Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghiên cứu chọn lọc một số giống sắn mới có tiềm năng cho năng suất cao, chất lượng tốt tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.08 KB, 68 trang )


1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




HÀ THÁI NGUYÊN




NGHIÊN CỨU CHỌN LỌC MỘT SỐ GIỐNG SẮN MỚI CÓ
TIỀM NĂNG CHO NĂNG SUẤT CAO, CHẤT LƢỢNG
TỐT
TẠI HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ



Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60.62.01.10



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP






THÁI NGUYÊN - 2012

2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay việc nghiên cứu phát triển, sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh
học đang được các quốc gia trên thế giới quan tâm bởi các lợi ích của loại
nhiên liệu này đem lại mà cây sắn là nguyên liệu chính cho công nghiệp chế
biến nhiên liệu sinh học (ethanol). Trên thế giới, chương trình sản xuất
ethanol của chính phủ Braxin đã tạo ra gần 1 triệu việc làm cho người lao
động. Còn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì điều này rất có
ý nghĩa vì phát triển nhiên liệu sinh học còn gắn với mục tiêu là:
Tạo đầu ra cho nông sản, tăng thu nhập cho người nông dân, góp phần
xóa đói giảm nghèo và giảm chênh lệch đời sống giữa nông thôn và thành thị.
Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia, ổn định xã hội và thay thế một phần xăng dầu nhập khẩu.
Giảm thiểu đáng kể khí thải độc hại ra môi trường, cải thiện môi
trường sống.
Xuất phát từ những tiềm năng đó, ngày 20 tháng 11 năm 2007, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm
2015 tầm nhìn đến năm 2025 với mục tiêu: Phát triển nhiên liệu sinh học,
một dạng năng lượng mới tái tạo được để thay thế một phần nhiên liệu hoá
thạch truyền thống. Các nhà máy chế biến cồn sinh học đã và đang được
xây dựng tại các tỉnh Phú Thọ, Quảng Ngãi và Bình Phước với công suất
mỗi nhà máy là 100 triệu lít /năm. Khi các nhà máy sản xuất ethanol này đi
vào hoạt động sẽ tiêu thụ một khối lượng sắn rất lớn. Dự kiến năm 2012 sẽ
tiêu thụ 16% tổng sản lượng sắn, năm 2015 là 35%, năm 2020 là 41% và
đến năm 2025 là 48% (các tính toán này dựa vào dự báo nhu cầu xăng tăng

8,5%/ năm, sản lượng sắn tăng 5%/năm).

3
Để đáp ứng được nguồn nguyên liệu này, giải pháp chính là tăng năng suất
sắn bằng cách đưa các giống mới vào trong sản xuất và áp dụng các biện pháp kỹ
thuật thâm canh thích hợp, bền vững. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, tôi đã tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chọn lọc một số giống sắn mới có tiềm
năng cho năng suất cao, chất lượng tốt tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ”.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nhằm lựa chọn ra những giống sắn mới có năng suất cao, chất lượng tốt phục
vụ cho thực tiễn sản xuất và chế biến tại khu vực Trung du miền núi phía Bắc.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá một số đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng,
giống sắn thí nghiệm.
- Đánh giá năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng,
giống sắn thí nghiệm.
- Đánh giá chất lượng của các giống sắn thí nghiệm.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp học viên củng cố và hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học và áp
dụng vào thực tế sản xuất.
- Trên cơ sở học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, giúp
học viên nâng cao được chuyên môn, nắm vững phương pháp tổ chức tiến
hành nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Góp phần tìm ra giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt đưa vào sản
xuất đại trà nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất của tỉnh Phú Thọ cũng như các
tỉnh trung du miền núi phía Bắc.


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Nguồn gốc, giá trị dinh dƣỡng của cây sắn
1.1.1. Nguồn gốc
Cây sắn có tên khoa học là Manihot Esculenta Crantz hoa hạt kín, có 2
lá mầm và thuộc họ thầu dầu có tới hơn 300 chi và 8000 loài phân thành 17
nhóm, có bộ nhiễm sắc thể 2n = 36. Nhiều tài liệu cho biết cây sắn có nguồn
gốc ở vùng nhiệt đới của Châu Mỹ La Tinh (Crantz, 1976) và được trồng cách
đây khoảng 5000 năm (CIAT, 1993).
Trung tâm phát sinh của cây sắn được giả thuyết tại Đông Bắc Brazil
thuộc lưu vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và hoang dại
(De candolle, 1886; Roger, 1965).
Trung tâm phân hóa phụ của cây sắn có thể tại Mêhicô, Trung Mỹ và
ven biển các nước Nam Mỹ. Bằng chứng là những di tích khảo cổ ở
Vênêzuela niên đại 2700 năm trước công nguyên, những lò nướng bánh sắn
trong phức hệ Malabo ở phía bắc Colombia niên đại khoảng 1200 năm
trước công nguyên, những hạt tinh bột sắn ở trong phần hóa thạch được
phát hiện tại Mêhicô có tuổi khoảng 900 năm đến 200 năm trước công
nguyên (Roger, 1963, 1965).
Các công trình nghiên cứu gần đây của nhiều tác giả kết luận rằng: Cây
sắn có nguồn gốc phức tạp và có bốn trung tâm phát sinh đó là: Brazil có hai
trung tâm, còn lại là ở Mêhicô và Bolivia.
Cây sắn được người Bồ Đào Nha đưa đến Congo của châu Phi vào
thế kỷ 16. Tài liệu nói tới sắn ở vùng này là của Barre và Thevet viết năm
1558. Ở châu Á, sắn được du nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 (P.G.
Rajendran et al, 1995) và Sri Lanka đầu thế kỷ 18 (W.M.S.M Bandara và
M Sikurajapathy, 1992). Sau đó, sắn được trồng ở Trung Quốc, Myanma


5
và các nước châu Á khác ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 (Fang Baiping
1992. U Thun Than 1992).
Ở Việt Nam cây sắn được du nhập vào khoảng thế kỷ thứ 18 và được canh
tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh của Việt Nam từ Bắc đến Nam. Diện tích sắn
trồng nhiều nhất ở vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng núi và trung du
phía Bắc và ven biển Nam Trung Bộ, ven biển Bắc Trung Bộ.
1.1.2. Giá trị dinh dưỡng
Theo số liệu công bố của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới
(FAO), hàm lượng dinh dưỡng trong củ sắn (tính trên 100 gam phần ăn được)
như sau:
Nước : 65,5%
Protein : 1,0%
Lipit : 0,2%
Xenlulose : 1,2%
Trong protein của sắn có tương đối đầy đủ các acid amin (nhất là 9
acid amin không thay thế được cần thiết cho con người) đặc biệt hai acid
amin quan trọng là Lizin và Tritophan có đủ để cung cấp cho nhu cầu của
cả trẻ em và người lớn.
Theo Keliku (1970) thành phần các chất trong củ sắn bao gồm:
- Hydrat cacbon: Chiếm 88 - 91% trọng lượng khô của củ.
Trong đó:
+ Tinh bột: 84 - 87%
+ Đường tổng số: 4% bao gồm saccharoza (71%); glucoza (13%);
fructoza (9%) và mantoza (3%).
- Các chất khác với hàm lượng thấp: Protein, lipid, một số khoáng chất
chủ yếu (P, K, Ca, Mg,…), một số vitamin (C, B1,B2,…).
Thành phần dinh dưỡng khác biệt tuỳ giống, vụ trồng, số tháng thu
hoạch sau khi trồng và kỹ thuật phân tích.


6
Về phẩm chất: Hạt tinh bột sắn rất nhỏ, đường kính 0,015 - 0,025mm,
hạt bột sắn thường mịn, độ dính cao 10 - 17% (khoai lang 4%), nhiệt độ hồ
hóa thấp 70
0
C (khoai lang 75 - 78
0
C).
Ngoài ra, lá sắn cũng có hàm lượng protein cao (20 - 25%), hàm
lượng đáng kể các chất Canxi, Caroten, Vitamin B1, C (Tera 1984). Chất
đạm của lá sắn có khá đầy đủ các acid amin cần thiết, giàu lysin nhưng
thiếu methionin. Trong lá sắn ngoài các chất dinh dưỡng, cũng chứa một
lượng độc tố [HCN] đáng kể. Các giống sắn ngọt có 80 - 110mg HCN/1kg
lá tươi. Các giống sắn đắng chứa 160 - 240mg HCN/ 1kg lá tươi. Lá sắn
ngọt là một loại rau rất bổ dưỡng nhưng cần chú ý luộc kỹ để làm giảm
hàm lượng HCN. Lá sắn đắng không nên luộc ăn mà nên muối dưa hoặc
phơi khô để làm bột lá sắn phối hợp với các bột khác làm bánh thì hàm
lượng HCN còn lại không đáng kể.
Bảng 1.1: Thành phần dinh dưỡng trong một số loại cây trồng dùng làm
thức ăn cho gia súc

Tên thức ăn

Chất
khô
Protein
thô
Xơ thô
Canxi
Photpho

Năng lƣợng
trao đổi
(Kcal/đvtă)
Cỏ Pangola
253
17,9
85,9
0,9
0,5
547
Cây ngô non
131
14,0
33,8
0,8
0,3
295
Lá cây keo dậu
257
70,0
36,0
3,8
0,7
780
Thân lá cỏ Stylo
223
35,0
61,0
3,1
0,5

533
Rau muống
106
21,0
16,0
1,2
0,5
270
Củ sắn cả vỏ
277
90,0
100,0
0,5
0,4
968
Lá sắn
257
65,9
38,2
3,0
0,9
726
Bột lá sắn
897
57,0
139,8
11,0
6,3
2349
Bã sắn ướt

204
5,0
17,1
0,4
0,3
468
(Nguồn: Giáo trình chăn nuôi - NXB Nông nghiệp Hà Nội, 2000)

7
Qua số liệu ở bảng 1.1 ta thấy lượng vật chất khô của củ sắn cả vỏ, lá
sắn, bột lá sắn, bã sắn ướt đều cao hơn so với một số cây dùng làm thức
ăn cho gia súc khác. Đặc biệt trong củ sắn cả vỏ có hàm lượng chất khô,
protein thô, xơ thô, canxi, photpho và năng lượng trao đổi đều cao hơn
hẳn so với các loại thức ăn khác.
Điều này chứng tỏ thành phần dinh dưỡng trong củ sắn là rất cao, đáp ứng
được nhu cầu trong khẩu phần ăn của vật nuôi.
1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới
Năm 2010 diện tích sắn trên toàn thế giới đạt 18,41 triệu ha, năng
suất bình quân 12,40 tấn/ha, sản lượng 228,55 triệu tấn. Qua đó ta thấy
rằng cây sắn hiện nay đang bị thu hẹp về diện tích song vẫn phát triển cả về
năng suất và sản lượng. Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới
được thể hiện ở bảng 1.2:
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới
giai đoạn 2006 - 2010
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)

Sản lƣợng
(triệu tấn)
2006
18,56
12,06
223,85
2007
18,62
12,15
226,30
2008
18,77
12,44
233,50
2009
18,75
12,50
234,55
2010
18,41
12,40
228,55
(Nguồn: FAOSTAT, 2011 [9])

8
Hiện nay cây sắn được trồng tại 105 quốc gia, trong đó có 64,8%
diện tích sắn được trồng ở Châu Phi, Châu Á chiếm 21,2% và Châu Mỹ là
14%. ( Bảng 1.3)
Năm 2010 tổng diện tích sắn trồng ở Châu Mỹ là 2,678 triệu ha, năng
suất củ tươi bình quân 12,395 tấn/ha, sản lượng 33,197 triệu tấn. Năng suất

trung bình ở Châu Mỹ cao hơn năng suất trung bình của Châu Phi là 0,395
tấn/ha. Brazil là nước có diện tích trồng sắn lớn nhất châu Mỹ với 1,773
triệu ha – sản lượng 23,354 triệu tấn.
Tồn tại chính trong sản xuất và tiêu thụ sắn ở Châu Mỹ là trình độ kỹ
thuật thâm canh chưa cao, công nghiệp chế biến tinh bột sắn không phát
triển bằng Châu Á, sắn chủ yếu sử dụng tươi và làm thức ăn gia súc.
Châu Á cùng với Châu Phi và Châu Mỹ là một trong ba vùng sắn quan
trọng của thế giới. Diện tích sắn Châu Á hiện có 3,892 triệu ha, sản lượng
74,779 triệu tấn đứng thứ hai sau Châu Phi, năng suất sắn ở Châu Á hiện đạt
bình quân 19,216 tấn/ha cao hơn Châu Phi 6,821 tấn/ha. Indonesia là nước có
diện tích trồng sắn lớn nhất châu Á với 1,183 triệu ha – sản lượng 23,909
triệu tấn.
Sản xuất sắn tại Châu Á tăng ở mức cao của 3%/năm trong thời gian
cuối những năm 70 và đầu 80, những năm 90 sản xuất sắn phát triển chậm lại.
Sản xuất sắn được phát triển khá nhanh trở lại ở 3,3%/năm trong suốt 10 năm
qua (Reinhardt Howeler và Keith Fahrne, 2008).

9
Bảng 1.3. Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của những nước trồng sắn
chính trên thế giới năm 2010
Vùng trồng
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Toàn thế giới
18,458
12,436

229,541
Châu Phi
11,870
10,224
121,361
Nigeria
3,125
12,0
37,504
Cộng hòa Congo
1,855
9,173
15,050
Angola
1,047
13,241
13,859
Ghana
0,875
15,433
13,504
Mozambique
0,950
6,0
5,700
Châu Mỹ
2,678
12,395
33,197
Brazil

1,773
13,734
24,354
Paraguay
0,177
10,596
2,62408
Colombia
0,223
14,785
2,36353
Peru
0,105
11,765
1,24012
Haiti
0,147
4,073
0,5995
Châu Á
3,892
19,216
74,779
Indonesia
1,183
20,217
23,909
Thái Lan
1,168
18,833

22,006
Việt Nam
0,496
17,179
8,522
Ấn Độ
0,232
34,755
8,060
Trung Quốc
0,278
16,822
4,684
Nguồn: FAOSTAT, 2011 [9]

10
Qua phân tích tình hình sản xuất sắn trên thế giới ta thấy rằng, sắn sẽ
đóng vai trò kinh tế quan trọng và ngày càng đa dạng trong việc phát triển hệ
thống lương thực quốc gia trong hai thập kỷ tiếp theo. Cây sắn có hệ thống cố
định Cacbon cho phép cây tiếp tục quang hợp có hiệu quả trong thời gian
thiếu nước kéo dài.
Vì vậy, sắn hiện nay đang được sử dụng như một nguyên liệu phù hợp để
sản xuất ethanol trên toàn Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latin. Nhiên liệu sinh học
hiện có tầm quan trọng trong cuộc sống hiện đại kể từ khi giá nhiên liệu hóa
thạch đã bắt đầu tăng vọt do các vấn đề chính trị và cũng là mối quan tâm
ngày càng tăng trên tất cả các vấn đề về ô nhiễm môi trường. Xem xét những
vấn đề này, các nước phát triển và đang phát triển đã xây dựng chính sách để
bắt buộc pha ethanol và diesel sinh học (sản xuất từ các nguồn tái tạo) với
nhiên liệu hóa thạch (xăng, diesel).
Từ đó dẫn đến một nhu cầu lớn đối với nguyên liệu để sản xuất nhiên

liệu sinh học (UNEP 2009; Peter Baker 2009) [7] ở Trung Quốc, Brazil,
Nigeria, Thái Lan, Indonesia, Colombia, Việt Nam. Tại Việt Nam và
Campuchia sắn được xem là một cây trồng quan trọng để sử dụng cho việc
sản xuất nhiên liệu sinh học.
* Tình hình xuất, nhập khẩu sắn trên thế giới
Xuất khẩu sắn trên thế giới năm 2009 là 12,118 triệu tấn, trong đó tinh
bột và bột sắn là 4,651 triệu tấn, sắn lát và sắn viên là 7,802 triệu tấn (Bảng
1.4). So với năm 2008 lượng sắn xuất khẩu năm 2009 tăng 2,968 triệu tấn.
Thái Lan chiếm trên 85% lượng xuất khẩu sắn toàn cầu, kế đến là Indonesia
và Việt Nam. Thị trường xuất khẩu sắn chủ yếu của Thái Lan là Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản và cộng đồng châu Âu với tỷ trọng xuất khẩu sắn khoảng
40% bột và tinh bột sắn, 25% là sắn lát và sắn viên. Nước nhập khẩu sắn
nhiều nhất hiện nay là Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia.(Bảng 1.4)

11
Bảng 1.4. Tình hình xuất, nhập khẩu sắn trên thế giới giai đoạn 2006 - 2009
Đơn vị: Triệu tấn
Thị trƣờng sắn
2006
2007
2008
2009
1. Xuất khẩu sắn toàn cầu
10,245
10,922
9,150
12,118
Tinh bột và bột sắn
4,852
4,686

4,265
4,651
Thái Lan
4,616
4,416
3,963
4,316
Việt Nam & các nước khác
0,236
0,269
0,302
0,335
Sắn lát và sắn viên
5,692
6,506
5,187
7,802
Việt Nam
1,041
1,317
2,000
4,000
Thái Lan
4,348
4,824
2,848
3,450
Indonesia
0,132
0,210

0,170
0,160
Các nước khác
0,108
0,156
0,169
0,191
2. Nhập khẩu sắn toàn cầu
8,964
9,240
6,810
7,766
Tinh bột và bột sắn
4,616
4,416
3,963
4,316
Trung Quốc
1,399
1,242
1,114
1,745
Nhật Bản
0,694
0,729
0,873
0,725
Malaysia
0,312
0,256

0,296
0,400
Indonesia
0,968
0,667
0,417
0,270
Các nước khác
1,244
1,523
1,284
1,176
Sắn lát và sắn viên
4,348
4,824
2,848
3,450
Trung Quốc
3,693
3,168
1,214
3,000
Hàn Quốc
0,268
0,20
0,474
0,111
Cộng đồng Châu âu
0,341
1,436

0,989
0,20
Các nước khác
0,224
0,200
0,170
0,319
Nguồn: Cassava FAO Food Outlook December 2009 [8]

12
Trung Quốc hiện là nước nhập khẩu sắn nhiều nhất thế giới để làm
cồn sinh học (bio ethanol), tinh bột biến tính (modify starch), thức ăn gia
súc và dùng trong công nghiệp thực phẩm dược liệu. Trong năm 2009
Trung Quốc đã nhập khẩu 6.019.424 tấn sắn lát khô, trung bình hàng
tháng Trung Quốc nhập khẩu 501.618 tấn sắn lát khô, tháng thấp nhất là
259.886 tấn, tháng cao nhất là 616.875 tấn.
Trong đó nhập khẩu từ Thái Lan là 3.862.662 tấn, Việt Nam là
2.010.560 tấn, Indonesia là 143.072 tấn và số lượng còn lại là nhập khẩu ở
một số nước khác. Để hạn chế việc nhập khẩu sắn từ các nước khác và chủ
động nguồn cung cấp sắn cho ngành công nghiệp thực phẩm, thức ăn gia súc
và làm cồn sinh học ở trong nước, Trung Quốc có nhiều chính sách để tiếp tục
mở rộng diện tích và nâng cao năng suất sắn trong nước như giới thiệu các
giống sắn mới tốt hơn và nâng cao kỹ thuật trồng rừng kết hợp với trồng sắn.
Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực thế giới (IFPRI), đã tính toán
nhiều mặt và dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn toàn cầu với tầm nhìn
đến năm 2020. Năm 2020 sản lượng sắn toàn cầu ước đạt 275,10 triệu tấn,
trong đó sản xuất sắn chủ yếu ở các nước đang phát triển là 274,7 triệu tấn, các
nước phát triển khoảng 0,40 triệu tấn. Mức tiêu thụ sắn ở các nước đang phát
triển dự báo đạt 254,60 triệu tấn so với các nước đã phát triển là 20,5 triệu tấn.
Khối lượng sản phẩm sắn toàn cầu sử dụng làm lương thực thực phẩm dự báo

nhu cầu là 176,3 triệu tấn và thức ăn gia súc 53,4 triệu tấn.
Tốc độ tăng hàng năm của nhu cầu sử dụng sản phẩm sắn làm lương thực,
thực phẩm và thức ăn gia súc đạt tương ứng là 1,98% và 0,95%. Châu Phi vẫn
là khu vực dẫn đầu sản lượng sắn toàn cầu với dự báo sản lượng năm 2020 sẽ
đạt 168,6 triệu tấn.
Trong đó, khối lượng sản phẩm sử dụng làm lương thực thực phẩm là
77,2%, làm thức ăn gia súc là 4,4%. Châu Mỹ La tinh giai đoạn 1993-2020,
ước tốc độ tiêu thụ sản phẩm sắn tăng hàng năm là 1,3%, so với châu Phi là
2,44% và châu Á là 0,84 - 0,96%. Cây sắn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong

13
nhiều nước châu Á, đặc biệt là các nước vùng Đông Nam Á nơi cây sắn có
tổng diện tích đứng thứ ba sau lúa và ngô và tổng sản lượng đứng thứ ba sau
lúa và mía. Chiều hướng sản xuất sắn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh cây
trồng. Giải pháp chính để tăng tổng sản lượng bằng cách áp dụng giống mới và
các biện pháp kỹ thuật tiên tiến.
1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sắn là một trong bốn cây trồng có vai trò quan trọng
trong chiến lược an toàn lương thực quốc gia sau lúa và ngô. Cây sắn đã
trở thành cây có củ đứng hàng đầu về diện tích và sản lượng so với các
loại cây có củ khác ở nước ta và trở thành cây công nghiệp hàng hóa xuất
khẩu, làm thức ăn cho gia súc có giá trị kinh tế cao trong xu thế hội nhập
khu vực và thế giới. Tình hình sản xuất sắn ở Việt Nam giai đoạn từ năm
2000 - 2010 được thể hiện ở bảng 1.5.
Bảng 1.5: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở Việt Nam giai đoạn từ
năm 2000 đến 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất

(tấn/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2000
237,6
8,35
1.986
2005
425,5
15,78
6.716
2006
475,2
16,38
7.783
2007
495,5
16,53
8.193
2008
555,7
16,91
9.396
2009
508,8
16,82
8.557
2010
496,1
17,18

8.522
(Nguồn: FAOSTAT 2011[9])
Qua số liệu ở bảng 1.5 cho thấy tình hình sản xuất sắn qua các năm so
với năm 2000 tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2000 có diện

14
tích trồng sắn từ 237,6 nghìn ha, năm 2010 là 496,1 nghìn ha, tăng so với năm
2000 là 258,5 nghìn ha đánh dấu sự gia tăng năng suất từ 8,35 tấn/ha trong
năm 2000 lên 17,18 tấn/ha vào năm 2010.
Việt Nam đã đạt tiến bộ kỹ thuật nhanh nhất Châu Á về chọn tạo và nhân
giống sắn. Tiến bộ này là do nhiều yếu tố mà yếu tố chính là thành tựu trong
chọn tạo và nhân giống sắn lai. Năng suất và sản lượng sắn của nhiều tỉnh đã
tăng lên gấp đôi do trồng các giống sắn mới năng suất cao và áp dụng kỹ thuật
canh tác sắn thích hợp, bền vững.
Tại Việt Nam, cây sắn được coi là cây công nghiệp chính cung cấp
nguồn nhiên liệu cho sản xuất năng lượng sinh học. Bộ Công thương đã hoàn
thiện việc quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu cho năng lượng sinh học
[1]. Khi chương trình NLSH của Nhà nước vận hành, các nhà máy sản xuất
ethanol sẽ tiêu thụ một khối lượng sắn rất lớn. Dự kiến năm 2012, sản xuất
ethanol sẽ tiêu thụ 16% sản lượng sắn, năm 2015 chiếm 35%, năm 2020
chiếm 41% và đến năm 2025 chiếm 48%. Các tính toán này dựa vào dự báo
nhu cầu xăng tăng 8,5%/năm, năm 2012 áp dụng E5, năm 2015 áp dụng E10,
sản lượng sắn tăng 5%/năm. Sự hình thành và phát triển của ngành công
nghiệp NLSH làm thay đổi kết cấu thị trường sắn Việt Nam theo hướng có lợi
cho nông nghiệp và nông thôn [6]
Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ hai về các sản phẩm sắn
sau Thái Lan với 2,00 - 4,00 triệu tấn sắn lát khô tương ứng khoảng 0,4 - 0,8
tấn tinh bột sắn xuất khẩu (bảng 1.4). Đại lục Trung Quốc vẫn là nhà nhập
khẩu sắn lớn nhất của Việt Nam và chiếm 90% thu nhập xuất khẩu của ngành
công nghiệp. Hàn Quốc và Đài Loan là hai nước đứng thứ hai và thứ ba trong

tốp các nhà nhập khẩu lớn nhất. Nhu cầu đã tăng vọt, chủ yếu do nhu cầu từ
Trung Quốc, trong đó sử dụng để sản xuất ethanol.
Tổng xuất khẩu trong năm 2009 khoảng 4.000.000 tấn sắn lát khô và hơn
350.000 tấn tinh bột sắn và bột mì. Giá xuất khẩu sắn lát khô giảm xuống mức

15
thấp 135$/tấn vào đầu năm 2008, nhưng kể từ đó đã tăng lên từ 180$ và
195$/tấn trong cuối tháng 12 năm 2009 [1].
* MỘT SỐ VÙNG TRỒNG SẮN CHÍNH Ở VIỆT NAM
Đất trồng sắn ở Việt Nam tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, ven
biển Trung bộ và Vùng Tây Nguyên. Ở Việt Nam khoảng 66% diện tích của
sắn được trồng trên đất đồi núi, 40% diện tích còn lại được trồng trên các loại
đất khác. Sắn ưa đất có độ pH từ 4,5 - 6,0.
Tại miền Bắc Việt Nam, sắn được trồng chủ yếu ở khu vực có địa hình
đồi núi và khoảng 68% của diện tích trồng sắn là đất đá và 12% có đất cát pha
tương ứng. Trong khi đó sắn ở miền Nam, Việt Nam được trồng chủ yếu trên
đất cát màu xám, các loại đất này phẳng và nghèo chất dinh dưỡng, các khu
vực ven biển miền Trung và Đông Nam, chiếm khoảng 60% diện tích sắn
toàn miền Nam.
Trong khi đó hơn 30% diện tích sắn được trồng ở Tây Nguyên và
Đồng Nai, Bình Phước của khu vực Đông Nam trên đất đỏ màu vàng với
địa hình đồi núi.
Bảng 1.6. Diễn biến diện tích, sản lượng sắn của các vùng trồng sắn của
ViệtNam từ năm 1995-2010
Năm
Vùng
Diện tích
(1.000 ha)
Sản lƣợng
(1.000 tấn)

1995
2000
2005
2010
1995
2000
2005
2010
ĐB sông Hồng
10,9
9,9
8,5
7,3
79,0
87,9
92,4
108,8
Vùng núi trung du phía bắc
80,4
82,1
89,4
104,6
606,3
678,5
986,8
1.260,1
Vùng ven biển Trung bộ
94,0
83,8
133,0

155,0
602,1
645,9
1.855,9
2.607,6
Vùng Tây Nguyên
32,6
38,0
89,4
133,2
283,7
351,5
1.446,6
2.179,5
Vùng Đông Nam Bộ
49,3
16,1
98,8
90,1
560,8
154,3
2.270,5
2.283,3
ĐB Sông Cửu Long
10,2
7,7
6,4
6,0
79,6
68,2

64,0
82,3
Nguồn: [12].

16
Qua bảng số liệu 1.6 ta thấy sản xuất sắn tại Việt Nam đã được chuyển
dần sang miền Trung và khu vực Đông Nam trong những năm gần đây, đặc
biệt là ở các tỉnh Tây Nguyên như Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Đắk Lắk
(chiếm 26,78%); ở miền Đông Nam bộ như Tây Ninh, Đồng Nai, Bình
Phước, Bình Thuận (chiếm 20,52%); tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (chiếm 30,33%). Ba khu vực đã
tăng tất cả các lĩnh vực sản xuất sắn với các mức độ khác nhau. Nổi bật
trong số ba vùng là Tây Nguyên với một gia tăng đáng kể trong giai đoạn
2005 - 2010. Sản lượng sắn và diện tích sắn ở nhiều tỉnh đã tăng lên, điều
này được kích thích bởi việc xây dựng các nhà máy chế biến sắn mới có
quy mô lớn. Sản lượng sắn trong từng khu vực/tỉnh có liên quan chặt chẽ
đến diện tích gieo trồng và năng suất, mà chủ yếu phụ thuộc vào việc áp
dụng các giống sắn mới năng suất cao ở mỗi tỉnh và thông qua các kỹ thuật
thực hành sản xuất bền vững. Trong khi hai mươi năm trước đây, tại Việt
Nam không có các nhà máy sản xuất tinh bột sắn quy mô lớn, hiện nay có
60 nhà máy chế biến sắn hoạt động với tổng công suất chế biến từ
3.200.000 - 4.800.000 tấn củ tươi/năm. Tổng sản lượng tinh bột sắn tại Việt
Nam được khoảng 800.000 - 1.200.000 tấn, trong đó 70% được xuất khẩu
và 30% được sử dụng trong nước. [1]
Trong thập niên 1980 và 1990 sản lượng sắn tại Việt Nam đã suy giảm.
Nhưng trong mười năm qua (2000 - 2010), sản lượng sắn tăng từ 1.986.300
tấn trong năm 2000 lên 9.455.000 tấn trong năm 2010.
Kết quả này đạt được thông qua hai yếu tố đó là mở rộng diện tích và
trồng các giống sắn cao sản mới. Năm 2000 có diện tích trồng sắn từ
237.600 ha, năm 2009 là 560.400 ha, tăng so với năm 2000 là 322.800 ha

và đánh dấu sự gia tăng năng suất từ 8,36 tấn/ha trong năm 2000 lên
16,87 tấn/ha vào năm 2010.

17
1.3. Tình hình nghiên cứu, chọn tạo giống sắn mới trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu sắn trên thế giới
Trước đây, sắn được coi là một cây màu lương thực vì vậy thường được
phát triển trên diện rộng. Sắn là cây trồng của người nghèo và được sản xuất
bởi người nông dân nghèo nên có thời gian sắn bị lãng quên ở cộng đồng các
nước phát triển.
Đến năm 1970, với sự thành lập chương trình nghiên cứu sắn của CIAT
ở tại các nước Colombia và IITA (International Institute for Tropical
Agriculture) ở Nigieria.
Trên thế giới, việc nghiên cứu giống sắn được thực hiện chủ yếu ở trung
tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế - CIAT - Colombia, Viện Nông nghiệp
nhiệt đới Quốc tế - IITA - Nigieria cùng với các trường, viện nghiên cứu quốc
gia ở những nước trồng và tiêu thụ nhiều sắn. CIAT, IITA đã có những
chương trình nghiên cứu rộng lớn nhằm thu thập, nhập nội, chọn tạo và cải
tiến giống sắn.
Mục tiêu của chiến lược cải tiến giống sắn được thay đổi tùy theo sự cần
thiết và khả năng của từng chương trình quốc gia đối với công tác tập huấn,
phân phối nguồn vật liệu giống ban đầu đã được điều tiết bởi các chuyên gia
chọn tạo giống sắn của CIAT.
CIAT là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn đứng hàng đầu của thế
giới. Hiện tại CIAT cũng thu thập, bảo quản được 5.782 mẫu giống sắn và
đăng ký tại FAO gồm 5.138 mẫu giống sắn thu thập tại vùng Nam Mỹ và
Trung Mỹ, 24 mẫu giống sắn ở Bắc Mỹ, 384 mẫu sắn lai của CIAT, 163
mẫu giống sắn vùng Châu Á, 19 mẫu giống sắn vùng Châu Phi.
Trong số 5.728 mẫu giống sắn này có 35 loài sắn hoang dại được thu
thập nhằm sử dụng lai tạo ra giống sắn kháng sâu bệnh hoặc giàu protein.

Nguồn gen giống sắn nêu trên đã được CIAT bảo tồn và đánh giá cẩn thận

18
về khả năng cho năng suất, giá trị dinh dưỡng, thời gian sinh trưởng, khả
năng chống chịu sâu bệnh hại cũng như thích ứng với sự thay đổi của môi
trường. Từ đó chọn ra những cặp bố mẹ phục vụ cho công tác cải tiến
giống sắn để trao đổi, giữ gen đối với các nước.
Tại Châu Mỹ Latinh, chương trình chọn tạo giống sắn của CIAT đã được
phân phối với CLYUCA và những chương trình sắn quốc gia của các nước
Brazil, Colombia, Mêhicô. Giới thiệu cho sản xuất ở các nước này những
giống sắn tốt như: SM1433-4, CM3435-3, SG337-2, CG489-31, MCo172,
AM273-23, MBRA383. Do vậy đã góp phần đưa năng suất và sản lượng sắn
trong vùng tăng lên một cách đáng kể.
Ở Châu Phi, CIAT phối hợp cùng IITA và các nước Nigieria, Tanzania,
Mozabique, Angola, Uganda cùng nhiều tổ chức quốc tế như: FAO, IFAD,
DDPSC, OSU, Bill Gates Foundation để nghiên cứu nhằm phát triển các
giống sắn mới ngắn ngày, chất lượng cao (giàu Carotene, Vitamin, Protein)
thích hợp ăn tươi và khả năng kháng bệnh virut (một loại bệnh hại nghiêm
trọng đối với cây sắn ở châu Phi).
Ở Châu Á, các nhà chọn tạo giống sắn tham dự hội thảo được tổ chức tại
Thái Lan vào tháng 11/1987 đã nhất trí xác định mục tiêu của các chương
trình cải tiến giống sắn quốc gia là chọn tạo ra những giống sắn có năng suất
củ tươi và tỷ lệ tinh bột cao nhằm đáp ứng nhu cầu chế biến công nghiệp.
Mục tiêu cải tiến giống sắn của những quốc gia (Ấn Độ, Inđônêxia, Srilanca)
có nhu cầu cao về sử dụng sắn làm lương thực là chọn tạo những giống sắn
ngắn ngày có năng suất cao, chất lượng tốt, hàm lượng axit Cyanhydric
(HCN) trong củ thấp, thích hợp tiêu thụ tươi, dạng cây đẹp, có khả năng
chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận và sâu bệnh.
Ấn Độ là nước ở Châu Á có năng suất sắn cao hàng đầu thế giới.
Cơ quan điều phối cải tiến giống sắn toàn Ấn Độ là Viện Nghiên cứu


19
Cây có củ (CTCRI) ở Trivandrum của tiểu bang Kerala. CTCRI đã thu
thập, bảo quản, đánh giá 1.354 mẫu giống sắn và lai tạo được hàng chục
nghìn hạt sắn lai phục vụ cho chương trình chọn tạo các giống sắn mới.
Gần đây, Ấn Độ có 5 giống sắn mới được nhà nước công nhận là giống
quốc gia, trong đó giống Sree Prakash có nhiều triển vọng đạt năng suất
củ tươi cao (35- 40) tấn/ha.
Thái Lan là nước có chương trình chọn tạo giống sắn lớn nhất Châu
Á. Những cơ quan nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống sắn hiện nay là
Trường Đại học Kasetsart (KU), Viện Tinh bột Sắn Thái Lan (TTDI) và
Viện Nghiên cứu Cây trồng Thái Lan (FCRI). Tại Trung tâm Nghiên cứu
Cây trồng Rayong (thuộc FCRI) mỗi năm có 15.000 - 20.000 hạt sắn lai
F
1
được khảo sát, đánh giá và tuyển chọn. Những giống sắn mới năng suất
cao, phẩm chất tốt được giới thiệu trong thời gian gần đây có Kasetsart
50, Rayong 72, Rayong 5, Rayong 90, Huay Bong 60, CMR 41-111-129.
Chương trình cải tiến giống sắn của Trung Quốc được thực hiện chủ
yếu tại Học Viện Cây trồng Nhiệt đới Nam Trung Quốc (CATAS), Viện
Nghiên cứu Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI). Những giống
sắn mới năng suất cao trong thời gian gần đây tại Trung Quốc có SC201,
SC205, SC124, Nanzhi 188, GR911, GR 891.
Chương trình chọn tạo giống sắn của Indonexia được tập trung thực
hiện tại trường Đại học Branijaya và Viện Nghiên cứu Cây Lương thực
Marlang (MARIF). Năm 1978, hai giống sắn mới được đưa ra sản xuất là
Adira 1 và Adira 2, kế đó năm 1986 có giống Adira 4. Mới đây, MARIF
công bố một số giống sắn mới Marlang 1, Marlang 2, đồng thời đánh giá và
tuyển chọn từ 21.200 hạt lai F
1

của CIAT được một số dòng có triển vọng
đang được khảo nghiệm rộng rãi (Somearjio Poespodansona và Yudi
Widodo, 1995).

20
Tại Hội thảo sắn Quốc tế lần thứ tám tổ chức tại thủ đô Viên Chăn - Lào
ngày 20-24 tháng 10 năm 2008, các nhà khoa học đã xác định tương lai mới
cho sắn ở Châu Á là làm thực phẩm, thức ăn gia súc và nhiên liệu sinh học có
lợi cho người nghèo, mục tiêu là chọn tạo được những giống mới đáp ứng
được yêu cầu sử dụng củ và lá sắn làm thức ăn gia súc, phát triển mới trong
chế biến sắn, đặc biệt là làm nhiên liệu sinh học, tinh bột, tinh bột biến tinh,
màng phủ sinh học, công nghệ thực phẩm.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu sắn ở Việt Nam
Chọn giống sắn tốt, năng suất cao phù hợp với đất đai và yêu cầu của sản
xuất lớn là việc làm cần thiết để phát huy những ưu điểm của giống. Nhưng
trong điều kiện sản xuất trên diện rộng nếu không có một kế hoạch chọn lọc
bồi dưỡng giống sắn thường xuyên thì sau một vài năm giống sắn tốt cũng dễ
thoái hóa làm năng suất giảm xuống. Thấy được tầm quan trọng của công tác
chọn tạo giống sắn, các nhà khoa học Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu
chọn lọc các giống sắn mới để phục vụ cho sản xuất.
Trước năm 1975 tại Viện khảo sát nông nghiệp Sài Gòn đã nhập nội, thu
thập và khảo sát nguồn gen giống sắn (Lê Xuân Hoa, 1962, 1964, 1968,
1972). Ở miền Bắc, tác giả Đinh Văn Lữ cùng thực hiện một số thí nghiệm so
sánh giống sắn và rút ra một số kết luận về tập đoàn giống sắn.
Trong giai đoạn 1976 - 1990, tại Viện khoa học nông nghiệp miền Nam
và các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Hưng Lộc đã thu thập và đánh giá
các giống sắn địa phương. Kết quả đã chọn lọc và giới thiệu một số giống mới
để đưa ra sản xuất đại trà đó là HL23, HL24, HL20; những giống này có năng
suất cao hơn giống H34 và Mì Gòn địa phương.
Tại miền Bắc từ 1980 - 1985, trường Đại học Nông Lâm Bắc Thái đã

đánh giá 20 giống sắn địa phương và kết luận giống Xanh Vĩnh Phú là giống
địa phương tốt nhất miền Bắc.

21
Từ năm 1988, công tác nghiên cứu chọn giống sắn ở Việt Nam có
quan hệ chặt chẽ với CIAT. Trong suốt 18 năm (1988-2005), chương
trình sắn của Việt Nam đã phối hợp với CIAT chọn lọc và phát triển hai
giống sắn mới là KM 60 và KM 94 ra sản xuất. Đây là hai giống sắn có
năng suất củ tươi cao (25 - 40 tấn/ha), có tỷ lệ tinh bột cao (27 - 30%),
thích hợp với chế biến tinh bột.
Cũng từ năm 1993 trở lại đây nhiều nhà máy chế biến tinh bột sắn được
xây dựng, cây sắn đã chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa. Do đó các giống
sắn mới đã và đang được phát triển mạnh ở hai miền Nam - Bắc. Việc giới
thiệu và phát triển hai giống sắn mới này vào sản xuất đã là một bước đột phá
mới trong nghề trồng sắn ở Việt Nam.
Với sự hợp tác của CIAT, chương trình sắn Việt Nam cũng đã tiến hành
đánh giá vào khoảng 30.000 hạt lai do CIAT/Colombia, CIAT/Thái giới thiệu
và khoảng 7.000 hạt lai từ nguồn lai tạo trong nước. Hàng chục dòng triển
vọng tiếp tục được chọn ra từ nguồn vật liệu này như: KM98-1, KM98-5,
KM95-3, KM98-7, KM140…
Trong số các dòng này, có những dòng rất có triển vọng vừa thích hợp
chế biến, vừa có thể sử dụng ăn tươi.
Trong giai đoạn 1991 - 2005, chương trình sắn Việt Nam đã hợp tác chặt
chẽ với CIAT, VEDAN và mạng lưới Nghiên cứu sắn Châu Á để đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu và phát triển sắn với mục tiêu là chọn tạo ra những
giống sắn có năng suất củ tươi và tỷ lệ tinh bột cao, phục vụ cho chế biến
công nghiệp, đồng thời cũng tuyển chọn được những giống sắn ngắn ngày, đa
dạng, thích hợp cho cả chế biến công nghiệp cũng như nhu cầu về lương thực
ở vùng sâu, vùng xa.
Do đó đã tạo được bước đột phá quan trọng trong nghề trồng sắn của

Việt Nam.

22
Hiện nay mục tiêu của chương trình cải thiện di truyền sắn tại Việt
Nam là:
- Tăng tiềm năng năng suất, hàm lượng chất khô và hàm lượng tinh bột.
- Rút ngắn thời gian thu hoạch.
- Xác định các giống có năng suất cao phù hợp với từng khu vực và
vùng sinh thái khác nhau nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các hệ thống
canh tác nông hộ nhỏ.
- Lựa chọn giống sắn tốt nhất cho sản xuất ethanol sinh học.
Mà mục tiêu cụ thể của chương trình nhân giống sắn là: để chọn và phát
hành giống mới có năng suất cao từ 35-40 tấn/ha, hàm lượng tinh bột từ 27-
30%, thời gian sinh trưởng và phát triển từ 8-10 tháng, cây mọc thẳng đứng,
đốt ngắn, ít phân nhánh, tán nhỏ gọn, kích thước gốc, củ thống nhất và phù
hợp cho chế biến công nghiệp.
Việt Nam đã đạt tiến bộ kỹ thuật nhanh nhất châu Á về chọn tạo và nhân
giống sắn. Tiến bộ này là do nhiều yếu tố mà yếu tố chính là thành tựu trong
chọn tạo và nhân giống sắn lai.
Năng suất và sản lượng sắn của nhiều tỉnh đã tăng lên gấp đôi do trồng
các giống sắn mới năng suất cao và áp dụng kỹ thuật canh tác sắn thích hợp,
bền vững.
Diện tích canh tác giống sắn mới toàn quốc hiện đạt trên 500.000 ha,
chủ yếu là KM94, KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26, KM98-7. Sắn
lát và tinh bột sắn có lợi thế cạnh tranh cao và thị trường sắn là triển
vọng. Sự kết hợp giữa phát triển sản xuất và chế biến sắn làm tinh bột,
thức ăn gia súc và làm cồn sinh học đã tạo ra nhiều việc làm, tăng xuất
khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và góp phần vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa một số khu vực nông thôn.


23
Bảng 1.7 . Diện tích và năng suất của một số giống sắn đang sử dụng
ở Việt Nam
Giống
Diện tích thu
hoạch năm 2008
Năng suất củ tƣơi
(tấn/ha)
Tỷ lệ
tinh bột
%
Năng
suất tinh
bột
(tấn/ha)
Sản lƣợng
củ tƣơi
(1000 tấn)
1000ha
%
Trung
bình
Tối đa
KM94
420
75,54
16,9
33,0
28,7
9,5

7.098
KM140
30
5,4
20,0
35,0
28,7
10,0
600
KM98-5
25
4,5
20,6
34,5
28,5
9,8
515
KM98-1
18
3,24
20,3
32,2
27,6
8,9
365
SM937-26
15
2,7
19,8
32,2

28,9
9,3
297
KM98-7
8
1,44
17,0
31,6
27,5
8,7
136
HL23
6
1,08
13,5
16,5
25,3
4,2
81
XVP
15
2,7
12,0
15,1
26,5
4,0
180
Giống khác
19
3,4

6,5
14,9
25,4
3,8
124
Tổng số
556
100




9.396
Nguồn: Nguyễn Văn Bộ, Hoàng Kim tổng hợp năm 2009 [11].
Tại Việt Nam cây sắn được coi là cây trồng chính cung cấp nguồn
nhiên liệu cho sản xuất năng lượng sinh học. Bộ Công thương đã hoàn thiện
việc quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu cho năng lượng sinh học. Khi
chương trình NLSH của Nhà nước vận hành, các nhà máy sản xuất ethanol
sẽ tiêu thụ một khối lượng sắn rất lớn. Dự kiến năm 2012, sản xuất ethanol
sẽ tiêu thụ 16% sản lượng sắn, năm 2015 chiếm 35%, năm 2020 chiếm 41%,
đến năm 2025 chiếm 48%. Các tính toán này dựa vào dự báo nhu cầu xăng
tăng 8,5%/năm; năm 2012 áp dụng E5, năm 2015 áp dụng E10; sản lượng
sắn tăng 5%/năm. Sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp NLSH
làm thay đổi kết cấu thị trường sắn Việt Nam theo hướng có lợi cho nông
nghiệp và nông thôn [6].

24
Hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về chọn tạo giống đạt kết
quả tốt, nhờ đó mà nhiều giống sắn mới được đưa vào sản xuất như KM60,
KM94, KM95, KM95-3, SM937-26, KM98-1, KM98-5, KM98-7, KM140 đã

thực sự mang lại lợi nhuận cao cho nông dân trên diện rộng, cho nên tạo được
công ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa và
miền núi, đồng thời tăng sức cạnh tranh của tinh bột sắn xuất khẩu và các sản
phẩm khác chế biến từ sắn trên thị trường trong và ngoài nước.
Những tiến bộ vượt bậc về công tác chọn tạo giống sắn trên thế giới và ở
Việt Nam đã khẳng định ý nghĩa quan trọng của phương pháp tuyển chọn
giống sắn thích hợp theo vùng khí hậu, đất đai và tạo nguồn vật liệu khởi đầu
phong phú để tạo nên sự đột phá về năng suất. Công tác thực nghiệm tuyển
chọn giống sắn trên đồng ruộng chỉ có kết quả khi bảo đảm vững chắc được cơ
sở di truyền những tính trạng nông học.
.

25
Chƣơng 2
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Thí nghiệm thực hiện trên 11 dòng, giống sắn khác nhau, cụ thể:
1. Sắn lá tre ( Đ/C)
7. NTB – 2
2. GM 444 – 2
8. NTB – 1
3. Rayong – 9
9. NTB – 3
4. KM 98 – 7
10. KM 94
5. SVN - 12
11. NA 1
6. KM 21 - 12


2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 04 năm 2011 đến tháng 12 năm 2011.
- Địa điểm: Tại xã Thượng Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các dòng,
giống sắn thí nghiệm.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng,
giống sắn thí nghiệm.
- Nghiên cứu các chỉ tiêu chất lượng của các dòng, giống sắn thí nghiệm.
- Sơ bộ phân tích hiệu quả kinh tế các dòng, giống sắn thí nghiệm.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm gồm 11 công thức bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn
chỉnh (RCBD), nhắc lại 3 lần.
- Diện tích mỗi ô thí nghiệm: 5m x 5m = 25m
2
.
Tổng diện tích thí nghiệm: 825m
2
.
- Các công thức thí nghiệm gồm:

×