Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tiểu luận môn Phân tích chính sách thuế chủ đề Đề xuất một số biện pháp chống chuyển giá ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.35 KB, 33 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC







CHUYỂN GIÁ





GVHD : PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
NHÓM : 7
LỚP : TCDN Đêm 4 – K21

 TP.HCM, tháng 11.2012 

CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM 7
1. Nguyễn Thị Minh Ngọc
2. Nguyễn Thị Lan
3. Đinh Viết Khuê
4. Nguyễn Thị Hồng Nhung
5. Nguyễn Văn Hùng
6. Lại Thị Hằng


7. Nguyễn Thị Hồng Minh













MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIÁ 2
1.1 Khái niệm 2
1.2 Nguyên nhân dẫn tới chuyển giá 4
1.3 Phạm vi chuyển giá 4
1.4 Tác động của chuyển giá 5
1.4.1 Đối với các công ty đa quốc gia 5
1.4.2 Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư 6
1.4.3 Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư 6
1.5. Các phương thức chuyển giá phổ biến 7
PHẦN II: CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM 10
2.1 Thực trạng hoạt động chuyển giá tại Việt Nam 10
2.1.1 Tình hình thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua 10
2.1.2. Thực trạng chung về hoạt động chuyển giá tại Việt Nam 11
2.2 Một số hình thức chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam 13

2.2.1 Chuyển giá qua khâu xác định giá trị vốn góp trong các liên doanh 13
2.2.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ 14
2.2.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường 15
2.2.4 Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất 17
2.3 Đánh giá hoạt động chống chuyển giá tại Việt Nam 18

2.3.1 Những nỗ lực của ngành thuế trong công tác chống chuyển giá ở nước ta.
18
2.3.2 Những khó khăn và bất cập trong công tác chống chuyển giá tại Việt Nam
20
a. Khó khăn 20
b. Bất cập trong quản lý 21
PHẦN III. ĐỂ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT
NAM 23
3.1 Đối với cơ quan thuế 23
3.1.1 Biện pháp hành chính 23
3.1.2 Biện pháp cưỡng chế 23
3.2 Đối với nhà nước: 25
3.2.1 Hoàn thiện văn bản hệ thống pháp luật về chống chuyển giá 25
3.2.2 Nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý nhà nước 26
3.2.3 Xây dựng cơ sở dữ liệu giá cả cho các giao dịch 27
3.2.4 Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ quản lý khu
vực đầu tư nước ngoài 28





1


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang là xu hướng chung của mọi quốc gia, trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó rõ nhất là trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh
vực thông tin. Xét riêng trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa là cách hiệu quả giúp cho
các nước chậm tiến thực hiện con đường phát triển rút ngắn và từng bước đuổi kịp các
nước kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nó còn đem lại nhiều vấn đề tiêu cực,
điển hình là việc trốn thuế của các công ty đa quốc gia thông qua hoạt động chuyển giá.
Hầu hết các doanh nghiệp FDI đều khai báo kinh doanh thua lỗ nhưng thực tế vẫn có
khoản lợi nhuận chuyển về công ty mẹ.
Trước tình hình đó, và theo Bộ trưởng tài chính Vũ Văn Ninh đánh giá trong phiên
họp Quốc hội Việt Nam ngày 05 tháng 10 năm 2008 là tình hình chuyển giá “không kiểm
soát được”, thì việc nghiên cứu để tìm giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá là cấp
thiết, khi mà luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều.
Vì vậy, nhóm đã tiến hành tìm hiểu và phân tích cơ sở lí thuyết, thực trạng và
những giải pháp để góp phần hạn chế tình hình chuyển giá ở Việt Nam trong giai đoạn
mở cửa hội nhập hiện nay. Trong quá trình phân tích có những sai sót mong được sự góp
ý của thầy. Nhóm xin chân thành tiếp nhận ý kiến đóng góp để hoàn thiện bài nghiên cứu.







GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20 2

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIÁ
1.1 Khái niệm

Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài
sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company)
trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay
đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối
tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như
thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn
có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán
hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự
khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích
không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên
kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của
họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi
bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc
gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất,
cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ
điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Cho nên, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ
thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính sách về giá mà ở
đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích đạt được từ
những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với trường hợp khai giá giao
dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện thanh

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 3


toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không
phải thực hiện vế sau của việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao dịch
cao. Các đối tượng này nắm bắt và vận dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa
các quốc gia, các ưu đãi trong quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp.
Như thế, vô hình chung, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, tạo
ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.
Tuy vậy, thật không đơn giản để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển giá. Vấn
đề ở chỗ, nếu định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách cục bộ cho một
nhà nước thì cơ quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển giao. Chẳng hạn, giá mua
đầu vào nếu được xác định thấp, điều đó có thể hình thành chi phí thấp và hệ quả là thu
nhập trước thuế sẽ cao, kéo theo thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN) tăng; hoặc giả
như giá xuất khẩu định cao cũng làm doanh thu tăng và kết quả là cũng làm tăng số thuế
mà nhà nước thu được. Nhưng cần hiểu rằng điều đó cũng có nghĩa rằng nghĩa vụ thuế
của doanh nghiệp liên kết ở đầu kia có khả năng đã giảm xuống do chuyển một phần
nghĩa vụ của mình qua giá sang doanh nghiệp liên kết này.
Hành vi này chỉ có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ thể có quan hệ
liên kết. Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng giao kết về giá chưa đủ để
kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu giao kết đó chưa thực
hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với đối tượng giao dịch thì
không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy, ta có thể xem chuyển
giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán hay chưa.
Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh
giá một giao dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với giá thị trường.
Nếu giá giao kết không tương ứng với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận
rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá.
Ví dụ chuyển giá từ bên ngoài, qua giá thiết bị, máy móc, giá nguyên liệu và hợp
thức từ công ty mẹ chuyển sang.


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 4

Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2009 của Chính phủ cùng kết quả kiểm toán cho
thấy giữa dự toán và quyết toán còn khoảng cách lớn. Chẳng hạn dự toán thu từ dầu thô
có 63.400 tỷ đồng nhưng thực thu tới hơn 83.300 tỷ đồng, vượt 31,6%.
1.2 Nguyên nhân dẫn tới chuyển giá
Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ
thể kinh doanh, thì việc xác định lợi ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể
riêng lẻ, mà được tính trong lợi ích chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn
được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán
lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì
phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng.
Tuy nhiên vấn đề chuyển giá ở Việt Nam còn hết sức mới mẻ. Trong xu thế mở rộng
cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ -
anh - chị - em , thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng
nhằm thay đổi những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa
đựng những hấp dẫn về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà quản lý lưu
tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch định chiến lược tài chính của doanh
nghiệp lên chương trình hành động cho mình.
1.3 Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi phải
được xem xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công ước mẫu của
OECD về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp được xem là liên kết
(associated enterprises) khi:
Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp kia
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;

Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể (entities) khác
tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc thông
qua trung gian.

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 5

Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh hưởng, sự
giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định mối quan hệ
liên kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết định. Như thế các
doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc gia hoặc có thể ở
nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn ra trong các giao dịch quốc
tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao dịch quốc tế
hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn. Trong khi
đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ thuế hình thành từ các
giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các quốc gia hiện nay thường chỉ
quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế.
1
Theo đó, giao dịch quốc tế được xác
định là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng
tham gia là chủ thể không cư trú (non-residents).
2
Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách
biệt về mức thuế suất thuế TNDN của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển qua giá
từ doanh nghiệp liên kết cư trú tại quốc gia có thuế suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở
quốc gia có thuế suất thấp. Ngược lại một lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm
thu nhập cục bộ ở quốc gia có thuế suất thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho
ra những kết quả tương tự là làm tổng thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết tăng

lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi, miễn
giảm thuế. Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được hưởng ãi
hoặc ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế hơn về điều này.
1.4 Tác động của chuyển giá
1.4.1 Đối với các công ty đa quốc gia
 Tác động tích cực
 Được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đầu tư (như thuế suất, lĩnh vực đầu tư…) tạo
điều kiện cho các công ty đa quốc gia dễ dàng trong việc thực hiện giảm thiểu trách
nhiệm ở quốc gia các công ty đa quốc gia đang đầu tư.

1
Chẳng hạn như Luật Thuế TNDN của Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Canada hoặc Công ước mẫu về định giá chuyển giao của OEDC
đều chỉ điều chỉnh đối với chuyển giá quốc tế (all cross-border)
2
Atul Dua, Tranfer Pricing-Atax: Corporate and Securities Perspective, IPBA Journal, số 40, tháng 12/2005, tr. 22.

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 6

 Thực hiện chuyển giá, các công ty đa quốc gia sẽ bảo toàn được nguồn vốn đầu tư,
nhanh chóng thu hồi nguồn vốn cho các cơ hội đầu tư khác.
 Thực hiện chuyển giá sẽ giúp các công ty đa quốc gia nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường ở các nước đang đầu tư.
 Tác động tiêu cực
 Nếu bị các quốc gia phát hiện và thực hiện chế tài thì các công ty đa quốc gia phải
chịu một khoản phạt rất lớn, bị rút giấy phép kinh doanh tại quốc gia đó hoặc ảnh
hưởng nghiêm trọng trên thương trường quốc tế dẫn tới sự chú ý nhiều và chặt chẽ
hơn của các cơ quan thuế ở những nước mà các công ty đa quốc gia đi đầu tư sau đó.

1.4.2 Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư
 Tác động tích cực
 Khi có hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu tư có mức thuế thu nhập
thấp làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn.
 Tác động tiêu cực
 Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi do việc
thực hiện hành vi chuyển giá của các công ty đa quốc gia làm các luồng vốn chảy vào
nhanh mạnh, sau đó lại có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là tạo ra
một bức tranh kinh tế bị sai lệch ở các quốc gia này trong các thời kì khác nhau.
 Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được hưởng lợi từ
hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ phải đương đầu với các
khó khăn tài chính khi các công ty đa quốc gia thoái vốn do các thu nhập không bền
vững trước đây trong ngắn hạn không phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế.
 Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước
tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn hơn trong việc hoạch định chính sách điều tiết nền kinh
tế vĩ mô và khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển.
 Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch kinh tế
của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ dẫn tới
lệ thuộc vào nền kinh tế của chính quốc, về lâu dài có thể dẫn tới lệ thuộc về chính trị.
1.4.3 Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư
 Tác động tích cực
 Nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán cân
thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty mẹ tốt hơn về

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 7

hình thức thì cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng góp nhiều thuế
hơn cho nhà nước, tác động tốt tới tăng trưởng GNP của nước xuất khẩu vốn đầu tư.

 Tác động tiêu cực
 Nếu thuế suất ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư thấp hơn thuế suất ở chính quốc, sẽ làm
cho các nước xuất khẩu đầu tư bị mất cân đối trong kế hoạch thuế của nước này do
việc thất thu một khoản thu nhập từ thuế.
 Mục tiêu quản lý nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này sẽ gặp một số khó khăn nhất
định do việc các dòng vốn đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn quản lý của chính
phủ.
1.5. Các phương thức chuyển giá phổ biến
Qua nghiên cứu thực tế thì nhận thấy các MNC thường áp dụng các phương thức
chuyển giá sau:
Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành phẩm hay
thành phẩm. Các thành viên của MNC có trụ sở tại các quốc gia có thuế suất thuế TNDN
cao sẽ mua vào các nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay thành phẩm với giá cao và bán
ra cho các công ty thành viên với giá thấp nhằm tối thiểu hóa thuế TNDN. Giá mua vào
và giá bán ra cho các thành viên trong MNC bị áp đặt nhằm tối thiểu hóa thu nhập phải
nộp thuế.Ngoài ra, thông qua việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa các MNC cũng thu
lợi từ các biểu thuế xuất khẩu hay nhập khẩu nhằm tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của
MNC.
Ví dụ:
Cụ thể, Thanh tra Cục Thuế phát hiện, từ tháng 1.2006 Bat-Vinataba ký hợp đồng với
Cty Bat Marketing-Singapore (Bat MS) về cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ như: Quản lý
cấp loại, chất lượng và tính ổn định của nguyên liệu thuốc lá; kế hoạch nhu cầu và thay
thế lá thuốc lá (bao gồm cả việc quản lý nguyên liệu lá thuốc và gia liệu từ nhà cung cấp
trong nội bộ Tập đoàn Bat hay các bên cung cấp thứ ba). Duy trì công thức pha trộn Giá
cả chi phí được thanh toán là: 0,25USD/1 kg thuốc lá sợi để sản xuất các loại thuốc lá
mang nhãn hiệu BAT 9 trong 2 năm đầu) và 0,50USD/kg cho các năm tiếp theo.
Bat-Vinataba đã hoạch toán chi phí này vào giá vốn hàng bán để giảm thu nhập chịu
thuế thu nhập DN trong 4 năm (từ năm 2002 đến 2008) tổng cộng hơn 217 tỉ đồng.
Nhưng Cty đã không chứng minh được các chứng từ thể hiện Bat-MS đã thực hiện các


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 8

dịch vụ này. Đồng thời khoản chi phí này đã làm gia tăng thêm khoản chi cho nhà cung
cấp nguyên liệu nước ngoài là Bat-MS ngoài giá bán nguyên liệu thuốc lá nhập khẩu.
Đây là khoản Cty cố tình chuyển thu nhập từ Cty chịu thuế suất cao sang Cty liên kết có
thu nhập chịu thuế suất thấp ở nước ngoài, nên không thể chấp nhận là khoản chi phí hợp
lý.
3

Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình như định giá thật cao các TSCĐ chuyển
giao cho các công ty thành viên tại các quốc gia có thuế suất cao. Giá chuyển giao được
xác định cao hơn nhiều lần so với giá trị thật của tài sản đó. Thông qua hoạt động chuyển
giao tài sản này thì các MNC đã chuyển một phần thu nhập ra nước ngoài, các DN sẽ
tăng chi phí khấu hao làm giảm thu nhập chịu thuế TNDN và dần thôn tính hết các tài sản
này. Vì vậy mà thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm. Khi thực hiện hành động này thì các MNC
một mặt tiết kiệm được chi phí thanh lý các TSCĐ lỗi thời, một mặt lại chuyển được thu
nhập về quốc gia có thuế suất thấp từ đó có thể tối đa hóa lợi nhuận của MNC.
Ví dụ: Dây chuyền sản xuất bia của liên doanh BGI ở Tiền Giang do BGI định giá là
30,85 triệu USD, nhưng Công ty SGS thẩm định lại chỉ còn 23,55 triệu USD.
4
Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình với giá thật cao hay chi trả các chi
phí bản quyền, các chi phí để xây dựng thương hiệu sản phẩm, các chi phí nghiên cứu và
phát triển sản phẩm. Các MNC sẽ xây dựng các phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm
tại các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao, tất cả các chi phí nghiên
cứu phát triển sản phẩm sẽ do thành viên MNC tại quốc gia có thuế suất cao này gánh
chịu. Nhưng kết quả của việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm thì các thành viên khác
vẫn được áp dụng như nhau. Hoặc một chương trình quảng cáo nhằm xây dựng thương
hiệu cho sản phẩm trên phạm vi khu vực, nhưng chi phí lại được phân bổ hết về cho

thành viên có trụ sở tại quốc gia có thuế suất cao. Các hoạt động trên đều nhằm tối thiểu
hóa số thuế phải nộp và việc phân bổ chi phí trên hoàn toàn là hành động chủ quan của
các nhà quản lý của MNC vì vậy đây cũng là hình thức chuyển giá. Các thành viên trong

3

4



GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 9

MNC có sự cung ứng các dịch vụ tài chính, tư vấn pháp lý với giá cả cao hơn nhiều lần
so với giá cả thị trường. Cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với
lãi suất cao hơn mức thị trường. Có sự tài trợ liên quan đến các nguồn lực cơ bản như
nhân sự, vật chất. Các chi phí cho các chuyên gia tham gia tư vấn như các chi phí về tiền
lương, chi phí nhà ở, đi lại, các chi phí khác phục vụ cho các chuyên gia yên tâm làm
việc.
Chuyển giá thông qua việc hỗ trợ tài chính: Qua thực tế kiểm tra cho thấy, đa phần
các MNC ở Việt Nam vay vốn của các công ty mẹ ở nước ngoài với lãi suất rất cao. Lãi
suất tiền vay cao đồng nghĩa với việc giá thành cao, giảm lợi nhuận, thuế TNDN giảm.
Cũng có trường hợp, công ty mẹ ở nước ngoài đứng ra bảo lãnh cho MNC ở Việt Nam
vay vốn với chi phí bảo lãnh rất cao.

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20 10


PHẦN II: CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng hoạt động chuyển giá tại Việt Nam
2.1.1 Tình hình thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua
Với chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, trong những năm qua, Việt Nam đã
thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó,
các dự án đầu tư nước ngoài đã không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn quy mô, góp
phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế đất nước tăng trưởng và phát triển.
Biểu đồ 1: Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam từ năm 1988 - 2012









Nguồn: Tổng cục Thống kê (1988 – 2010) – Cục Đầu tư nước ngoài (2011 – 2012)
5

Sau gần 25 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành công trong thu hút FDI. Đỉnh điểm của giai đoạn này là năm 2008 với 64 tỷ USD
vốn đăng ký đạt được
6
. Bước sang năm 2010 và 2011, lạm phát cao cũng như nền kinh tế
tụt hạng năng lực cạnh tranh đã khiến nhà đầu tư bớt hứng thú đầu tư vào Việt Nam, năm
2011 tổng lượng vốn đăng ký chỉ đạt 14,7 tỷ USD. Bảy tháng đầu năm 2012, vốn FDI
đăng ký đạt 8,03 tỷ USD, bằng 66,9% so với cùng kỳ năm 2011.
7


Lượng vốn FDI vào Việt Nam đã có nhiều đóng góp nổi bật trong quá trình phát triển
đất nước. Từ năm 2001 đến năm 2011, thông qua các loại thuế, các doanh nghiệp FDI đã
nộp hơn 15,5 tỷ USD vào ngân sách nhà nước; tổng sản phẩm của doanh nghiệp FDI
chiếm tới 20% GDP; trung bình mỗi năm từ 2000 đến 2010 giải quyết việc làm cho

5

6

7


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 11

khoảng hơn 1 triệu lao động. Ngoài ra, FDI cũng giúp đẩy mạnh xuất khẩu (mặc dù tăng
trưởng kinh tế chậm lại trong 6 tháng đầu 2012, với GDP chỉ tăng 4,38%, thấp hơn 1,25
điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, nhưng các doanh nghiệp FDI đã góp phần
quan trọng làm tăng kim ngạch xuất khẩu thêm 22,2%
8
).
Như vậy, cho đến nay, không còn nghi ngờ gì nữa về vai trò quan trọng của FDI đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Tuy nhiên, lý thuyết và thực tiễn
đều cho thấy mục tiêu của FDI là lợi nhuận nên có nhiều khác biệt với các mục tiêu phát
triển của nước chủ nhà. Chính sự khác biệt này đã làm phát sinh nhiều vấn đề - mà nếu
chúng ta không có những giải pháp phòng chống thì hiệu quả của dòng vốn FDI có thể sẽ
không còn. Một trong số đó là vấn đề chuyển giá.
2.1.2. Thực trạng chung về hoạt động chuyển giá tại Việt Nam
Dấu hiệu nghi ngờ doanh nghiệp chuyển giá được nhìn nhận qua hai đặc điểm: doanh

nghiệp lỗ mất vốn chủ sở hữu và doanh nghiệp liên tục lỗ trong nhiều năm nhưng vẫn
tiếp tục mở rộng quy mô. Tại Việt Nam, tình trạng các doanh nghiệp FDI mặc dù liên tục
kê khai kinh doanh thua lỗ nhưng lại đầu tư kinh doanh diễn ra rất phổ biến.
Hơn 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ trong nhiều năm qua
Theo thống kê về hoạt động khối doanh nghiệp FDI, khoảng 50% tổng số doanh
nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ liên tục
trong 3 năm, thậm chí báo cáo lỗ suốt từ khi hoạt động đến nay. Cụ thể, năm 2009, có
56% doanh nghiệp FDI báo cáo thua lỗ. Con số này trong năm 2011 là 60%. Tuy nhiên,
trên thực tế, các doanh nghiệp này đều có công ty mẹ tại nước ngoài và hàng sản xuất ra
99% là xuất khẩu sang nước thứ ba.
9

Thực trạng này diễn ra phổ biến ở hầu hết các địa phương thu hút FDI lớn, như Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương,… Điển hình tại Bình Dương, số doanh nghiệp FDI kê
khai lỗ năm 2010 là 754/1.490 DN, chiếm tỷ trọng 50,6%, trong đó có tới 200 doanh
nghiệp lỗ quá vốn chủ sở hữu; tại Đồng Nai, tỷ lệ số doanh nghiệp FDI kê khai lỗ lần lượt
là 52,2%; tại TP. Hồ Chí Minh, số lượng doanh nghiệp FDI chỉ chiếm khoảng 3% tổng số
doanh nghiệp trên địa bàn nhưng số tiền mà khối doanh nghiệp này khai báo lỗ chiếm

8

9



GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 12

đến hơn 20% tổng số tiền mà các doanh nghiệp trên địa bàn khai báo lỗ; số doanh nghiệp

FDI khai báo lỗ trên 4 năm chiếm trên 50%.
Biểu đồ 2: Số lượng các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ và lãi trên địa bàn TP. Hồ Chí
Minh qua các năm










Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh
10

Các doanh nghiệp FDI báo cáo thua lỗ nhưng vẫn mở rộng đầu tư
Có thể kể đến những trường hợp điển hình, như Metro Cash & Carry Việt Nam khai
lỗ từ năm 2001 đến 2009 là 1.157 tỉ đồng, đứng đầu bảng trong danh mục các doanh
nghiệp FDI khai lỗ. Thua lỗ nhưng doanh nghiệp này vẫn tiếp tục khai trương trung tâm
bán sỉ thứ 19 của mình tại Việt Nam, có tổng diện tích bán hàng lên tới 5.100 m2. Trong
các năm 2010, 2011 và 2012, Metro đã xây dựng bốn trung tâm mới mỗi năm.
Hoặc Coca Cola, số lỗ luôn ở mức trên 100 tỷ đồng/năm trong vòng 10 năm qua, có
năm gần bằng 1/3 doanh thu. Nhưng kế hoạch mới công bố cho thấy Coca Cola sẽ tiếp
tục rót thêm 300 triệu USD vào Việt Nam trong 3 năm tới, đưa tổng vốn đầu tư vào thị
trường này lên nửa tỷ USD trong vòng 5 năm.
11

Trốn thuế, gây thất thu ngân sách
Những năm qua, một lượng lớn doanh nghiệp đã tìm cách để gian lận, trốn thuế. Theo

Tổng cục Thuế, chỉ một năm cơ quan này tích cực hơn trong việc kiểm tra các doanh
nghiệp FDI nghi ngờ chuyển giá, họ đã phát hiện số tiền khai lỗ tăng gấp ba lần rưỡi

10

11


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 13

trong năm 2011 so với năm 2010. Cụ thể, thanh tra 575 doanh nghiệp FDI lỗ trong các
năm từ 2005-2009, kết quả giảm lỗ hơn 4.000 tỷ đồng và truy thu thuế hơn 212 tỷ đồng.
Trong đó, phát hiện 43 doanh nghiệp FDI có quan hệ giao dịch liên kết có dấu hiệu
chuyển giá, qua đó xử phạt 37 doanh nghiệp, giảm lỗ 887 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt
27 tỷ đồng. trong năm 2011, ngành thuế đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 921 doanh nghiệp
FDI kê khai lỗ, và có dấu hiệu chuyển giá, cơ quan này đã xử lý giảm lỗ 6.617 tỉ đồng,
tăng 3,5 lần so với năm 2010; tiến hành truy thu và phạt vi phạm hành chính thuế 1.669 tỉ
đồng, tăng 4 lần so với năm 2010.
12

Phạm vi chuyển giá rộng lớn
Hành vi chuyển giá đã diễn ra không chỉ tại các doanh nghiệp liên kết có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, mà còn diễn ra giữa các bên liên kết trong nội địa Việt Nam. Sở dĩ
có hiện tượng này là do Việt Nam vẫn đang thực hiện chính sách ưu đãi về thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) theo ngành nghề kinh doanh và địa bàn đầu tư. Lợi dụng chính
sách ưu đãi này, các doanh nghiệp trong nước thành lập một số công ty con hoạt động
trong những lĩnh vực và địa bàn được ưu đãi thuế TNDN và tìm cách chuyển lợi nhuận
trước thuế sang công ty con để được hưởng ưu đãi thuế hoặc chuyển lợi nhuận trước thuế

từ doanh nghiệp có lãi sang doanh nghiệp bị lỗ để điều hoà lãi lỗ, tránh thuế TNDN.
Hình thức chuyển giá đa dạng
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp FDI dùng rất nhiều chiêu thức để chuyển giá. Đó có
thể là chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản hữu hình (như máy móc, thiết bị, công
nghệ) hoặc vô hình (định giá thương hiệu) giữa các bên liên kết; hay chuyển giá thông
qua các chuyển giao dịch vụ, chi phí giữa các bên liên kết; chuyển giá qua khâu xác định
vốn góp trong các liên doanh; chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất. Các hình thức
chuyển giá này sẽ được phân tích cụ thể dưới đây.
2.2 Một số hình thức chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam
2.2.1 Chuyển giá qua khâu xác định giá trị vốn góp trong các liên doanh
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là phía
liên doanh góp vốn Việt Nam, Chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt Nam. Bên
liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn nhỏ lại; Chính

12


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 14

phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu dùng sản phẩm
với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Điển hình như, một khách sạn liên doanh giữa Tổng công ty Du lịch Sài Gòn và Vina
Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4,34 triệu USD. Nhưng
theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá thì giá trị tài sản góp vốn của Vina
Group chỉ có giá trị là 2,99 triệu USD. Như vậy, trong nghiệp vụ định giá trị góp vốn liên
doanh này, phía Việt Nam đã bị thiệt hại 1,35 triệu USD, tương đương 45,2%.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối
tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước

ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ kéo dài và bên
liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động đành phải bán lại
phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty 100% vốn nước
ngoài.
2.2.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
Bên cạnh việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi tiến hành liên doanh thì các công ty đa
quốc gia còn thực hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí
tiền bản quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản
cố định vô hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công
nghệ đó là tại Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam.
Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo
Luật Đầu tư Nước ngoài được Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) cấp phép số 287/GP ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên
doanh là Công ty Thực phẩm II tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken
International Behler (Hà Lan). Đến năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được
chuyển nhượng sang giấy phép số 287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với
Asia Pacific Breweries PTE.LTD (Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD
và vốn pháp định là 17 triệu USD. Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên
doanh Singapore chiếm 60% vốn, ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để
tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình
trạng kinh doanh của công ty bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là
do phải trả cho chi phí bản quyền quá cao và tăng dần qua các năm. Trong tình hình

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 15

công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng
nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không hề hấn gì vì họ vẫn
nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu hướng ngày càng tăng

ngày càng tăng.
Một ví dụ cho việc này là ban đầu, liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm
phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Sau khi phía Việt
Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban
đầu phía Đức đưa ra. Trường hợp khác, cũng trong ngành sản xuất xe ô tô, đó là công
ty Mitsubishi Motor Corporation (Nhật Bản) trong liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao
đòi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 61 triệu USD. Sau khi đàm phán lại thì
giảm xuống chỉ còn 4,4 triệu USD; tức giảm đi gần 15 lần. Một trường hợp nữa là công
ty mía đường Đài Loan đòi phí bản quyền là 54 triệu USD nhưng sau khi đàm phán thì
phí bản quyền chỉ còn là 6 triệu USD, giảm 9 lần
2.2.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
Các công ty đa quốc gia (Multinational corporation – MNC) khi đi vào đầu tư kinh
doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên doanh với một công ty nội địa hơn là
vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là các MNC này muốn
sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các công ty nội địa. Sau một thời gian
liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật khác nhau, trong đó có thủ thuật
chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công ty liên doanh thành công ty 100%
vốn nước ngoài.
Có rất nhiều chiêu thức mà các hãng ngoại đưa ra để tăng cường quyền lực và đạt các
mục tiêu lợi ích sau khi liên doanh được thành lập. Với những liên doanh cùng ngành
nghề, chuyển giá là hiện tượng phổ biến khi phía nước ngoài thường yêu cầu Việt Nam
tiêu thụ một số sản phẩm của mình. Chiêu thức này khá giống với mối quan hệ hợp tác
giữa Lotte và Bibica.
Ngày 04/10/2007, Lễ ký kết Hợp đồng Hợp tác chiến lược giữa Bibica và Lotte đã
diễn ra, theo chương trình hợp tác, Bibica đã chuyển nhượng cho Lotte 30% tổng số cổ
phần (khoảng 4,6 triệu cổ phần). Tập đoàn Lotte – Hàn Quốc là 1 trong những tập đoàn
bánh kẹo lớn nhất tại Châu Á, sau khi trở thành đối tác chiến lược, Lotte hỗ trợ Bibica

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá


Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 16

trong lĩnh vực công nghệ, bán hàng và tiếp thị, nghiên cứu phát triển; phối hợp với Bibica
thực hiện dự án Công ty Bibica miền Đông giai đoạn 2 (Bình Dương) tạo điều kiện giúp
Bibica mở rộng và phát triển kinh doanh trong lĩnh vực bánh kẹo và trở thành một trong
những công ty sản xuất kinh doanh bánh kẹo hàng đầu Việt Nam. Đồng thời, Lotte cung
cấp cho Bibica sự hỗ trợ thương mại hợp lý để Bibica nhập khẩu sản phẩm của Lotte,
phân phối tại Việt Nam, cũng như giúp Bibica xuất khẩu sản phẩm sang Hàn Quốc.
13
Niềm tin càng được củng cố khi những cam kết bước đầu đã được thực hiện. Lợi
nhuận năm 2009 của BBC tăng hơn 170% so với năm 2008. Không lâu sau đó, Lotte đã
gia tăng tỉ lệ sở hữu tại BBC thêm gần 6% nữa.
Nhưng tình hình bỗng đổi khác kể từ năm 2010. Năm đó, dù doanh thu tăng hơn 23%
song lợi nhuận lại giảm đến 27%. Sang năm 2011, doanh thu tăng tiếp 26% nhưng lợi
nhuận chỉ tăng 11%. Nhiều cổ đông cho rằng, mức tăng này chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng ngành thực phẩm, vốn có mức tăng trưởng khoảng 30% mỗi năm. Trong khi
đó, BBC là công ty bánh kẹo đứng thứ hai thị trường, chỉ sau Kinh Đô (KDC). Rõ ràng,
hiệu quả của sự hợp tác chiến lược ở BBC là chưa cao.
Biểu đồ 3: Tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của Bibica từ 2008-2011
14

Diễn biến bất thường doanh thu tăng, lợi nhuận giảm đã được mổ xẻ: Khi hợp tác, do
Lotte ra áp lực yêu cầu Bibica không được sử dụng nhãn hàng Chocopie nên Bibica phải
xây dựng thương hiệu riêng. Để phát triển dòng sản phẩm mới, Bibica đã phải bỏ ra rất

13
Website: bibica.com.vn
14
Công ty niêm yết - cophieu68.com


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 17

nhiều chi phí marketing khiến tỷ suất lợi nhuận của nhãn hàng thời gian qua âm 20%.
Điều đáng nói là với các sản phẩm Lottepie xuất khẩu, Bibica bán trực tiếp cho cổ đông
lớn Hàn Quốc với giá 6,9 USD/thùng. Tuy nhiên, năm 2011, Bibica gặp sự cố dây
chuyền sản xuất phải nhập khẩu lại để giữ thị phần nội địa thì giá nhập từ Lotte lên tới
7,4 USD/thùng, đồng thời giá xuất khẩu sản phẩm sang các nước châu Á trong năm 2012
được Lotte đề xuất ở mức 6,9 USD/thùng, khiến tỷ suất lợi nhuận xuất nhập khẩu của
Bibica âm 18%
15
Thời gian này, thị phần và thương hiệu của Bibica không được gia tăng
tại thị trường nội địa. Nghiêm trọng hơn nữa, khi xuất khẩu, Bibica vô tình còn giúp
Lotte thực hiện việc chuyển giá.
Bất chấp kết quả kinh doanh của liên doanh Lotte Việt Nam không thuận lợi, Lotte đã
đề nghị tăng vốn điều lệ từ 2 năm trước, nhưng chưa được đối tác Việt Nam đồng thuận.
Tuy nhiên, trước sức ép tăng vốn thêm 10 triệu USD, việc doanh nghiệp tư nhân sản xuất
và thương mại Minh Vân quyết định bán lại 20% cổ phần ngay trong thời điểm này được
xem là phương án khả thi nhất. Lotte được chính thức trở thành nhà đầu tư có 100% vốn
nước ngoài, tức là được hoàn toàn chủ động trong các chiến lược kinh doanh tại thị
trường Việt Nam sau khi đã có bước tiến đáng kể trong thị trường bán lẻ nhờ sự hợp tác
với Minh Vân. Lotte thẳng tiến thâm nhập vào thị trường bán lẻ.
2.2.4 Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất
Động cơ của hành vi chuyển giá, không gì khác, chính là lợi nhuận của hoạt động
kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành
viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi
tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị
điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Chẳng hạn như, công ty B và C
đều là công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh

nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn nên được áp dụng
mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp
hơn giá thị trường giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh
nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của C tăng lên
tương ứng. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp

15
Thời báo kinh tế,

Lotte: Bibica là bàn đạp để thâm nhập thị trường, 2012

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 18

với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B
và phải chịu thuế suất 25%. Như vậy, nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C
được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã giảm đi.
Ví dụ trên cho thấy chuyển giá xuất hiện khi có những điều kiện nhất định. Đó là: Sự
chênh lệch về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia khác nhau; Có quy
định nhiều mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với những đối tượng khác nhau
trong một quốc gia, chẳng hạn như quy định các mức thuế suất ưu đãi thấp hơn thuế suất
phổ thông; Có các quy định về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn.
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của Việt Nam tương đối cao so với
nhiều nước khác (trước đây là 32%, nay giảm xuống còn 25%). Do đó, công ty mẹ tại
nước ngoài đã chi phối giá chuyển giao nguyên liệu, hàng hóa giữa công ty con tại Việt
Nam và các bên liên kết theo hướng chuyển lợi nhuận từ VN về công ty liên kết tại quốc
gia có thuế suất TNDN thấp hơn.
Chẳng hạn, tại Đà Nẵng, trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2009, Công ty TNHH
LesGants Việt Nam có số lỗ lũy kế 20,8 tỉ đồng vì giá bán thấp hơn giá thành sản xuất.

Cụ thể, giá bán cho công ty mẹ thấp hơn 36%-44% so với giá bán cho các công ty ngoài
tập đoàn. Qua kiểm tra, Cục Thuế TP Đà Nẵng đã ấn định lại giá thị trường, kết quả
doanh thu tăng gần 40 tỉ đồng và giảm chi phí chênh lệch giá ngoại tệ hơn 6 tỉ đồng.
16

Tương tự, Công ty TNHH DaiWa Việt Nam (chuyên sản xuất cần câu cá các loại) từ
năm 2007 đến 2009 đã báo lỗ hơn 300 tỉ đồng. Trong quá trình sản xuất, công ty chủ yếu
bán sản phẩm cho các đơn vị nước ngoài trong cùng tập đoàn. Tài sản máy móc thiết bị
đều được nhập từ công ty trong cùng tập đoàn. Tuy trong nước không có công ty nào sản
xuất mặt hàng này nhưng qua thanh tra, Cục Thuế TP Đà Nẵng cũng phát hiện Công ty
DaiWa Đài Loan nhận một số lô hàng của Công ty DaiWa VN giao hàng tay ba cho một
doanh nghiệp Việt Nam đóng tại TP.HCM với giá cao hơn.
2.3 Đánh giá hoạt động chống chuyển giá tại Việt Nam
2.3.1 Những nỗ lực của ngành thuế trong công tác chống chuyển giá ở nước ta.
Hành vi chuyển giá ở Việt Nam xuất hiện cùng với sự gia tăng các doanh nghiệp FDI.
Cách đây khoảng 15 năm nó đã đặt ra cho các nhà quản lý một bài toán phải giải quyết.

16
Pháp luật thành phố HCM, Thuế khổ vì các chiêu chuyển lỗ, 2012

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 19

Động thái đầu tiên đánh dấu sự vào cuộc hóa giải vấn đề chuyển giá chính là sự ra đời
của Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó
là Thông tư 89/1999/TT-BTC, Thông tư 13/2001/TT-BTC và Thông tư 117/2005/TT-
BTC. Các văn bản nói trên đã thể hiện tinh thần cơ bản xử lý vấn đề chuyển giá là xác
định lại giá chuyển giao theo nguyên tắc giá thị trường sòng phẳng. Tuy nhiên, các văn
bản nói trên chỉ dừng lại ở đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp FDI mà chưa áp dụng

đối với các doanh nghiệp trong nước, tức là mới chú trọng vấn đề chống chuyển giá quốc
tế, chứ chưa có giải pháp chống chuyển giá nội địa.
17
Với sự ra đời của Thông tư 66/2010/TT-BTC ngày 22/04/2010, lần đầu tiên ở Việt
Nam một văn bản pháp lý về chống chuyển giá được áp dụng cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp, cả doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác. Thêm vào đó, những hạn
chế, bất cập của Thông tư 117/2005/TT-BTC đã được khắc phục. Về cơ bản, các quy
định và các phương pháp xác định giá thị trường của Thông tư 66/2010/TT-BTC đã phù
hợp với thông lệ quốc tế. Theo Thông tư này, có 5 phương pháp xác định giá thị trường
là: Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập; Phương pháp giá bán lại; Phương pháp giá
vốn cộng lãi; Phương pháp so sánh lợi nhuận; Phương pháp tách lợi nhuận.
Ở một cấp độ pháp lý cao hơn, Điểm e Khoản 1 Điều 37 Luật Quản lý thuế quy định
cơ quan thuế có quyền ấn định thuế khi người nộp thuế “Mua, bán, trao đổi và hạch toán
giá trị hàng hoá, dịch vụ không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường”. Quy
định này không hoàn toàn xử lý vấn đề chuyển giá, song cũng tạo ra căn cứ pháp lý nhất
định để xử lý vấn đề chuyển giá.
Như vậy, có thể thấy, nỗ lực đầu tiên đáng ghi nhận của các cơ quan quản lý nhà nước
thời gian qua là việc đã thiết lập và dần dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động
chống chuyển giá, tạo những cơ sở nhất định cho hoạt động của ngành Thuế trong đấu
tranh chống chuyển giá của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI.
Trên nền tảng pháp lý đó, trong những năm qua, ngành Thuế đã có nhiều cố gắng
trong việc đấu tranh chống chuyển giá, mà trọng tâm là chống chuyển giá đối với các
doanh nghiệp FDI. Một trong những biện pháp quan trọng trong thực tiễn chống chuyển
giá đối với các doanh nghiệp FDI là tập trung thanh tra các doanh nghiệp liên tục kê khai
lỗ kéo dài mà vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Qua thanh tra bước đầu đã phát

17
Ts. Lê Xuân Trường, Chống chuyển giá ở Việt Nam



GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 20

hiện những doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá để tiến hành đấu tranh đảm bảo xác
định lại giá chuyển giao theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, ngành
Thuế đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xác định đúng giá trị giao
dịch, chẳng hạn như phối hợp với các cơ quan chức năng như công an, tài chính; phối
hợp với cơ quan thuế các nước để nắm bắt thông tin về giao dịch kinh tế của các doanh
nghiệp

Với nhận định về dấu hiệu chuyển giá ở các doanh nghiệp này, cơ quan thuế đã thực
hiện hàng loạt các nghiệp vụ thanh tra theo quy định của pháp luật như: khảo sát thực tế;
thu thập thông tin (từ các tổ chức cá nhân là đối tác mua hàng, bán hàng; từ nhân viên đã
từng làm việc tại các doanh nghiệp này; từ các cơ quan nhà nước có liên quan như Hải
quan, Sở Công thương ); tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá
và tiến hành kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp Kết quả kiểm tra tại trụ sở các doanh
nghiệp FDI này đã đi đến kết luận về hành vi chuyển giá của doanh nghiệp và xác định
các doanh nghiệp này có lãi từ năm 2005 hoặc 2006 và phải nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật.
2.3.2 Những khó khăn và bất cập trong công tác chống chuyển giá tại Việt Nam
a. Khó khăn
Xuất phát điểm kinh tế thấp, kéo theo đó là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước lạc hậu không đáp ứng yêu cầu quản lý. Trong thời gian khá dài
trước đây, chúng ta không có điều kiện kinh tế để đầu tư cho các hoạt động hợp tác quốc
tế về thuế, không đủ điều kiện để đầu tư trang bị hệ thống máy tính điện tử hiện đại mà
đây là những điều kiện thiết yếu để thu thập và xử lý thông tin phục vụ hoạt động đấu
tranh chống chuyển giá.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ bên cạnh những cơ hội là những thách
thức đi cùng. Sự gia tăng nhanh chóng các doanh nghiệp FDI, cùng với đó là các hành vi

chuyển giá của các doanh nghiệp này trong bối cảnh chúng ta chưa từng có kinh nghiệm
về hoạt động chống chuyển giá, chúng ta phải vừa học hỏi, vừa áp dụng thực tiễn và rút
kinh nghiệm dần dần. Những bước đầu còn bỡ ngỡ thì không thể đòi hỏi sự tinh thông và
hiệu quả cao ngay được.
Việc thu thập, sàng lọc thông tin trong bối cảnh các giao dịch quốc tế đa dạng,
phức tạp trên phạm vi toàn cầu. Không phải tất cả các cơ quan thuế các nước đều sẵn
sàng hợp tác để cung cấp thông tin, và cũng không phải lúc nào họ cũng có thông tin để

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng Chuyển giá

Nhóm 7 – Lớp TCDN Đêm 4.K21 21

cung cấp và cung cấp kịp thời. Trong khi đó, muốn xác định giá chuyển giao theo các
nguyên tắc chống chuyển giá mà pháp luật quy định thì phải thu thập đầy đủ thông tin,
nếu không có thông tin thì không thể xác định được giá chuyển giao.
Hành vi chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tinh
vi, phức tạp, do vậy thời gian để xử lý giải quyết cho một vụ việc chuyển giá thường bị
kéo dài. Một trong những khó khăn lớn, đó là căn cứ xử lý về ấn định giá vì cơ quan thuế
rất khó xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường (giá thỏa thuận khách quan
giữa các bên không có quan hệ liên kết). Hiện nay, việc xác định quan hệ liên kết rất khó
khăn, sự mua, bán có thể diễn ra qua các khâu trung gian (ngoài các đối tượng liên kết
theo quy định tại Thông tư 66) theo sự chỉ định của nhà đầu tư mà cơ quan quản lý Nhà
nước chưa có văn bản để chế tài. Mặt khác, hàng hóa lại rất đa dạng, giá cả còn tùy thuộc
vào uy tín nhãn hiệu, thị hiếu người tiêu dùng… Do đó, việc quy định cùng mặt hàng
trong việc xác định giá cả là chưa phù hợp, cần phải có tiêu chí xác định cho từng ngành
nghề cụ thể…
Quy định về kê khai thông tin giao dịch liên kết chưa thực sự giảm thiểu gánh
nặng thực hiện nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp có hành vi chuyển
giá thông qua các giao dịch liên kết có giá trị nhỏ sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến số thu
ngân sách nhà nước và lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định

hiện hành của Việt Nam, doanh nghiệp vẫn phải xác định giá thị trường và kê khai đối
với giao dịch liên kết có giá trị nhỏ trong khi chi phí và thời gian xác định giá thị trường,
kê khai với cơ quan thuế là đáng kể và không thấp hơn đối với việc xác định giá thị
trường và kê khai giao dịch lớn.
b. Bất cập trong quản lý
Cuộc “đấu tranh” chống hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp trong thời gian
qua tuy đã đạt những kết quả nhất định nhưng còn chưa đáp ứng yêu cầu đề ra ngoài
nguyên nhân đến từ những khó khăn khách quan, còn có từ những vướng mắc, bất cập
trong quản lý. Cụ thể là:
Thứ nhất, hành lang pháp lý về chống chuyển giá chưa hoàn thiện. Xét ở cấp độ văn
bản luật thì quy định về chuyển giá và chống chuyển giá chưa thực sự đầy đủ và rõ ràng.
Như đã phân tích trên, mới chỉ có Điểm e Khoản 1 Điều 37 Luật Quản lý thuế quy định
một nội dung có liên quan có thể được vận dụng làm cơ sở để đấu tranh chống chuyển
giá. Ngoài ra, các quy định về định giá chuyển giao chỉ mới dừng ở cấp thông tư nên hiệu

×