nǎng
lực và tạo điều kiện cho nǎng lực được sử dụng đúng và phát
triển". Cùng với chủ trương đúng đắn nói trên, Đại hội còn phê

phán những quan điểm hẹp hòi, không thấy hết vị trí của trí thức
đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau Đại hội lần thứ VI, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có nhiều
chủ trương, chính sách nhằm bảo đảm ổn định đời sống của công
nhân, viên chức và trí thức. Hiệu quả của chủ trương nói trên được
biểu hiện ở những tiếng nói chân thành, xây dựng trong những dịp
Đảng trưng cầu ý kiến.
Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: "Thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính
trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới".
Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, tǎng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật, sao cho giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa có điều kiện phát huy hết khả nǎng, sức mạnh của mình, góp
phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng, của dân tộc để
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khǎn trước mắt.
Việc củng cố liên minh công, nông và trí thức trong những nǎm tới
là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng yếu của Trung ương
Đảng và Chính phủ cũng như toàn Đảng, toàn dân ta.
III- NHỮNG KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ LIÊN MINH
CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ THỨC
Công nhân, nông dân, trí thức là những động lực của cách mạng
Việt Nam. Không củng cố liên minh này, Đảng ta không thể đưa đất
nước thoát khỏi khó khǎn để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học xây dựng và củng cố liên minh công, nông và trí thức trong
60 nǎm qua, có thể tập trung ở những vấn đề cơ bản sau:
1. ở mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng lãnh đạo phải sớm xác
định mục tiêu, nội dung và đối tượng liên minh của giai cấp
công nhân để tǎng cường củng cố liên minh, tạo điều kiện cho

phong trào cách mạng giữ được tính liên tục và thế chủ động
trong quá trình phát triển và thắng lợi.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
nước ta, với chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chỉ rõ: động lực
cách mạng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức. Lực lượng cách mạng gồm các giai cấp: công nhân, nông
dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ.
Giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công, nông và trí thức cách
mạng.
Xây dựng lực lượng cách mạng gồm các giai cấp và tầng lớp nói
trên nhằm đoàn kết dân tộc để chống lại kẻ thù là đế quốc xâm
lược (Pháp 1885-1945 và 1946-1954; Nhật 1940-1945 Mỹ; 1955-
1975) và bè lũ tay sai của chúng, thực hiện "độc lập dân tộc" và
"người cày có ruộng" để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối sáng tạo và sự chỉ đạo đúng đắn được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt cùng các nghị quyết, chủ
trương của Đảng đã từng bước dẫn đường cho cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, ruộng đất đã về
tay nông dân, kết cấu giai cấp ở nông thôn đã thay đổi. Giai cấp địa
chủ không còn.
Những gia đình bần cố nông được cách mạng chia ruộng và trở
thành tầng lớp trung nông mới. Tầng lớp địa chủ chịu sự cải tạo
của cách mạng đã trở thành người lao động. Như vậy, xét về giai
cấp nông dân sau cách mạng ruộng đất chỉ còn hai tầng lớp trung
nông và phú nông.
Theo nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp tư sản
(kể cả phú nông) là đối tượng đấu tranh của giai cấp công nhân.

Nhưng ở Việt Nam, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ,
giai cấp tư sản dân tộc trong đó có phú nông đã đi theo Đảng đấu
tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và khi tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa, họ tiếp thu cải tạo nên Đảng ta vẫn coi họ là một lực
lượng xây dựng đất nước theo hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã đề ra mục tiêu phấn đấu là "ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo". Mục tiêu cách mạng mà Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần
thứ VII của Đảng đề ra cũng là mục tiêu phấn đấu cho liên minh
công, nông và trí thức ở nước ta.
Để thực hiện mục tiêu đó, giai cấp công nhân và trí thức phải liên
minh chặt chẽ với trung nông (cả trung nông đã vào hợp tác xã và
chưa vào hợp tác xã) để đoàn kết và hướng kinh tế phú nông phát
triển theo kế hoạch của Nhà nước. Đối tượng, nội dung liên minh ở
mỗi giai đoạn do nhiệm vụ chiến lược của cách mạng quy định. Khi
việc giành chính quyền được đặt ra thì nội dung liên minh quân sự,
chính trị được đặt lên hàng đầu. Trong giai đoạn xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, mục tiêu của cách mạng là chiến thắng nghèo nàn, lạc
hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh thì liên minh kinh tế trở thành
nội dung chủ yếu.
Lênin nói: nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là sự liên
minh giữa giai cấp vô sản với trung nông và trí thức. Tư tưởng đó
của Lê-nin được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng cụ thể vào nước
ta, xây dựng khối liên minh công, nông và trí thức trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng như những nǎm đầu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta (1958-1960).
Những thành quả về kinh tế, xã hội ở miền Bắc nước ta thời kỳ nói
trên đã thể hiện sự phấn đấu của toàn dân ta.

2. Đảng cần có những chính sách đúng để khơi dậy lòng yêu
nước của công nhân, nông dân và trí thức.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, nhờ sớm đánh giá và
có chính sách đúng đắn mà Đảng của giai cấp công nhân đã lôi kéo
được nông dân, trí thức và tập hợp được các giai cấp cách mạng,
các lực lượng yêu nước, đưa Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đến thắng
lợi.
Nếu trước đây những chủ trương, chính sách của Đảng là nhằm
đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước, thay đổi địa vị xã hội của
công nhân, nông dân, trí thức và cả dân tộc, đem lại những quyền
dân sinh, dân chủ thiết thực cho quần chúng, thì trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, trên cơ sở những thắng lợi đã giành được mà
quyền lợi thiết thân của công nhân, nông dân và trí thức nâng lên
một bước chẳng những về quyền lợi chính trị mà cả quyền lợi kinh
tế.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần
thứ VII của Đảng đã đề ra, đối với nông dân, Đảng trao quyền sử
dụng ruộng đất lâu dài theo khả nǎng từng hộ nông dân, thiết lập
quan hệ mua bán bình đẳng giữa khu vực kinh tế quốc doanh và
khu vực kinh tế tập thể và cá thể, định giá hàng hoá hợp lý nhằm
khuyến khích nông dân sản xuất nhiều nông sản hàng hoá, v.v
Thực hiện cơ chế khoán hộ, "các hộ xã viên là những đơn vị kinh tế
tự chủ", là một trong những chủ trương thích hợp với nông dân
trong thời kỳ hiện nay.
Đối với trí thức, Đảng ta đã "coi khoa học và công nghệ là một động
lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong thực tế, trí
thức được Đảng và nhà nước trao những nhiệm vụ quan trọng,
chẳng những ở trong bộ máy Nhà nước mà còn trao cho trọng

trách trong lĩnh vực quản lý nền kinh tế, quản lý các cơ sở sản xuất
- kinh doanh lớn, nhỏ. Bên cạnh sự đánh giá đúng, Đảng ta còn có
chính sách tiền lương và các khoản phụ cấp khác nhằm bảo đảm
ổn định đời sống cho cán bộ, công nhân, viên chức trong hoàn
cảnh khó khǎn.
Tuy là bước đầu, những chính sách của Đảng và Nhà nước được
thực hiện trong những nǎm qua đã ổn định một bước tình hình kinh
tế - xã hội trong hoàn cảnh thế giới cũng như ở nước ta có nhiều
chuyển biến phức tạp. Những tiến bộ về mặt phát triển kinh tế sau
Đại hội lần thứ VI đã làm cho niềm tin của nhân dân đối với Đảng
được củng cố một bước.
3. Kết hợp củng cố liên minh công, nông và trí thức với củng
cố các loại hình hợp tác xã và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hợp tác xã của những người tiểu nông cá thể là hình thức xã hội
hoá sản xuất được diễn ra trong mọi chế độ xã hội có sự phát triển
kinh tế hàng hoá. Theo Lê-nin, chế độ hợp tác xã trong điều kiện
Đảng cộng sản lãnh đạo tất yếu phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
"Chế độ của những xã viên hợp tác xã vǎn minh là chế độ xã hội
chủ nghĩa". Do đó, chế độ hợp tác xã vǎn minh đòi hỏi tính tự
nguyện và tính lợi ích kinh tế cao. Chế độ hợp tác xã vǎn minh
hoàn toàn đối lập với cơ chế quản lý mệnh lệnh, quan liêu hành
chính Phong trào hợp tác xã phát triển được khi có cơ chế quản
lý phù hợp, bảo đảm cho bất cứ người tiểu nông, tiểu chủ, chủ
nông trại nào cũng có thể tham gia.
Vì những sai lầm, khuyết điểm về cải tạo nông nghiệp và hợp tác
hoá mà nhiều nǎm trước đây sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khǎn, đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Hiện nay, phần đông nông dân nước ta đi vào con đường làm ǎn
hợp tác với những trình độ và hình thức khác nhau và "khoán hộ"

đã trở thành "biện pháp" thích hợp. Vì vậy, củng cố hợp tác xã phải
tôn trọng bước đi tuần tự: từ khoán hộ đến hợp tác xã. Quá trình
này có những bước tuần tự như chuyển người nông dân, từ người
nông dân tự do sản xuất tự cung, tự cấp thành người nông dân sản
xuất hàng hoá; từ người nông dân sản xuất hàng hoá đến tổ chức
của những hộ nông dân kinh doanh nông nghiệp hàng hoá, v.v
Trong phong trào hợp tác cần lấy việc xây dựng và mở rộng hợp
tác xã mua bán, dịch vụ, giải quyết tốt khâu lưu thông, tạo ra bước
phát triển trong sản xuất hàng hoá nông sản; đồng thời tổ chức hợp
tác từng khâu, từng phần của quá trình sản xuất xét ra có lợi và có
lãi hơn so với sản xuất cá thể và thủ công để thu hút, liên kết với
công nhân và trí thức, giai cấp nông dân mới có điều kiện để cải
tiến kỹ thuật, nâng cao giá trị hàng hoá, có lợi cho cả các bên.
Liên kết nông nghiệp với công nghiệp, nông dân với công nhân và
trí thức trong từng bước đi của hợp tác hoá chỉ có như thế mới đưa
nông dân thật sự đi vào quỹ đạo sản xuất hàng hoá. Bằng con
đường ấy, công nhân và trí thức mới có điều kiện phục vụ nông
dân, nông nghiệp, thâm nhập vào nông thôn, càng có cơ sở để
củng cố thêm mối quan hệ ba bên cùng có lợi giữa công nhân, trí
thức với nông dân.
Từng bước quốc tế hoá nền kinh tế. Thiết lập mối quan hệ giữa
hợp tác xã sản xuất với hợp tác xã mua bán và xuất nhập khẩu,
qua đó mà liên doanh, liên kết quốc tế.
Qua quốc tế hoá sản xuất hàng hoá nông sản, gắn thị trường nông
thôn với thị trường thành phố, gắn thị trường dân tộc với thị trường
quốc tế.
Trên cơ sở những vấn đề trên mà củng cố các loại hình hợp tác xã
phù hợp, vừa thu hút nông dân vào các hình thức sản xuất, kinh
doanh; vừa thực hiện việc phân công lao động tại chỗ, kết hợp với
phân công lao động quốc tế, làm cho nông dân xích lại gần với

công nhân và trí thức về phương diện kết cấu giai cấp xã hội.
4. Nâng cao nǎng lực lãnh đạo của Đảng, xác định vai trò tổ
chức quản lý của Nhà nước, thực hiện những nội dung và mối
quan hệ liên minh cụ thể với nông dân và trí thức.
Đảng ta ra đời trong một nước nông nghiệp lạc hậu. Phần lớn cán
bộ, đảng viên xuất thân từ thành phần không phải công nhân, do đó
còn chịu ảnh hưởng tư tưởng phong kiến, nông dân và tiểu tư sản
thể hiện trong ý thức, trong quan điểm kinh tế và trong quản lý kinh
tế, quản lý xã hội. Thực tế mấy chục nǎm qua cho thấy, trong mối
quan hệ giữa Nhà nước và nông dân diễn ra những việc làm trái
với chủ trương, đường lối của Đảng. Hơn nữa, trong việc vạch ra
đường lối, có thời kỳ Đảng ta không chú ý nghiên cứu, vận dụng
các quy luật kinh tế - xã hội dẫn đến những hậu quả xấu cho sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng và hành động sai trái trên, xét cho cùng đều do
cán bộ, đảng viên không nắm vững lý luận Mác - Lênin, thiếu kiến
thức vǎn hoá, khoa học và nǎng lực công tác; hoặc chưa đứng
vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề nông dân
và trí thức phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Ở giai đoạn Đảng lãnh đạo chính quyền thì ngoài việc củng cố liên
minh này cùng với nâng cao nǎng lực lãnh đạo của toàn Đảng, điều
then chốt là phải xác định vai trò Nhà nước- người thay mặt Đảng
tổ chức, chỉ đạo những mối quan hệ liên minh trực tiếp với nông
dân và trí thức về mặt vĩ mô. Bởi vì mọi nghị quyết của Đảng đều
phải được Nhà nước thể chế hoá thành chính sách, pháp luật,
pháp lệnh. Không có những chính sách, pháp luật, pháp lệnh đúng
thì không thể có sự thúc đẩy phong trào sản xuất kinh doanh làm
cho dân giàu, nước mạnh.
Điều cần nghiêm túc thực hiện là giữa Trung ương Đảng và Chính

phủ cần phân định rõ chức nǎng lãnh đạo và quản lý, điều hành.
Đảng tránh bao biện làm thay. Chỉ có thông qua pháp luật, được
nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện, Nhà nước mới chống
được bệnh tham nhũng, hối lộ, ức hiếp nhân dân của những người
khoác áo cán bộ, đảng viên, gây mất uy tín, giảm lòng tin của quần
chúng đối với Đảng, Chính phủ là cơ quan thay mặt Đảng, thay mặt
nhân dân, trước hết là nông dân, công nhân và trí thức mà điều
hành việc nước, chǎm lo mọi mặt đời sống của nhân dân và bảo vệ
Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nếu dân đói, Đảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính
phủ có lỗi". Tất cả mọi chủ trương, chính sách của Đảng là nhằm
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân nói chung, nông dân nói
riêng.
Nếu thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc chống đế
quốc, chống phong kiến, thực hiện khẩu hiệu "độc lập dân tộc,
người cày có ruộng" không thể tách rời sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và động lực cách mạng hùng hậu là khối
liên minh công, nông và trí thức, nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất thì thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu không thể tách rời
ba nhân tố quan trọng có tính quyết định nói trên

×