Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng bài học Chiếc Thuyền Ngoài Xa ở lớp 12 THPT theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.59 KB, 103 trang )



i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



HOÀNG THỊ PHƯƠNG THÙY


BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÀI HỌC

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
Ở LỚP 12 THPT THEO
HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH

Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Văn – Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Huy Quát




THÁI NGUYÊN, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1


ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Nguyễn Huy Quát. Các số liệu, kết quả nghiên cứu chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào.
Tháng 8 năm 2012
Tác giả
Hoàng Thị Phương Thùy

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2


iii

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

GV : Giáo viên
GS : Giáo sư
HS : Học sinh
NXBĐHSP : Nhà xuất bản đại học sư phạm
NXBGD : Nhà xuất bản giáo dục
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
SL : Số lượng
TB : Trung bình
THPT : Trung học phổ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3


iv

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ii

Danh mục những từ viết tắt iii

Mục lục iv


MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

1.1. Đổi mới phương pháp dạy học xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển kinh
tế - xã hội 1

1.2. Đề tài được lựa chọn từ thực tiễn dạy học bài “Chiếc thuyền ngoài xa”
theo yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học 3

2. Lịch sử vấn đề 4

3. Mục đích nghiên cứu 6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 6

5. Phương pháp nghiên cứu 6

6. Nhiệm vụ nghiên cứu 7

7. Kết cấu của luận văn 7

PHẦN NỘI DUNG 8

Chương 1: TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8

1.1. Tiền đề lý luận 8

1.1.1. Khái niệm về phương pháp dạy học và phương pháp dạy học tích cực 8


1.1.2. Một số đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực 13

1.1.3. Phương pháp tích cực trong dạy học văn 17

1.2. Tiền đề thực tiễn 27

1.2.1. Chương trình Sách giáo khoa ở trường phổ thông đối với việc đổi mới phương
pháp dạy học Văn theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh 27

1.2.2. Trình độ, năng lực của giáo viên với việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực 31

1.2.3. Nhiều diễn đàn, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học được tổ
chức, tạo nên phong trào thi đua sôi nổi trong nhà trường 33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4


v

1.2.4. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” với việc sử dụng các biện pháp
tích cực hóa hotạt động học tập của học sinh 36

Chương 2: THỰC TẾ DẠY HỌC BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BÀI HỌC NÀY 38

2.1. Khảo sát tình hình dạy và học bài “Chiếc thuyền ngoài xa” của giáo viên
và học sinh lớp 12 THPT 38


2.1.1. Khảo sát về tình hình dạy học bài “Chiếc thuyền ngoài xa” của giáo viên 38
2.1.2. Khảo sát tình hình chuẩn bị, khả năng tự học và tính tích cực hoạt động
của học sinh đối với học bài “Chiếc thuyền ngoài xa” 47

2.1.3. Nhận xét kết quả khảo sát 50

2.2. Đề xuất một số biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
vào bài “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12 THPT 58

2.2.1. Chú trọng rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh 58

2.1.2. Tổ chức cho học sinh thảo luận theo hình thức hoạt động nhóm 60
2.2.3. Kết hợp một số phương pháp, biện pháp: gợi mở, nêu vấn đề, giảng
bình khi dạy học bài "Chiếc thuyền ngoài xa" 60
2.2.4. Sử dụng phương pháp nghiên cứu, từng bước giúp học sinh làm việc tự
lập, tích cực và có khoa học 66

2.2.5. Sử dụng phương tiện nghe nhìn vào dạy học bài “Chiếc thuyền ngoài xa” 67

Chương 3: THIẾT KẾ THỂ NGHIỆM TRUYỆN NGẮN “CHIẾC
THUYỀN NGOÀI XA” 70

3.1. Mục đích thể nghiệm 70

3.2. Nội dung thể nghiệm 70

3.3. Đối tượng thể nghiệm 70

3.4. thiết kế bài học thể nghiệm 70


3.5. Đánh giá thiết kế thể nghiệm “Chiếc thuyền ngoài xa”: 92

KẾT LUẬN 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người trải qua ba nền văn minh lớn, văn minh nông nghiệp
kéo dài hàng vạn năm, văn minh công nghiệp tồn tại khoảng hơn ba thế kỷ và
văn minh siêu công nghiệp phát triển mạnh trong mấy thập niên trở lại đây. Ở
mỗi nền văn minh, giáo dục có sự phát triển tương thích với nền kinh tế - xã
hội, PPDH giáo điều tồn tại ở nền văn minh nông nghiệp. PPDH cổ truyền
xuất hiện ở nền văn minh công nghiệp. Đến nền văn minh siêu công nghiệp,
PPDH có sự đổi mới và phát triển cao hơn, trong đó PPDH tích cực được đề
cao bởi nó có vị trí, vai trò quan trọng trong dạy học và phù hợp với yêu cầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội ở thời kỳ này.
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển
kinh tế - xã hội
Bước sang thế kỷ XXI, mọi dân tộc trên thế giới càng có ý thức sâu sắc
hơn về sức mạnh của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Thành tựu
cũng như thất bại trong cuộc cạnh tranh của các dân tộc trong bối cảnh toàn
cầu hóa cuối thế kỷ XX, càng giúp cho những người lãnh đạo đất nước thực
sự thức tỉnh và có ý thức hơn về vai trò của giáo dục trong chiến lược phát

triển của quốc gia mình.
Một cường quốc về kinh tế như Mỹ cũng rất quan tâm đến giáo dục,
trong bản thông điệp 98, vị tổng thống Mỹ nói: “Phải chấn hưng giáo dục,
nếu không sẽ không thể cạnh tranh được với người Nga, người Tàu”.
Bước sang nền văn minh siêu công nghiệp, với sự phát triển như vũ bão
của công nghệ thông tin và truyền thông, giúp học sinh mở rộng kiến thức và
tầm hiểu biết. Học sinh có thể tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn
khác nhau, nguồn thông tin, kiến thức phong phú, đa dạng và người học có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6


2

thể tiếp nhận được, đã đặt ra cho giáo dục yêu cầu cấp bách là cần phải đổi
mới cách dạy và cách học. Đổi mới PPDH theo hướng giúp học sinh có thể
làm chủ, tự lực chiếm lĩnh tri thức, tích cực, chủ động, sáng tạo, có kỹ năng
giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Đó là những thách thức lớn
đối với ngành giáo dục nói chung, với nhà trường và giáo viên nói riêng.
Đối với nước ta, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ II, khóa VIII (1996) đã đề ra yêu đổi mới giáo dục – đào tạo,
trong đó có đổi mới PPDH. Nghị quyết chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Ở đây, chúng ta nhận thấy,
không chấp nhận lối “truyền thụ một chiều” mà chú trọng rèn luyện nếp tư
duy sáng tạo của người học.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ hai cũng chỉ ra những biểu hiện
tiêu cực, hạn chế trong giáo dục và hiện nay đang tập trung khắc phục như:
hiện tượng dạy thêm, học thêm tràn lan, tốn nhiều thời gian, tiền bạc của học

sinh, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách học sinh và quan hệ thầy trò.
Ngoài ra, hiện tượng tiêu cực trong thi cử dẫn đến chất lượng và hiệu quả giáo
dục vẫn còn thấp.
Nhìn chung, Giáo dục và Đào tạo của nước ta còn yếu kém và nhiều bất
cập, chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn, ngày càng cao về nhân lực của công
cuộc đổi kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dân tộc ta tăng cường giao lưu, hội
nhập kinh tế quốc tế thì đổi mới giáo dục có vai trò, nhiệm vụ quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục phải tạo ra được nguồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7


3

lực về con người theo tinh thần “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Ngành Giáo dục – Đào tạo có nhiệm vụ tạo ra lớp người
năng động, sáng tạo, có kiến thức, kỹ năng nghiề nghiệp và trình độ chuyên
môn sâu rộng. Do đó, đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới PPDH theo
hướng tích cực chính là để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội
1.2. Đề tài được lựa chọn từ thực tiễn dạy học bài “Chiếc thuyền ngoài
xa” theo yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông hiện
nay, bước đầu đã theo hướng tích cực song còn cục bộ, thiếu nội dung rõ
ràng, cụ thể. Một số chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên về đổi mới phương
pháp dạy học chưa đáp ứng được những vấn đề thực tiễn trong dạy học bộ
môn: “Chuyên đề chưa giải quyết thấu đáo cơ sở khoa học của phương pháp,
hệ thống phương pháp, nội dung, bản chất của phương pháp, khả năng vận
dụng phương pháp vào bài học kinh nghiệm…Tác dụng gỡ bí và sâu rộng của
các hoạt động chưa đạt được kết quả mĩ mãn” [11, 9].
Muốn đổi mới phương pháp dạy học văn có chất lượng và hiệu quả lâu

dài, cần phải tiến hành đồng bộ, từ mục tiêu đào tạo, chương trình, SGK, đến
nội dung, phương pháp, từ nhà quản lý giáo dục đến giáo viên và học sinh.
Biết kết hợp, đổi mới nghiên cứu lý luận đến vận dụng vào thực tiễn dạy học
Văn ở nhà trường phổ thông. Bên cạnh đó, đổi mới PPDH Văn cũng cần có
thời gian, quá trình thực hiện và đánh giá nghiêm túc.
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác
sau năm 1975, là truyện ngắn tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống ở góc độ
thế sự, đời tư và giá trị nhân bản đời thường. Cái nhìn hiện thực đa diện, đa
chiều về cuộc sống con người, với gánh nặng cơm áo của gia đình người phụ
nữ hàng chài, khiến họ chìm ngập trong cảnh đói khổ, túng quẫn. Đằng sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8


4

câu chuyện này, là niềm tin, sự trân trọng của nhà văn về tình mẫu tử thiêng
liêng, cao đẹp, lòng nhân ái, vị tha và đầy bao dung của người phụ nữ. Một vẻ
đẹp giản dị, rất mực đời thường của người phụ nữ hàng chài nói riêng và
người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” mới được đưa vào giảng dạy ở lớp 12
từ năm học 2007 – 2008, sau khi thay Sách giáo khoa. Do tác phẩm mới được
đưa vào chương trình nên học sinh còn bỡ ngỡ, khó khăn trong việc đọc, tiếp
nhận tác phẩm. Giáo viên thì lúng túng trong việc lựa chọn phương pháp dạy
học cho phù hợp. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này để góp
thêm một ý kiến mới cho việc giải quyết khó khăn cho giáo viên và học sinh
khi thực hiện chương trình mới này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Như đã nói ở trên, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực hóa hoạt động của người học phát triển mạnh từ những năm 60,70 của thế
kỷ trước. Năm 1973 trên tạp chí giáo dục đăng bài “Dạy văn là một quá trình

rèn luyện toàn diện” của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong đó Thủ tướng
nhấn mạnh dạy Văn mà “cho học sinh học nhiều, yêu cầu học sinh nhớ nhiều
để bắt chước, vì học sinh không phải suy nghĩ gì nhiều, chỉ cần nhớ nhiều rồi
lặp lại, góp nhiều trích dẫn lại thành bài văn. Học sinh học nhiều, nhớ nhiều
là điều đáng khuyến khích, nhưng quyết không phải đó là điều chủ yếu. Điều
điều chủ yếu là dạy suy nghĩ, dạy sáng tạo”[8, 67]. Dạy văn là dạy phương
pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, dạy văn là dạy cái hay cái đẹp và bao
nhiêu thứ trong đó. Dạy văn là để học sinh “phát hiện con người mình”, “dạy
văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”. Nhiều luận điểm của thủ tướng có
tầm chiến lược, có tính thiết thực cho việc đổi mới phương pháp dạy học văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9


5

2.2. Từ sau năm 1986, đất nước ta bước sang thời kỳ mới, đối diện với
bối cảnh lịch sử này, Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách mới cho
phát triển kinh tế, trong đó có giáo dục, để kịp thời bắt nhịp với sự phát triển
kinh tế toàn cầu mà trong đó giáo dục đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt, năm
1995 sau khi tổ chức thành công hội thảo “đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng hoạt động hóa người học” thì hàng loạt các bài viết, đầu sách được ra
mắt độc giả như “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh trung học phổ
thông” (Vũ Quốc Anh), “Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong
nhà trường” ( Nguyễn Huy Quát – Hoàng Hữu Bội), “Phương pháp giáo dục
tích cực” (Nguyễn Kỳ), “Dạy học theo hướng phát triển tư duy”, “Phương
pháp giáo dục tích cực” (Trần Bá Hoành), “Phương pháp dạy học văn”,
(Phan Trọng Luận), “Phương pháp luận nghiên cứu văn học” (Nguyễn Văn
Dân), “Văn học nhà trường nhận diện- đổi mới- tiếp cận” (Phan Trọng
Luận), “Văn học nhà trường những điểm nhìn” (Phan Trọng Luận), “Phương
pháp dạy học văn trung học phổ thông, những vấn đề cập nhật” (Nguyễn

Thanh Hùng)…vv. Đó là những cuốn sách có nội dung về đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên,
những cuốn sách đó mới chỉ cung cấp cho ta những kiến thức cơ bản về mặt
nhận thức lý luận, mà chưa đi sâu nghiên cứu từng bài học cụ thể, nhất là
những bài mới đưa vào chương trình. Do đó chúng chỉ có tính chất như tài
liệu tham khảo, có tính định hướng chung về phương pháp dạy học tích cực.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mới đưa vào chương trình lớp 12
THPT. Đến nay, cũng có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu về tác phẩm
này. Ở góc độ phương pháp, có đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân tích và
thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Hoàng Thị Hồng Minh. Đề tài này chủ yếu
nghiên cứu giá trị nhân sinh của truyện ngắn như “Những chiệm nghiệm về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10


6

chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện của nghệ sỹ Phùng”, “Những chiêm
nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài”,
“Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống”. Luận văn đã đề cập đến phương
pháp dạy học, song với PPDH tích cực mới dừng lại ở một phương pháp thảo
luận nhóm. Hay Lưu Hồng Dung với “Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh
trong tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu”.
Nguyễn Thị Bích với “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”, Đào Thủy Nguyên với “Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa”…vv đó là những công trình nghiên cứu mặt nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm. Việc hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm này
thông qua một số biện pháp, phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh thì chưa đề cập đến một cách chuyên sâu và cụ thể. Tiếp thu những
thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi muốn hướng dẫn học

sinh tiếp cận tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thông qua một số phương
pháp, biện pháp dạy học tích cực, phù hợp với bài học và yêu cầu của sự đổi
mới PPDH.

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi mong muốn đề xuất một số phương
pháp, biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, góp phần
nâng cao chất lượng bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12 THPT.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy và học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của giáo
viên và học sinh lớp 12 THPT thuộc địa bàn Thái Nguyên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê, điều tra để nêu rõ thực trạng dạy và
học văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11


7

5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá các số liệu, tài liệu đã
nghiên cứu và tìm hiểu.
5.3. Phương pháp so sánh, khái quát các kết quả nghiên cứu.
5.4. Phương pháp thể nghiệm sư phạm qua việc tiến hành dạy thử bài
học “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12 THPT để rút ra kết luận cần thiết.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Khảo sát thực trạng dạy và học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa” ở lớp 12 THPT.
6.2. Nghiên cứu những luận điểm cơ bản về phương pháp tích cực nói
chung và phương pháp tích cực trong dạy học Văn nói riêng.
6.3. Đề xuất một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt

động học tập của học sinh đối với bài học “Chiếc thuyền ngoài xa”.
6.4. Soạn giáo án theo hướng nghiên cứu của tác giả luận văn vào dạy
thể nghiệm bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12 THPT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương
Chương I: Những tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương II: Khảo sát thực tế dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” và đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài học này
Chương III: Thiết kế thể nghiệm
1. Mục đích thể nghiệm
2. Nội dung thể nghiệm
3. Đối tượng thể nghiệm
4. Thiết kế bài học thể nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12


8

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tiền đề lý luận
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ thường xuyên đối với mỗi
giáo viên bộ môn. Để thực hiện tốt điều này, việc trang bị những kiến thức lý
luận cơ bản, cập nhật về các phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp
dạy học tích cực là rất cần thiết.
1.1.1. Khái niệm về phương pháp dạy học và phương pháp dạy học tích cực
1.1.1.1. Khái niệm về phương pháp dạy học
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa
là con đường để đạt mục đích nhất định. Theo đó, phương pháp dạy học là

con đường để đạt mục đích dạy học trong nhà trường.
“Phương pháp dạy học là những cách thức, con đường dẫn đến mục tiêu
của bài học”[7, 45].
Phương pháp dạy học là một khái niệm phức hợp, có nhiều bình diện,
phương diện khác nhau.
Phương pháp dạy học là sự thống nhất giữa phương pháp dạy và
phương pháp học. Quá trình dạy học bao gồm hoạt động dạy và hoạt động
học, trong đó hoạt động dạy có vai trò tổ chức, điều khiển của giáo viên;
hoạt động học có vai trò tự tổ chức, tự điều chỉnh của học sinh. Mỗi hoạt
động phải tuân theo một quy trình và gắn bó hữu cơ với nhau, phù hợp với
mục đích đề ra. Như vậy, phương pháp dạy học là cách thức hoạt động,
trình tự phối hợp, tương tác với nhau giữa giáo viên và học sinh nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13


9

Phương pháp dạy học thực hiện thống nhất chức năng đào tạo và giáo
dục, các chức năng này thể hiện ở việc nhờ vào vận dụng các phương pháp
mà người học nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ở các mức độ từ thấp đến
cao. Phương pháp dạy học đảm bảo cho người học phát triển năng lực tư duy,
đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, khả năng linh hoạt, hình thành các quan
điểm về phương pháp luận, niềm tin, các phẩm chất ý chí, động cơ… có tác
dụng tốt trong giáo dục học sinh.
Xã hội loài người đã trải qua ba nền văn minh, tương ứng với các nền
văn minh ấy là những nền giáo dục khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Ở nền văn minh nông nghiệp, do sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học
kỹ thuật chậm phát triển nên kiến thức mà nhân loại tạo ra, được tổng kết lại,

có thể sử dụng hàng trăm năm. Nền kinh tế - xã ở nền văn minh nông nghiệp
không yêu cầu cao đối với giáo dục vì vậy hình thức dạy học còn thô sơ,
phương pháp dạy học giáo điều được thịnh hành. Dạy học chủ yếu theo kiểu
truyền khẩu, kiến thức hàng nghìn năm ít thay đổi và lượng kiến thức ấy cũng
đủ để người học vận dụng vào đời sống.
Ở phương pháp dạy học giáo điều, thầy giáo là người quyết định nội
dung giáo dục, nội dung đó đối với người học là chuẩn mực, phải thừa nhận
và không được bàn cãi.
Đến nền văn minh công nghiệp, nền kinh tế - xã hội đã thay đổi, khoa
học kỹ thuật phát triển với sự ra đời của máy hơi nước, nhiệt điện, các học
thuyết tiến hóa…vv. Khối lượng tri thức nhân loại tạo ra ngày một nhiều, đòi
hỏi giáo dục cũng phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục phát triển thành trường lớp rất quy củ và có quy mô, hệ thống. Học
sinh có cùng trình độ, lứa tuổi được sắp xếp vào chung lớp học. Sách vở, tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14


10

liệu dùng cho dạy học được biên soạn ngày càng phong phú, có chất lượng,
nội dung chương trình bao gồm cả lý thuyết, thực hành…
Phương pháp dạy học được cải tiến, không chỉ có thông báo, thuyết
giảng mà còn có đàm thoại, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận, thực hành, sử dụng
trực quan tranh ảnh, hình vẽ…vv. Ở thời kỳ này dạy học thông báo vẫn còn
thịnh hành, phương pháp này cũng tồn tại trong một thời gian dài, người ta
gọi là phương pháp dạy học cổ truyền, người giáo viên khám phá bài học thật
sâu sắc, tự mình rung cảm thật sự để rồi truyền thụ tới học sinh sao cho hấp
dẫn, để học sinh có thể đồng cảm, ghi nhớ và biết làm theo
Đặc trưng của những phương pháp trên là tính thụ động lệ thuộc của
người học. Vì vậy, mô hình này có tên gọi là : Mô hình dạy học thụ động lấy

việc dạy (người thầy)làm trung tâm.
Đến nền văn minh siêu công nghiệp, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ
bão, đặc biệt với sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế - xã
hội bước vào thời đại mới. Chính vì thế, giáo dục cũng phải thay đổi để thích
ứng với đà phát triển của xã hội. Giáo dục vẫn tiếp thu những thành tựu của
phương pháp dạy học cổ truyền nhưng có sự đổi mới cho phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử, xã hội. Từ dạy học thụ động sang chủ động, dạy học không theo
lối tiếp nhận thông tin một chiều từ giáo viên. Đến thời kỳ này, người thầy
phải thay đổi cách dạy, phải hướng dẫn, tổ chức, điều khiển giờ học, người
học phải là trung tâm của hoạt động học, luôn tích cực, chủ động, tự giác,
sáng tạo trong học tập. Tăng cường tự học, dạy học theo hướng tích cực và
tích hợp, sử dụng các phương tiện hiện đại trong dạy học.
Như vậy, ở mỗi nền văn minh, người ta đều đề ra mục đích Giáo dục –
Đào tạo riêng, do đó PPDH cũng phải đổi mới cho phù hợp với mục đích ấy.
PPGD, PPDH đứng ở vị trí sau mục đích, nội dung dạy học nhưng nó lại tạo
nên kết quả của Giáo dục – Đào tạo. Vì vậy, nắm vững PPGD, PPDH trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15


11

đó có PPDH tích cực là rất quan trọng, cần thiết đối với những người làm
công tác giáo dục và đối với từng giáo viên bộ môn.
1.1.1.2. Khái niệm tính tích cực và phương pháp dạy học tích cực
Luật giáo dục năm 2005 nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực. Trong đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực thì đổi mới phương pháp học của học sinh được quan tâm
hàng đầu.
Để hiểu rõ phương pháp tích cực, tôi xin trình bày một số vấn đề lý luận
sau đây.

a. Tính tích cực
Tính tích cực là một phẩm chất của con người trong đời sống xã hội.
Hình thành và phát triển tính tích cực là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng với sự đổi mới
của nền kinh tế - xã hội. Tính tích cực là điều kiện, đồng thời là kết quả của
sự phát triển và đổi mới trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực học tập là tính tích cực nhận thức, thể hiện ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan trước hết với động cơ học
tập, động cơ đúng tạo ra hứng thú, hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực, tính tích cực sản sinh nếp
tư duy độc lập, suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Tính tích cực
biểu hiện ở những dấu hiệu như hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên,
bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu các ý kiến của mình trước
các vấn đề, hay nêu thắc mắc đòi hỏi giải thích cặn kẽ, tập trung chú ý vào
những vấn đề đang học, hoàn thành các bài tập, không nản trí trước những
tình huống khó khăn…vv.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16


12

Tính tích cực thể hiện qua các cấp độ từ thấp đến cao, trước hết là bắt
chước làm theo mẫu của thầy của bạn. Tiếp đến là tìm tòi, tức là độc lập giải
quyết những vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một vấn
đề. Cuối cùng là tìm ra cách giải quyết mới độc đáo, hiệu quả.
b. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong phương

pháp dạy học tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động chủ động, tíchh cực,
tự lực, sáng tạo của người học.
“Phương pháp dạy học tích cực là phương dạy học phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung vào việc phát huy tính tích cực của học sinh, dưới sự dẫn dắt, gợi mở
của giáo viên”[7, 21].
Với quan niệm nói trên, muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy.
Cách dạy chỉ đạo cách học nhưng ngược lại thói quen của trò cũng ảnh hưởng
đến cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
ứng, vẫn quen với lối học thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì, dùng cách
dạy hợp lý, vừa sức, từ thấp đến cao để đem lại cho người học hứng thú, niềm
vui trong học tập, phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của học sinh.
Muốn đổi mới phương pháp dạy học thành công thì phải có sự hợp tác, sự
phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy và hoạt động học.
Trong dạy và học tích cực, dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của
giáo viên, người học được tham gia vào quá trình hoạt động học tập từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17


13

khâu phát hiện vấn đề, tìm giải pháp cho vấn đề đặt ra, thực hiện các giải
pháp và rút ra kết luận.
Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, có nghĩa là hoạt
động học tập phải được thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa hoạt động cá nhân
và hoạt động hợp tác, trong mối quan hệ tương tác giữa thầy trò, trò – trò,
trong môi trường học tập thân thiện, an toàn.
Hoạt động của giáo viên và học sinh trong dạy học tích cực được thể

hiện theo sơ đồ sau:


















1.1.2. Một số đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
Theo GS Trần Bá Hoành và theo cuốn sách “Dạy và học tích cực – Một
số phương pháp và kỹ thuật dạy học” của dự án Việt – Bỉ thì phương pháp
dạy học tích cực có 5 đặc trưng sau:
Người dạy
Định hướng,hướng dẫn
Tổ chức
Trọng tài, kết luận,
Kiểm tra
Người học
Nghiên cứu, tìm tòi

Thực hiện
Tự kiểm tra, điều chỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18


14

Đặc trưng thứ nhất: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Phương pháp tích cực xem học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của
quá trình dạy học. Thông qua hoạt động học tập, mỗi học sinh tự hình thành
và phát triển nhân cách.
Chúng ta cũng cần phải hiểu đầy đủ thuật ngữ “lấy học sinh làm trung
tâm”. Việc lấy học sinh làm trung tâm không có nghĩa là hạ thấp vai trò của
người thầy. Người thầy giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập
của học sinh. Do đó, nên hiểu thuật ngữ trên là “Lấy học sinh làm trung tâm
của quá trình dạy học” hay “Dạy học lấy hoạt động của người học làm trung
tâm”. Nghĩa là, dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh được chủ động lựa
chọn những vấn đề mà mình quan tâm ham thích, tự lực tiến hành nghiên cứu,
giải quyết vấn đề và trình bày kết quả.
Muốn học sinh phát triển toàn diện cả về thể chất và trí tuệ, chúng ta cần
đưa học sinh vào các hoạt động học tập có ý thức, các hoạt động ấy sẽ kích
thích tư duy sáng tạo của các em, đồng thời tạo ra môi trường học tập lý thú
với nhiều mối quan hệ đa dạng giữa các học sinh.
Tiến hành phương pháp tích cực, giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm
vững kiến thức lý thuyết mà còn dẫn dắt, đưa các em vào những hoạt động cụ
thể, để thực hành những kiến thức đã học. Các em sẽ có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân và tập thể, thông qua những hoạt động do giáo viên và nhà
trường tổ chức. Chính vì thế, mục đích của học tập là phát triển từ học để biêt
đến học để hành và học để làm người.
Đặc trưng thứ hai: Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học

Ngày nay với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, khoa học và công nghệ
phát triển với tốc độ siêu tốc thì việc rèn luyện cho học sinh phương pháp tự
học là một trong những mục tiêu của giáo dục. Giáo viên không chỉ cung cấp
những tri thức sẵn có trong sách mà phải biết hướng dẫn học sinh cách tự học,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19


15

biết tìm ra nội dung kiến thức của bài học như Disterwerg từng viết “Người
thầy giáo tồi chỉ biết truyền dạy chân lý, người thầy giáo giỏi biết cách hướng
dẫn học sinh tìm ra chân lý”.
Rèn cho học sinh thói quen tự học, biết vận dụng và giải quyết điều đã
học vào cuộc sống sẽ giúp các em có lòng say mê học tập và phát huy những
thế mạnh của từng người. Chính vì thế mà ngày nay yêu cầu đặt ra cho dạy
học là biến học tập thụ động sang tự học chủ động.
Đặc trưng thứ ba: Dạy học cá thể và dạy học hợp tác
Dạy học cá thể và dạy học hợp tác là cách dạy thông qua hoạt động của
các nhóm nhỏ, ở đó ý kiến của mỗi cá nhân được điều chỉnh, từ đó người học
sẽ nhận thức được mức độ lĩnh hội tri thức của mình đến đâu. Dạy học hợp
tác còn có tác dụng gắn kết và phát triển tình bạn, tổ chức kỷ luật và giúp đỡ
nhau trong học tập và cuộc sống.
Dạy học hợp tác không có nghĩa là phủ nhận cách dạy học cá thể. Vì trong
dạy học hợp tác, mọi người đều có cơ hội bộc lộ ý kiến của riêng mình về
những khía cạnh cụ thể nào đó do nhóm trưởng giao cho. Các hoạt động của cá
nhân được kết hợp với tập thể để đạt mục tiêu chung của nhiệm vụ đề ra.
Đặc trưng thứ tư: Đánh giá và tự đánh giá
Trước đây, quan niệm về đánh giá chỉ là việc làm của giáo viên. Đó là
kiểu đánh giá một chiều có tính độc tôn, thiếu dân chủ và thiếu chính xác. Đối
với phương pháp dạy học tích cực thì giáo viên phải biết cách giúp đỡ học

sinh có được năng lực tự đánh giá, từ đó điều chỉnh việc học tập của bản thân.
Việc kiểm tra đánh giá có sự chuyển biến về nội dung và hình thức để
thúc đẩy sự chuyển biến trong dạy và học. Hiện nay, việc kiểm tra đánh giá
cũng đỡ phức tạp và khó khăn hơn trước, đó là nhờ sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin. Sự kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò sẽ góp phần
kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20


16

Từ sự phân tích những đặc trưng trên, chúng ta có thể so sánh đặc trưng
của phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp dạy học tích cực như
sau:
Dạy học truyền thống Dạy học tích cực
Quan
niệm
Học là quá trình tiếp thu và
lĩnh hội, qua đó hình thành
kiến thức, kỹ năng, tư
tưởng, tình cảm.
Học là quá trình kiến tạo. Học
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện,
luyện tập, khai thác và xử lý
thông tin…tự hình thành hiểu
biết, năng lực và phẩm chất.
Bản chất Thiên về truyền thụ tri thức,
truyền thụ và chứng minh
chân lý của giáo viên
Tổ chức hoạt động nhận thức cho

học sinh, dạy học sinh cách tìm ra
chân lý.
Mục tiêu Chú trọng cung cấp kỹ
năng, kỹ xảo. Học để đối
phó với thi cử, sau khi thi
xong, những điều đã học
thường bị bỏ quên hoặc ít
dùng đến
Chú trọng hình thành các năng
lực sáng tạo, hợp tác. Dạy phương
pháp và kỹ thuật lao động khoa
học, dạy cách học, học để đáp
ứng những yêu cầu của cuộc sống
hiện tại và tương lai. Những điều
đã học cần thiết, bổ ích cho bản
thân học sinh và sự phát triển của
xã hội.
Nội dung Từ giáo viên và sách giáo
khoa
-Từ nhiều nguồn khác nhau:
SGK, giáo viên, các tài liệu khoa
học, phòng thí nghiệm, bảo tàng,
thực tế.
-Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21


17


-Tình huống thực tế, bối cảnh và
môi trường địa phương.
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Phương
pháp
Các phương pháp diễn
giảng truyền thụ kiến thức
một chiều.
Các phương pháp tìm tòi, điều tra
giải quyết vấn đề, dạy học hợp
tác….vv
Hình thức
tổ chức
Cố định, giới hạn trong 4
bức tường của lớp học, giáo
viên đối diện với cả lớp.
Cơ động, linh hoạt: học ở lớp, ở
phòng thí nghiệm, ơ hiện trường,
trong thực tế…vv. Học cá nhân,
học đôi bạn, học theo nhóm, cả
lớp đối diện với giáo viên.

1.1.3. Phương pháp tích cực trong dạy học văn
Mỗi một phương pháp dù cổ điển hay hiện đại, đều thể hiện một khía
cạnh nào đó của cơ chế dạy học hoặc về vai trò của người thầy. Dù các
phương pháp được sử dụng đạt hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một
vài khía cạnh mà người dạy và người học chưa khai thác hết. Chính vì thế,
không có phương pháp nào là lý tưởng, mỗi phương pháp có ưu điểm và
hạn chế của nó, do đó người thầy giáo phải lựa chọn những phương pháp

dạy học phù hợp với mục tiêu dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh
mình trực tiếp giảng dạy và phù hợp với các nguồn lực và công cụ dạy học
để dạy học đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.3.1. Phương pháp tự học
Khái niệm: Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ (quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp vv…) và có khi cả cơ bắp (khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22


18

phải sử dụng công cụ lao động) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động
cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan,
có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa
học vv…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình. [27, 59].
Phương pháp dạy – tự học là phương pháp dạy học tích cực lấy người
học làm trung tâm, là tổ hợp hệ thống các thao tác tự học của học trò dưới tác
động dạy của thầy, được tiến hành tuần tự, nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Dạy học ở nước ta hiện nay, tự học của người học đang là vấn đề được
đặc biệt quan tâm. Để học suốt đời thì phải có khả năng tự học. Khả năng này
cần được rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên nghế nhà trường, ở đó học sinh
được tập dượt giải quyết những tình huống, vấn đề sẽ gặp trong đời sống xã
hội, bằng những hành động của chính mình, qua đó học sinh vừa chiếm lĩnh
được kiến thức vừa có thái độ, hành vi ứng sử thích hợp. Mỗi môn học trở
thành hệ thống tình huống, vấn đề qua các bậc học từ thấp đến cao, qua nhiều
lần tự học, tự nghiên cứu, tự xử lý các tình huống, vấn đề của cuộc sống ngay
từ trên ghế nhà trường học sinh sẽ tự lực hình thành và phát triển dần dần cho
bản thân mình nhân cách người lao động “tự chủ, năng động, sáng tạo” vừa
“có năng lực tự học và thói quen tự học suốt đời” vừa “có năng lực đi vào

thực tiễn kinh tế - xã hội”[27, 174].
Ví dụ : Bài “Truyền kỳ mạn lục và chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ, giáo viên hướng dẫn học sinh tự học ở nhà trước khi đến lớp
theo trình tự:
Phần tiểu dẫn, lưu ý học sinh chú ý đến giai đoạn lịch sử mà Nguyễn Dữ
đã sống, đặc điểm cuộc đời ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23


19

Phần tác phẩm: Hướng dẫn học sinh đọc, nắm chắc tên các nhân vật,
diễn biến cốt truyện. Truyện có nhiều điển tích, đọc kỹ phần chú giải để hiểu
đầy đủ ý nghĩa của các câu văn, đoạn văn.
Phần trọng tâm của bài học: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu, suy nghĩ hệ
thống câu hỏi trong SGK, chú ý đến nhân vật Vũ Nương như : nghệ thuật thể
hiện nhân vật; nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương; đoạn kết câu
chuyện có ý nghĩa gì?
Ngoài ra, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bố cục, chủ đề của
chuyện. Suy nghĩ, đánh giá của học sinh về chuyện này.
Tìm hiểu những bài thơ viết về chuyện này và những bài thơ có nội
dung, chủ đề tương tự như chuyện “Người con gái Nam Xương” để so sánh
điểm giống và khác nhau.
Muốn học sinh làm tốt phần tự học ở nhà, giáo viên phải thường xuyên
kiểm tra, đánh giá thông qua việc kiểm tra bài cũ và trong giờ học trên lớp.
Với những nội dung giáo viên hướng dẫn học sinh tự học ở nhà trên, nếu học
sinh có ý thức tự học tốt thì chắc chắn giờ học sẽ đạt kết quả cao.
Muốn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì cần
rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh, coi đây không chỉ là yếu tố nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu quan trọng của dạy học. Để đạt được

mục tiêu chung của giáo dục thời kỳ đổi mới, các phương pháp tình huống,
phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tự nghiên cứu, tái tạo
vv…là các phương pháp cụ thể thuộc hệ thống các phương pháp dạy – học
tích cực, lấy người học làm trung tâm, gọi tắt là hệ thống các phương pháp
dạy tự học [27, 174].
1.1.3.2. Phương pháp đọc sáng tạo
Khái niệm: Là phương pháp tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật ngôn từ một
cách sáng tạo, chủ yếu bằng sự cảm thụ trực tiếp tác phẩm. Phương pháp đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24


20

sáng tạo bao gồm hệ thống biện pháp, cách thức tổ chức, hướng dẫn giảng
dạy của giáo viên và những hình thức hoạt động của học sinh. Bản chất của
đọc sáng tạo trước hết là đọc lời văn, đọc văn bản ngôn từ của tác phẩm, khi
đọc phải chú ý đến từng từ, từng câu, nhịp điệu, âm hưởng… để tạo cảm xúc
cho người đọc, người nghe [25, 14].
Theo N. I. Kuđriasép, với nhà trường Xôviết trước đây, đọc sáng tạo
được xem là một trong bốn phương pháp chính trong hệ thống các phương
pháp và biện pháp dạy học văn. Đọc sáng tạo là quá trình người đọc bằng liên
tưởng, hình dung của mình, từng bước thâm nhập bài văn, từ lựa chọn lớp
nghĩa thích hợp đến định hình ấn tượng về hình nét, bố cục bức tranh nghệ
thuật. Đồng thời xác định cảm xúc và giọng điệu của nhà văn để hiểu tác
phẩm một cách thấu đáo. Muốn xác định giọng điệu của nhà văn, có thể dựa
trên “dấu hiệu hình thức và nguyên tắc tổ chức hình tượng của tác phẩm, có
thể căn cứ vào thể loại, phong cách tác giả…để tìm ra đặc điểm tiết tấu âm
thanh, nhịp điệu của ngôn ngữ”[9, 71]. Tiết tấu, giai điệu ngừng nghỉ trong
đọc văn xuôi khác tiết tấu, giai điệu ngừng nghỉ trong đọc tác phẩm thơ; ngay
trong thơ thì tiết tấu thơ tự do cũng khác tiết tấu thơ luật.vv…

Ví dụ khi đọc bài “Lượm” của Tố Hữu:
Đoạn 1 đọc theo giọng kể (trung bình, chậm); Đoạn 2 và 3 đọc tiết tấu
nhanh hơn khi đọc đoạn 1; Đoạn 4 đọc theo giọng đối thoại (tươi vui, thể
hiện tính cách hồn nhiên); Hai câu đầu đoạn 5 trở về giọng kể, câu thứ 3
đọc giọng cao hơn và câu cuối “Cháu đi xa dần” đọc chậm và ngừng nghỉ
cách đoạn lâu hơn các đoạn trước; Ba câu đầu đoạn 6 đọc giọng kể, câu thứ
4 đọc giọng trầm và chậm hơn, chuẩn bị tâm thế xúc động; Đoạn 7 gồm hai
dòng thơ, mỗi dòng hai chữ, đọc chậm (nhịp 1/1), biểu lộ sự đau xót, cuối
đoạn ngừng nghỉ lâu, thể hiện tình cảm lắng đọng; Đoạn 8, 9, 10 đọc giọng
kể, thể hiện sự hồi tưởng, chú ý câu “Đạn bay vèo vèo” ngắt nhịp 2/1/1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25

×