Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

phương pháp sử dụng thí nghiệm thực hành khi nghiên cứu tài liệu mới’’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.27 KB, 11 trang )

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH
KHI NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU MỚI.
Phần I: Mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
Môn Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm có vai trò quan trọng trong
mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Môn hoá học ở trường Trung học
cơ sở (THCS) cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, phổ thông, thiết
thực; là cơ sở, nền tảng ban đầu để các em khám phá thế giới vật chất tự nhiên. Ở
trường THCS môn hoá học là một môn học mới và rất khó đối với học sinh (HS):
nhiều kiến thức rất trừu tượng đòi hỏi các em phải tư duy tưởng tượng; tiết thực hành
đã được coi trọng đòi hỏi việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh; tăng yêu cầu về kiểm
tra, đánh giá về năng lực thực hành vận dụng tổng hợp kiến thức và thực nghiệm
khoa học.
Thí nghiệm thực hành là hình thức thí nghiệm do học sinh tự làm khi nghiên
cứu phát hiện kiến thức mới, hoàn thiện kiến thức nhằm minh họa, ôn tập, củng cố,
vận dụng kiến thức đã học và rèn luyện kĩ năng hoá học. Đây là dạng thí nghiệm mà
học sinh tập triển khai nghiên cứu các quá trình hóa học như: nghiên cứu tính chất
các chất, điều chế các chất, nhận biết các chất, giải bài tập thực nghiệm. Đây là
phương pháp học tập đặc thù của môn Hóa học có tác dụng giáo dục, rèn luyện học
sinh một cách toàn diện và có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ trí dục,
đức dục.
Thí nghiệm thực hành giúp học sinh dễ hiểu bài, phát huy được tư duy, sáng
tạo, rèn kĩ năng thực hành thí nghiệm.
Thí nghiệm thực hành giúp học sinh khắc sâu kiến thức và thiết lập được lòng
tin vào khoa học , hình thành các kĩ năng cơ bản và nâng cao hứng thú học tập bộ
môn.
Trong quá trình thí nghiệm, học sinh phải phát huy tối đa các hoạt động của
mọi giác quan và hoạt động tư duy.
Thí nghiệm thực hành là phương pháp học tập có ưu thế nhất trong việc rèn
luyện các kĩ năng hoá học cho học sinh nhất là các kĩ năng, thao tác sử dụng hóa chất,
dụng cụ thí nghiệm, kĩ năng quan sát, mô tả hiện tượng thí nghiệm và kĩ năng vận


dụng kiến thức hóa học.
Thông qua bài giảng có thí nghiệm thực hành mà giáo viên hình thành ở học
sinh phương pháp nghiên cứu hóa học như phát hiện, đề xuất vấn đề nghiên cứu, dự
đoán lí thuyết, lựa chọn dụng cụ hóa chất và xây dựng phương án tiến hành thí
nghiệm, quan sát trạng thái mầu sắc các chất tham gia phản ứng, tiến hành các thao
tác thí nghiệm và quan sát mô tả hiện tượng thí nghiệm, đối chiếu với dự đoán và giải
thích hiện tượng, nhận xét và rút ra các kết luận. Thí nghiệm thực hành giúp học sinh
phát triển năng lực thực tiễn, tư duy sáng tạo, nhớ lâu và khắc sâu kiến thức. Các
phương pháp này cần được hình thành dần qua các thí nghiệm thực hành cụ thể trong
chương trình hóa học phổ thông nhất là hóa học THCS học sinh mới được học và
nghiên cứu hóa học nên giáo viên cần lưu ý thực hiện trong hoạt động hướng dẫn và
tổ chức của mình.
Thông qua các bài có thí nghiệm thực hành mà rèn luyện cho học sinh những
đức tính của người nghiên cứu khoa học như phong cách cách làm việc nghiêm túc,
bố trí chỗ làm việc ngăn nắp, gọn gàng và khoa học, cẩn thận và thành thạo trong
thao tác, khách quan trong mô tả hiện tượng thí nghiệm, các kết luận được đưa ra
phải dựa trên những cơ sở lí thuyết chặt chẽ.
Như vậy các bài thực hành thí nghiệm có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu đào tạo phổ thông cơ sở và phổ thông trung học nhằm hình thành và
phát triển năng lực hành động, năng lực nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy tích
cực sáng tạo cho học sinh.
Xuất phát từ các lí do trên tôi đã và đang thực hiện giảng dạy bài giảng có thí
nghiệm thực hành một cách thành công đảm bảo tính khoa học. Nay tôi mạnh dạn
trình bày kinh nghiệm của tôi qua đề tài “Phương pháp sử dụng thí nghiệm thực hành
khi nghiên cứu tài liệu mới’’ với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ vào sự nghiệp dạy
và học môn hóa ở trung học cơ sở.
II. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
1. Mục đích
- Góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả dạy học môn hoá học, phù
hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay.

- Phát triển năng lực tư duy, sáng tạo, tính kiên nhẫn; rèn luyện những kĩ năng
thành thạo thí nghiệm thực hành, làm việc có khoa học.
- Trong một giờ dạy có thí nghiệm thực hành, giáo viên thiết kế các hoạt động
học tập theo mục tiêu của mỗi bài cụ thể mà học sinh cần lĩnh hội được theo cá nhân
hay theo nhóm.
- Thí nghiệm thực hành hóa học trên lớp sẽ phát huy được quá trình tự nhận
thức, tự khám phá tìm tòi các kiến thức hoá học một cách chủ động và tích cực, giúp
học sinh có cái nhìn hoàn thiện hơn về thế giới quan khoa học.
2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu hệ thống các kĩ năng thực hành thí nghiệm ở cấp THCS.
- Nghiên cứu nội dung và cấu trúc của chương trình hoá học ở cấp THCS.
- Xây dựng cấu trúc phương pháp thực hành thí nghiệm trong một giờ học hoặc
một thí nghiệm hoá học cụ thể.
- Sử dụng các thí nghiệm của một bài thực hành cụ thể.
III. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các thí nghiệm, các bài thực hành trong chương trình hoá học lớp 8
và lớp 9.
IV. Giả thuyết khoa học
Việc nâng cao chất lượng dạy học môn hoá học sẽ đạt được khi chúng ta kết
hợp các phương pháp dạy học với phương pháp thực hành và sử dụng hợp lí các thí
nghiệm thực hành trong nghiên cứu tài liệu mới cũng như củng cố hoàn thiện kiến
thức.
V. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích lí thuyết: đọc tài liệu, tìm hiểu các thí nghiệm hoá học
trong chương trình hoá học THCS.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát kĩ năng thực hành, thăm dò vấn
đề học tập của học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp sử lí kết quả bằng thống kê toán học.
Phần II. Nội dung

I. Cơ sở lí luận của đề tài
1. Phân loại phương pháp thực hành
Tuỳ theo mục đích và nhiệm vụ dạy học mà phương pháp thực hành được phân
chia thành: phương pháp thực hành khi dạy học nghiên cứu tài liệu mới và phương
pháp thực hành khi củng cố và hoàn thiện kiến thức.
2. Cấu trúc của phương pháp thực hành của học sinh:
Sử dụng phương pháp thực hành là một công cụ hữu hiệu trong dạy học hoá
học khi nghiên cứu tài liệu mới cũng như trong việc củng cố và hoàn thiện kiến thức
hoá học cho học sinh.
Cấu trúc của phương pháp thực hành trong nghiên cứu tài liệu mới gồm 4 giai
đoạn:
a) Giai đoạn 1: Định hướng được chia thành 2 bước:
- Bước 1: Đặt vấn đề: Giáo viên thông báo vấn đề cần nghiên cứu, mục đích
chung của việc nghiên cứu để hình thành động cơ ban đầu.
- Bước 2: Phát biểu vấn đề
+ Nêu lên những câu hỏi cụ thể của vấn đề bộ phận cần giải quyết.
+ Kích thích nhu cầu đối với kiến thức và gây hứng thú nhận thức cho học
sinh.
b) Giai đoạn 2: Lập kế hoạch
- Bước 3: Đề xuất giả thuyết, dự đoán những phương án giải quyết.
- Bước 4: Lập kế hoạch giải tương ứng với giả thuyết.
c) Giai đoạn 3: gồm 3 bước
- Bước 5: Thực hiện kế hoạch giải
- Bước 6: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch
+ Nếu giả thuyết đúng thì chuyển sang bước 7.
+ Nếu giả thuyết sai thì trở lại bước 3.
- Bước 7: Phát biểu kết luận về cách giải.
d) Giai đoạn 4: Kiểm tra và đánh giá
- Bước 8: Kiểm nghiệm và kết thúc.
Cấu trúc của phương pháp thực hành khi nghiên cứu tài liệu mới có thể được

thể hiện trên sơ đồ sau:
1. Đặt vấn đề
2. Phát biểu vấn đề
3. Đề xuất giả thuyết
4. Lập kế hoạch giải theo giả thuyết
5. Thực hiện kế hoạch giải
6. Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải
Xác nhận giả thuyết Phủ nhận giả thuyết
7.Kết luận về lời giải
Kiểm nghiệm và kết thúc Đề xuất vấn đề mới
3. Tác dụng của phương pháp thực hành trong dạy học hoá học:
- Trong giờ học thực hành hóa học học sinh có điều kiện để tự mình thực hiện các
thí nghiệm hóa học và quan sát đầy đủ các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm nên
học sinh sẽ cảm nhận được vai trò của mình như một người nghiên cứu, có niềm vui
của sự thành công và nỗi trăn trở của những lần thất bại. Từ các hiện tượng hóa học
quan sát được trong học sinh nảy sinh các câu hỏi tại sao và nhu cầu giải thích để tìm
ra mối liên hệ giữa các hiện tượng hóa học với bản chất các quá trình hóa học trong
thí nghiệm, giữa nguyên nhân và kết quả. Sự hướng dẫn của giáo viên, những ý kiến
thảo luận với bạn bè sẽ giúp các em giải quyết được các mâu thuẫn nhận thức nảy
sinh trong quá trình thí nghiệm, nắm vững kiến thức và cả phương pháp vận dụng
chúng trong việc giải quyết vấn đề đồng thời còn có được niềm vui của người nghiên
cứu.
- Trong giờ thực hành học sinh phải thực hiện các thao tác thí nghiệm, quan sát,
mô tả đầy đủ các hiện tượng hóa học đã xảy ra trong quá trìng thí nghiệm đồng thời
đòi hỏi học sinh phải có hoạt động tư duy ở mức độ cao để hiểu được ý nghĩa các
thao tác trong thí nghiệm, dự đoán các hiện tượng sẽ xảy ra theo lí thuyết, đối chiếu
kết quả thu được với điều dự đoán, vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng
thí nghiệm và rút ra những nhận xét về kiến thức, về kĩ năng tiến hành thí nghiệm .
Cũng từ các hoạt động thực hành, thí nghiệm mà các ý tưởng mới, sáng tạo của học
sinh được phát triển tốt hơn.

II. Thực trạng của việc sử dụng phương pháp thực hành trong dạy học hoá
học ở trường THCS
1. Thuận lợi
Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm, là khoa học nghiên cứu về chất và sự
biến đổi các chất. Chương trình hoá học Việt Nam tương đối hoàn chỉnh, cấu trúc
chương trình được xây dựng chủ yếu theo nguyên tắc đường thẳng; các kiến thức,
khái niệm được hình thành một lần sau đó được phát triển và bổ sung qua các sự kiện
khác thuận lợi cho việc phát triển năng lực nhận thức và khả năng tư duy của học
sinh. Trong cấu trúc chương trình đã chú trọng đến hệ thống các thí nghiệm ở mỗi
bài, mỗi chương làm tăng tính tò mò ham hiểu biết của các em. Những hiện tượng
hoá học khi xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của các em đều có thể vận dụng các
kiến thức đã học và sẽ học để giải thích.
Môn hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên, với trính chính xác cao của tri thức,
tính hợp lí của kiến thức, tính suy luận logic chặt chẽ càng gây tính tò mò và hứng
thú học tập của các em.
Thông qua hoạt động thí nghiệm thực hành theo nhóm hoặc thực hành cá nhân,
việc quan sát hiện tượng thí nghiệm để tìm ra kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức
có tác dụng củng cố niềm tin khoa học và kích thích lòng say mê môn học của các
em.

2. Khó khăn
Căn cứ vào quan điểm đổi mới phương pháp dạy học, có thể thấy một số hạn chế
về vấn đề sử dụng phương pháp thực hành trong dạy học hoá học hiện nay là:
- Hiện nay ở tất cả các trường đã được trang bị đầy đủ dụng cụ và hóa chất
xong chúng ta phải sử dụng dụng cụ hóa chất ấy như thế nào cho có hiệu quả giáo
dục tri thức, năng lực hoạt động cho học sinh. Qua thực tế điều tra của tôi thấy việc
giảng dạy bài thực hành còn chưa được xem trọng nên thường được tiến hành qua
loa, không cẩn thận, làm cho giờ học chưa đạt hiệu quả theo mục tiêu của môn học,
mục tiêu của giáo dục đề ra. Do vậy nhiều học sinh chưa có ý thức học tập giờ thực
hành nghiêm túc.

- Các hoạt động trên lớp chủ yếu do giáo viên thực hiện: Giáo viên làm thí
nghiệm, mục đích của thí nghiệm chủ yếu theo hướng chứng minh cho lời giảng mà
chưa coi nguồn kiến thức để học sinh hoạt động khai thác.
- Hoá học là khoa học thực nghiệm gắn liền với thực hành, do đó việc truyền thụ
kiến thức hoá học chưa đủ mà quan trọng hơn là phải giúp học sinh nắm bắt được kĩ
năng thực hành, vận dụng vào đời sống thực tiễn trong khi thiết bị thí nghiệm ở các
trường còn thiếu, không đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của bài giảng.
- Điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, số giờ dành cho giáo viên bộ môn thực
nghiệm không được giảm, không có cán bộ chuyên trách phòng thí nghiệm.
- Việc kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh chủ yếu theo phương pháp tự luận
về tính toán, chưa thực sự gắn liền với kĩ năng thực hành thí nghiệm.
III. Nội Dung: Sử dụng phương pháp thực hành để dạy học phần tính chất
khử của Hiđro và khái niệm sự khử.
1. Những yêu cầu sư phạm cần đảm bảo khi tiến hành bài dạy có thí nghiệm thực
hành.
Khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sư phạm sau:
Học sinh phải ý thức được mục đích của thí nghiệm thực hành trong bài học và
hiểu rõ các điều kiện của thí nghiệm. Với yêu cầu này giáo viên không nên thông báo
sẵn mà tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm hiểu mục đích thí nghiệm , đề xuất cách
tiến hành thí nghiệm, chọn dụng cụ, hóa chất cho thí nghiệm và giáo viên nhận xét bổ
sung các ý kiến của học sinh nêu ra. Học sinh sẽ được thực hiện một cách độc lập tất
cả các kĩ năng này thông qua việc giải bài tập thực nghiệm (dạng nhận biết các chất)
giúp đỡ của giáo viên.
Việc tiến hành thí nghiệm, quan sát và mô tả diễn biến, hiện tượng thí nghiệm đều
phải do học sinh tự lực tiến hành, giáo viên chỉ tổ chức, giúp đỡ ( khi cần thiết), điều
chỉnh để làm chính xác các hiến thức, kĩ năng của học sinh, không làm thay học sinh.
Sau mỗi thí nghiệm học sinh phải rút ra được những nhận xét, kết luận về bản
chất của các hiện tượng quan sát được thông qua việc giải thích thiết lập mối liên hệ
nhân quả giữa hiện tượng thí nghiệm với kiến thức.
Trong thiết kế, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cần xác định các thí

nghiệm thực hành là nguồn kiến thức để học sinh tiến hành các hoạt động nghiên cứu
khoa học một cách độc lập và phối hợp trong nhóm nhằm đạt được mục tiêu của bài
học. Giáo viên tổ chức cho học sinh trực tiếp tác động vào đối tượng nghiên cứu, chủ
động trong các hoạt động lựa chọn, lắp ráp dụng cụ thí nghiệm, đề xuất cải tiến dụng
cụ thí nghiệm, rút kinh nghiệm về thao tác, cách tiến hành để đảm bảo cho thí nghiệm
thành công, an toàn.
2. Chuẩn bị cho bài học có thí nghiệm thực hành .
Kết quả của giờ thực hành hóa học phụ thuộc chủ yếu vào việc chuẩn bị của giáo
viên vì vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo cho giờ học . Hoạt động chuẩn bị cho bài
thực hành bao gồm :
Xác định rõ mục tiêu của tiết học có thí nghiệm thực hành.
Tiến hành trước tất cả các thí nghiệm có trong bài học. Giáo viên căn cứ vào nội
dung bài thí nghiệm thực hành, tiến hành trước các thí nghiệm để xác định những
hướng dẫn cụ thể, chính xác, phù hợp với các điều kiện thực tế về thiết bị, hóa chất
trong phòng thí nghiệm của nhà trường. Khi tiến hành các thí nghiệm cần chú ý đến
các yếu tố đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường, sự thành công của thí nghiệm và cả
các nguyên nhân dẫn đến không thành công.
Chuẩn bị nội dung hướng dẫn tiến hành các thí nghiệm thực hành trong bài học
và thể hiện trên bảng phụ hoặc máy chiếu. Nội dung hướng dẫn cần ngắn gọn, rõ các
thao tác, các bước tiến hành thí nghiệm, lắp ráp dụng cụ, thứ tự lấy hóa chất hoặc các
hình vẽ mô tả dụng cụ.
Dự kiến hình thức tổ chức hoạt động thí nghiệm thực hành và chuẩn bị dụng cụ
hóa chất cần dùng . Giáo viên cần dự kiến sự phân chia nhóm học tập trên cơ sở số
lượng học sinh trong lớp học và thực tế thiết bị của nhà trường , chuẩn bị dụng cụ hóa
chất cho các nhóm đồng thời dự kiến cả những hoạt động học tập của học sinh trong
giờ có thí nghiệm thực hành và thứ tự các hoạt động đó .
Thiết kế kế hoạch của bài học có thí nghiệm thực hành. Khi thiết kế kế hoạch bài
học có thí nghiệm thực hành cần chú ý đến các hoạt động cơ bản trong giờ học và
thực hành thí nghiệm như :
- Giáo viên nêu mục đích giờ học và thí nghiệm thực hành, phân chia nhóm và

các dụng cụ hóa chất cần thiết cho các thí nghiệm thực hành.
- Tổ chức cho học sinh ôn tập các kiến thức có liên quan và trình bày các cách
tiến hành thí nghiệm, dự đoán hiện tượng thí nghiệm, giáo viên chỉnh lí, bổ sung
những chú ý trong thí nghiệm .
- Tổ chức các nhóm tiến hành thí nghiệm , quan sát , mô tả hiện tượng thí
nghiệm , ghi chép, giải thích hiện tượng.
- Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả hoạt động của nhóm .
- Giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả giờ học và nhấn mạnh các kết luận, nhận
xét được rút ra từ các thí nghiệm.
3. Nội dung
Sử dụng phương pháp thực hành khi nghiên cứu tính khử của Hiđro và hình thành
khái niệm sự khử.
3.1 . Mục tiêu của thí nghiệm thực hành
- Thông qua thí nghiệm, học sinh phát hiện, tìm tòi kiến thức về tính khử của
Hiđro.
- Rèn luyện và củng cố kĩ năng tiến hành thí nghiệm, quan sát, giải thích, nhận
xét hiện tượng thí nghiệm.
- Thông qua thí nghiệm giúp học sinh hình thành khái niệm sự khử.
- Rèn luyện ý thức cẩn thận, kiên trì trong học tập và thực hành hóa học.
3.2. Chuẩn bị
- Giáo viên và 4 HS trợ giúp chuẩn bị dụng cụ hóa chất cho 4 nhóm học sinh làm
thí nghiệm. Mỗi nhóm gồm:
+ Dụng cụ:1 đèn cồn, 1giá thí nghiệm, 1 ống nghiệm chịu nhiệt thủng hai đầu, 1
nút cao su có ống dẫn khí, bông, kẹp gỗ, muỗng thuỷ tinh, bình kíp.
+ Hoá chất: Dung dich HCl, Zn, CuO bột, Fe
2
O
3
.
- Giáo viên: Chuẩn bị một số phiếu học tập về các bước tiến hành thí nghiệm cho

các nhóm HS
- Học sinh: Đọc trước sách giáo khoa về tính chất hoá học của Hiđro.
3.3 . Thiết kế các hoạt động học tập
Hoạt động 1: Hoạt động khởi động.
- Giáo viên: nêu mục tiêu giờ của bài học, phân chia các nhóm học tập (mỗi nhóm
4 – 6 học sinh) và yêu cầu học sinh thực hiện giờ học nghiêm túc, tuân thủ các nội
quy phòng thí nghiệm, đảm bảo tuyệt đối an toàn, tự giác làm việc cá nhân và trao
đổi phối hợp trong nhóm.
- Học sinh: Nghe, hiểu mục đích các yêu cầu của giờ học và nhận các nhóm học
của mình .
Hoạt động 2: Học sinh làm thí nghiệm. Tác dụng của Hiđro với Đồng (II) oxit.
* Bước 1: Đặt vấn đề: Chúng ta đã nghiên cứu phản ứng của Hiđro với đơn chất
Oxi. Vậy Hiđro có phản ứng với Oxi trong hợp chất của kim loại không?
* Bước 2: Phát biểu vấn đề: Nghiên cứu cụ thể tính chất này của Hiđro bằng cách
chúng ta cho H
2
tác dụng với CuO.
* Bước 3: Đề xuất giả thuyết:
- Giả thuyết 1: Có thể H
2
hoá hợp với CuO để tạo ra một hợp chất.
- Giả thuyết 2: Có thể H
2
đã đẩy Cu ra khỏi oxit và kết hợp với Oxi.
- Giả thuyết 3: Có thể H
2
kết hợp với Cu của CuO.
* Bước 4: Lập kế hoạch để giải theo giả thuyết:
Nếu dựa theo các giả thuyết trên ta thu được các chất nào trong phản ứng H
2

tác
dụng với CuO và cách nhận biết các chất đó?
- Giả thuyết 1: Sẽ thu được một hợp chất có 3 nguyên tố: H, Cu, O.
- Giả thuyết 2: Thu được Cu (màu đỏ), hơi nước.
- Giả thuyết 3: Thu được O
2
(làm than hồng bùng cháy), hợp chất của Cu với
hiđro.
* Bước 5: Thực hiện kế hoạch giải: HS mô tả dụng cụ, hoá chất, cách tiến hành,
quan sát để nhận xét hiện tượng.
GV yêu cầu HS nhận xét hiện tượng:
- CuO màu đen chuyển thành Cu màu đỏ.
- Có hơi nước ngưng tụ, khi đưa tàn đóm lại gần, tàn đóm tắt.
* Bước 6: Đánh giá việc thực hiện
Như vậy giả thuyết 2 đúng: H
2
+ CuO → Cu + H
2
O
* Bước 7: Kết luận về lời giải: Ở nhiệt độ thích hợp H
2
không chỉ phản ứng với
đơn chất O
2
mà còn hoá hợp với Oxi của hợp chất của nó.
* Bước 8: Kiểm nghiệm: Thay CuO bằng Fe
2
O
3
hoặc PbO, HgO… Cho HS quan

sát, nhận xét và viết phương trình phản ứng. Gợi ý, hướng dẫn HS rút ra kết luận về
khả năng giải phóng ra kim loại trong phản ứng với H
2
để hình thành khái niệm sự
khử.
III. Thực nghiệm sư phạm
1. Sử dụng phương pháp thực hành khi nghiên cứu tài liệu mới
Vấn đề sử dụng phương pháp thực hành nói chung còn nhiều hạn chế. Ngoài hạn
chế về cơ sở vật chất, thời gian thì việc vận dụng phương pháp thực hành trong các
bài giảng như thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động, phát triển tư duy, sáng tạo
cho HS là vấn đề rất quan trọng đặt ra đòi hỏi các nhà sư phạm phải tìm ra hướng giải
quyết và vận dụng nó một cách phù hợp. Tuy nhiên để phát huy tác dụng của phương
pháp thực hành, trong quá trình dạy học cần sử dụng phương pháp này như một công
cụ linh hoạt khi nghiên cứu tài liệu mới hoặc khi tái hiện và củng cố lại kiến thức,
làm các bài tập nhận biết.
Sử dụng phương pháp thực hành khi nghiên cứu tài liệu mới là những thí nghiệm
thực hành để nghiên cứu tính chất hoá học của chất, kiểm nghiệm giả thuyết, kiểm
chứng dự đoán, tạo tình huống có vấn đề, hình thành một số khái niệm.
1.1. Sử dụng thí nghiệm hoá học để hình thành một số khái niệm.
Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm. Vì vậy, việc sử dụng thí nghiệm để
hình thành khái niệm là một việc đương nhiên. Song thực tế tình trạng dạy chay là
phổ biến. Để hình thành các khái niệm hiện tượng hoá học, phản ứng hoá học, sự bảo
toàn khối lượng các chất, phương trình hoá học, các phản ứng hoá học cụ thể: Hoá
hợp, thế, phân huỷ, oxi hoá- khử…tính chất hoá học của các chất: oxi, hiđro thực sự
có hiệu quả nếu giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh tự làm, thực sự nhìn thấy phản
ứng hoá học xảy ra và thực sự chứng kiến sự biến đổi chất này thành chất khác.
Thí dụ: Để hình thành khái niệm sự khử, giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí
nghiệm, quan sát và nhận xét hiện tượng thí nghiệm H
2
tác dụng với CuO. Sau đó cho

học sinh làm tiếp thí nghiệm H
2
tác dụng với Fe
2
O
3
, từ đó dẫn dắt HS đến kết luận về
khả năng giải phóng kim loại trong phản ứng với H
2
để hình thành khái niệm sự khử.
1.2. Sử dụng thí nghiệm hoá học để kiểm nghiệm giả thuyết, kiểm chứng dự đoán.
Trong quá trình dạy học, sử dụng thí nghiệm hoá học để kiểm chứng giả thuyết là
đặt HS vào tình huống phải dự đoán giả thuyết và đề ra phương hướng để giải quyết,
làm thí nghiệm kiểm chứng để xác đinh giả thuyết đúng. Như vậy, sử dụng thí
nghiệm để kiểm chứng giả thuyết có tác dụng rất lớn trong việc phát triển tư duy sáng
tạo của học sinh.
Thí dụ: Khi nghiên cứu về tính chất hoá học của H
2
, giáo viên nêu vấn đề: H
2
tác
dụng với đơn chất O
2
. Vậy H
2
có tác dụng với CuO không? Học sinh sẽ phải dự đoán
2 giả thuyết:
Giả thuyết 1: H kết hợp với Cu và giải phóng ra O
2
.

Giả thuyết 2: H kết hợp với Oxi và giải phóng ra Cu.
Học sinh làm thí nghiệm kiểm chứng để xác đinh giả thuyết đúng.
1.3. Sử dụng thí nghiệm hoá học để tạo tình huống có vấn đề.
Nhìn chung, việc sử dụng thí nghiệm để tạo tình huống có vấn đề trong dạy học
chưa được chú trọng do các nguyên nhân về thời gian tiết học, điều kiện phòng thí
nghiệm… Tình huống có vần đề là tình huống mà giáo viên đặt ra một mâu thuẫn nào
đó cho học sinh. Từ đó kích thích các em có nhu cầu phải giải quyết mâu thuẫn ấy
bằng con đường tri thức đã có hoặc thông qua việc làm thí nghiệm. Tạo tình huống có
vấn đề trong dạy học sẽ giúp cho việc củng cố, khắc sâu kiến thức, mở rộng kiến
thức, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
2. Kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn hoá học ở trường THCS. Qua thực tế giảng
dạy theo phương pháp trên, tôi nhận thấy học sinh tích cực học tập hơn, yêu môn hóa
học hơn, say sưa tìm tòi và sáng tạo trong khi làm thí nghiệm, thao tác thí nghiệm
chính xác, nhanh nhẹn hơn, kết quả học tập đã có nhiều triển biến tích cực hơn.
Qua các năm giảng dạy, tôi thấy chất lượng HS có tiến bộ rất nhiều, cụ thể năm
học 2007 -2008, tôi đã khảo sát chất lượng học sinh khối 8, 9 ở trường THCS Yên
Nhân- Yên Mô- Ninh Bình thu được kết quả như sau:
1. Chất lượng đầu năm
Loại
Khối
Giỏi
(%)
Khá
(%)
Trung
bình
(%)
Yếu
(%)

kém
(%)
Trung
bình trở
lên (%)
8 4.7 22.3 40.3 30.7 2 67.3
9 5.1 21.2 40.2 30.3 3.2 66.5
2. Chất lượng cuối năm
Loại
Khối
Giỏi
(%)
Khá
(%)
Trung
bình
(%)
Yếu
(%)
kém
(%)
Trung
bình trở
lên (%)
8 5.2 22.7 45.3 26.3 0.5 73.2
9 5.7 22.8 48.1 23 0.4 88.7
Nhận xét: Trong quá trình dạy học khi áp dụng phương pháp trên vào giảng dạy
tôi nhận thấy ở HS đã có sự chuyển biến rất rõ rệt, các em có ý thức và lòng say mê
hơn đối với việc học môn Hoá học. Trong các năm học gần đây, kết quả học tập của
các em có nhiều tiến bộ hơn, tỉ lệ HS khá, giỏi đã được nâng lên, tỉ lệ yếu, kém đã

giảm.
3. Phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm
a. Ưu điểm: Đa số HS biết sử dụng các dụng cụ thí nghiệm, biết làm thí nghiệm,
biết vận dụng kiến thức vào việc giải các bài tập thực nghiệm.
b. Tồn tại: Phần lớn các em HS lớp 8 và lớp 9 hiếu động, tò mò thích tự mình
khám phá nên đôi khi gây khó khăn cho GV khi hướng dẫn làm các thí nghiệm.
c. Phương hướng khắc phục
- Cơ sở vật chất phòng bộ môn phục vụ cho công tác giảng dạy môn hoá cần phải
được nâng cấp. Trang thiết bị cần phải đầy đủ và đồng bộ.
- Ngay bài thực hành đầu tiên của môn hoá học lớp 8, GV cần trang bị cho HS
những kĩ năng sử dụng các thiết bị thí nghiệm cơ bản nhất
- Mỗi GV giảng dạy môn hoá học cần tích cực hơn nữa trong việc nâng cao
phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đặc biệt áp
dụng hợp lí phương pháp thực hành vào công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả giảng dạy.
Phần III. KẾT LUẬN
Trong bài giảng có thí nghiệm thực hành hóa học, học sinh có điều kiện để tự
mình thực hiện các thí nghiệm hóa học và quan sát đầy đủ các hiện tượng xảy ra
trong thí nghiệm; nên học sinh sẽ cảm nhận được vai trò của mình như một người
nghiên cứu, có niềm vui của sự thành công và nỗi trăn trở của những lần thất bại. Từ
đó sẽ tạo lập cho các em một phẩm chất tốt, biết vươn lên trong cuộc sống.
Từ các hiện tượng hóa học quan sát được, trong học sinh nảy sinh các câu hỏi tại
sao và nhu cầu giải thích để tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng hóa học với bản
chất các quá trình hóa học trong thí nghiệm, giữa nguyên nhân và kết quả. Sự hướng
dẫn của giáo viên, những ý kiến thảo luận với bạn bè sẽ giúp các em giải quyết được
các mâu thuẫn nhận thức nảy sinh trong quá trình thí nghiệm, nắm vững kiến thức và
cả phương pháp vận dụng chúng trong việc giải quyết vấn đề đồng thời còn có được
niềm vui của người nghiên cứu.
Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác, sử dụng “phương pháp sử dụng
thí nghiệm thực hành khi nghiên cứu tài liệu mới” là một biện pháp tích cực nhằm

phát triển tư duy, suy luận, sáng tạo của HS. Giúp HS hiểu một cách sâu sắc, nhớ lâu
từ đó mở rộng, nâng cao kiến thức và vận dụng kiến thức vào đời sống thực tiễn.
Thông qua các thí nghiệm hoá học, rèn luyện cho các em tính cẩn thận, làm việc khoa
học, lòng say mê nghiên cứu và yêu thích môn học
Với những trăn trở của người đang trực tiếp giảng dạy môn hoá học, tôi viết đề tài
này với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình để nâng cao chất lượng dạy học
môn Hoá học. Thời gian trực tiếp giảng dạy môn Hoá học chưa nhiều, thời gian
nghiên cứu đề tài còn hạn chế, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vậy tôi rất mong được
sự đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Yên Nhân, ngày tháng năm 2009
Người thực hiện


Lê Thị Huế

×