Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Nghiên cứu khả năng sản xuất của hai dòng ngan V71, V72 và con lai V712

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 121 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM







NGUYỄN QUỐC HẠNH






NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SẢN XUẤT
CỦA HAI DÒNG NGAN V71, V72 VÀ CON LAI V712








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP











THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN QUỐC HẠNH





NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SẢN XUẤT
CỦA HAI DÒNG NGAN V71, V72 VÀ CON LAI V712





Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. TRƢƠNG HỮU DŨNG
2. TS. PHÙNG ĐỨC TIẾN





THÁI NGUYÊN - 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp
đỡ của tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm nghiên cứu Gia cầm – Thuỵ
Phƣơng – Viện Chăn Nuôi, số liệu thông tin chƣa từng đƣợc công bố trong
bất cứ công trình nào khác.

Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về những số liệu trong bản luận văn này. Các thông tin trích dẫn đã
đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn



Nguyễn Quốc Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN
Để có đƣợc công trình nghiên cứu này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và
kính trọng sâu sắc tới Ban giám đốc, tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm
nghiên cứu gia cầm Thụy Phƣơng – Viện Chăn nuôi; Khoa sau đại học Đại
học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực tập, thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. TRƢƠNG HỮU DŨNG – Đại học Thái
Nguyên, TS PHÙNG ĐỨC TIẾN – Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Gia cầm
Thụy Phƣơng, Cô TRẦN THỊ CƢƠNG – Trạm trƣởng trạm nghiên cứu chăn
nuôi thuỷ cầm - Trung tâm nghiên cứu Gia cầm Thụy Phƣơng, đã đầu tƣ nhiều
công sức và thời gian chỉ bảo tận tình tôi thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lời biết ơn chân thành các thầy, các cô đã giúp
tôi nâng cao trình độ trong quá trình học tập.
Nhân dịp này tôi bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn




Nguyễn Quốc Hạnh







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt v
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
1.1.1. Ảnh hƣởng của di truyền và ngoại cảnh đến khả năng sản xuất 3
1.1.2. Cơ sở khoa học của nghiên cứu lai kinh tế 4
1.1.3. Cơ sở di truyền của ƣu thế lai 10
1.1.4. Cơ sở di truyền của năng suất trứng và chất lƣợng trứng 16
1.1.5. Những yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng sinh sản của ngan 17

1.1.6. Cơ sở khoa học của khả năng sinh trƣởng, tiêu tốn thức ăn và cho thịt . 22
1.1.7. Khả năng sản xuất thịt 32
1.1.8. Cơ sở khoa học về sức sống, ƣu thế lai về sức sống và khả năng
kháng bệnh 34
1.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất ngan trên thế giới và ở trong nƣớc 36
1.2.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất ngan trên thế giới 36
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngan ở trong nƣớc 38
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 44
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 44
2.1.1. Đối tƣợng 44
2.1.2. Địa điểm 44
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 44
2.2. Nội dung nghiên cứu 44
2.2.1. Trên đàn ngan sinh sản 44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.2.2. Trên đàn ngan thƣơng phẩm 44
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 45
2.3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 45
2.3.2. Chế độ dinh dƣỡng 45
2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi 46
2.3.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu 53
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 54
3.1. Kết quả nghiên cứu khả năng sản xuất trên đàn ngan bố mẹ 54
3.1.1. Tỷ lệ nuôi sống đàn ngan bố mẹ từ 1-24 tuần tuổi: 54
3.1.2. Khối lƣợng dàn ngan bố mẹ từ 1-24 tuần tuổi 56
3.1.3. Khối lƣợng cơ thể ngan bố mẹ giai đoạn sinh sản 63

3.1.4. Tỷ lệ đẻ, khả năng sinh sản, tiêu tốn thức ăn/10trứng của đàn
ngan bố mẹ 64
3.1.5. Khảo sát chất lƣợng trứng của đàn ngan bố mẹ 67
3.1.6. Tỷ lệ trứng có phôi, kết quả ấp nở và ƣu thế lai 68
3.2. Kết quả nghiên cứu khả năng sản xuất của ngan thƣơng phẩm 70
3.2.1. Đặc điểm ngoại hình và kích thƣớc các chiều đo 70
3.2.2. Tỷ lệ nuôi sống và ƣu thế lai của đàn ngan thƣơng phẩm 72
3.2.3. Khối lƣợng cơ thể qua các tuần tuổi và ƣu thế lai 74
3.2.4. Sinh trƣởng tuyệt đối và tƣơng đối ngan thƣơng phẩm từ 1-11
tuần tuổi 77
3.2.5. Hiệu quả chuyển hoá thức ăn và ƣu thế lai của đàn ngan thƣơng phẩm 81
3.2.6. Chỉ số sản xuất (PN) 82
3.2.7. Chỉ số kinh tế (EN) 83
3.2.8. Kết quả mổ khảo sát của đàn ngan thƣơng phẩm 84
3.2.9. Kết quả sản xuất thịt hơi của 1 ngan mái mẹ ở 1 chu kỳ (6,5 tháng đẻ) 87
3.2.10. Chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và hiệu quả chăn nuôi trong nông hộ 89
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

cs: Cộng sự
STT: Số thứ tự
ĐVT: Đơn vị tính
TĂ: Thức ăn
TL: Tỷ lệ

TLNS: Tỷ lệ nuôi sống
TT: Tuần tuổi
TTTĂ: Tiêu tốn thức ăn
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
NS: Nuôi sống
TB: Trung bình
ME: Năng suất trao đổi
kgTĂ/kgTKL: kg thức ăn/kg tăng khối lƣợng
Ca: Can xi
P: Phốt pho




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Chế độ dinh dƣỡng của ngan sinh sản 46
Bảng 2.2: Chế độ dinh dƣỡng nuôi ngan thƣơng phẩm 46
Bảng 3.1: Tỷ lệ nuôi sống đàn ngan bố mẹ từ 1-24 tuần tuổi 55
Bảng 3.2: Khối lƣợng đàn ngan bố mẹ từ 1-24 tuần tuổi 57
Bảng 3.3: Lƣợng thức ăn tiêu thụ cộng dồn cho một ngan bố mẹ từ 1-24 tuần tuổi 60
Bảng 3.4: Tuổi thành thục ngan bố mẹ và khối lƣợng trứng. 62
Bảng 3.5: Khối lƣợng cơ thể ngan bố mẹ giai đoạn sinh sản 63
Bảng 3.6: Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và tiêu tốn thức ăn/10 trứng của đàn ngan bố mẹ 64
Bảng 3.7: Kết quả khảo sát chất lƣợng trứng 67
Bảng 3.8: Tỷ lệ trứng có phôi, kết quả ấp nở và ƣu thế lai 69
Bảng 3.9: Kích thƣớc các chiều đo (cm) 71

Bảng 3.10: Tỷ lệ nuôi sống và ƣu thế lai 73
Bảng 3.11: Khối lƣợng cơ thể qua các tuần tuổi và ƣu thế lai 75
Bảng 3.12. Sinh trƣởng tuyệt đối và tƣơng đối ngan thƣơng phẩm 78
Bảng 3.13: Hiệu quả chuyển hoá thức ăn và ƣu thế lai (kgTĂ/kgTKL) 81
Bảng 3.14: Chỉ số sản xuất (PN) của đàn ngan thƣơng phẩm 83
Bảng 3.15: Chỉ số kinh tế (EN) của đàn ngan thƣơng phẩm 83
Bảng 3.16: Năng suất thịt của ngan thƣơng phẩm ở 11 tuần tuổi 85
Bảng 3.17: Thành phần hoá học của thịt (%) 86
Bảng 3.18: Kết quả sản xuất thịt hơi của 1 ngan mái mẹ ở 1 chu kỳ (6,5 tháng đẻ) 88
Bảng 3.19: Chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và hiệu quả chăn nuôi trong nông hộ 89


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Đồ thị khối lƣợng cơ thể qua các tuần tuổi 77
Hình 3.2: Đồ thị sinh trƣởng tuyệt đối 79
Hình 3.3: Đồ thị sinh trƣởng tƣơng đối 80



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, chăn nuôi ngan đã có từ lâu đời nhƣng chủ yếu là các
dòng ngan nội chƣa đƣợc chọn lọc, lai tạo nên năng suất thấp, khả năng đẻ

trứng chỉ đạt: 65-70 quả/mái/năm, khả năng cho thịt con mái: 1,7-1,8 kg; con
trống: 2,3-2,5 kg, thời gian nuôi thịt kéo dài: 120 ngày.
Trƣớc thực trạng đó từ năm 1993, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông
thôn đã giao cho Viện Chăn nuôi một số dòng Ngan R31, R51, R71 và siêu
nặng nhập từ Pháp về nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phƣơng.
Các dòng ngan này có khả năng sinh sản cao hơn ngan nội tới 2,5 lần, năng
suất trứng đạt 160-180 quả/mái/2 chu kỳ đẻ; tỷ lệ phôi 79-92%; ngan nuôi thịt
tại 84 ngày tuổi con mái đạt 2,3-2,7 kg, con trống đạt 4,3-4,8 kg. Sau quá
trình nghiên cứu đã đƣợc Bộ nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận
là một tiến bộ kỹ thuật và cho phép áp dụng vào sản xuất. Song trong điều
kiện kinh tế nƣớc ta còn khó khăn, giá nhập ngan giống hiện nay rất cao (60-
65 USD/một ngan ông bà) cho nên không thể thƣờng xuyên nhập đƣợc các
giống ngan mới. Để bảo tồn, nâng cao chất lƣợng con giống, đồng thời nhằm
giảm bớt đầu tƣ nhập giống và từng bƣớc chủ động đƣợc con giống thì việc
nghiên cứu chọn lọc tạo một số dòng ngan giá trị kinh tế cao của Việt Nam là
cấp bách, trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài.
Từ năm 2006 đến 2010 Bộ Nông nghiệp PTNT đã giao cho Viện Chăn
nuôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu chọn lọc tạo một số dòng ngan giá trị kinh
tế cao”. Kết quả đã tạo đƣợc 6 dòng ngan gồm: 3 dòng trống (V51, V71, VS1)
và 3 dòng mái (V52, V72, VS2) với các tính trạng về sinh trƣởng, sinh sản đạt
tƣơng đƣơng so với các nƣớc trong khu vực và thế giới, cụ thể: Dòng trống:
khối lƣợng cở thể ở 8 tuầ n tuổ i: Ngan V51 con trống: 3,02 kg, con mái: 2,17k
g. Ngan V71 con trống: 3,21 kg, con mái: 2,2 kg. Ngan VS1 con trống: 3,32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
kg, con mái: 2,3 kg. Dòng mái: năng suấ t trƣ́ ng/mái/2 chu kì đẻ : Ngan V52:
205,2 quả. Ngan V72: 202,4 quả. Ngan VS2: 188,2 quả.
Tuy vậy, các dòng ngan trên mới ở thế hệ thứ 3, mặc dù các tính trạng

sản xuất về khối lƣợng cơ thể và năng suất trứng đều tăng cao so với thế hệ
ban đầu, nhƣng hệ số biến dị và hệ số di truyền chƣa ổn định. Năm 2011-2012
Bộ Nông nghiệp và PTNT cho tiếp tục chọn lọc để củng cố ổn định các tính
trạng sản xuất của các dòng ngan trên ở thế hệ thứ 4 và 5. Vì vậy, chúng tôi
tiến hành đề tài: “Nghiên cứu khả năng sản xuất của hai dòng ngan V71,
V72 và con lai V712”
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá khả năng sinh sản của hai dòng ngan bố mẹ V71 và V72.
- Xác định đƣợc khả năng sản xuất của tổ hợp lai, từ đó lựa chọn đƣợc
tổ hợp lai tốt nhất, phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở miền Bắc.
3. Ý NGHĨA
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Cung cấp nguồn thông tin kỹ thuật về khả năng sinh sản của hai dòng
ngan bố mẹ V71 và V72.
- Cung cấp nguồn thông tin kỹ thuật của các tổ hợp lai giữa hai dòng
ngan V71 và V72.
- Kết quả của đề tài là nguồn tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu khoa
học và đào tạo ở các Viện nghiên cứu và các trƣờng Đại học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài góp phần hoàn thiện quy trình chăn nuôi ngan ở Việt
Nam và áp dụng chăn nuôi đại trà trong các nông hộ.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Ảnh hưởng của di truyền và ngoại cảnh đến khả năng sản xuất
Nghiên cứu các tính trạng sản xuất của gia cầm không thể không
nghiên cứu các đặc điểm di truyền và ảnh hƣởng của những tác động ngoại
cảnh lên các tính trạng đó. Hầu hết các tính trạng sản xuất là các tính trạng số
lƣợng. Cơ sở di truyền của tính trạng số lƣợng cũng là các gen nằm trên
nhiễm sắc thể qui định.
Theo Nguyễn Ân và cs, 1983[3] thì các tính trạng năng suất thƣờng là
các tính trạng số lƣợng còn gọi là tính trạng đo lƣờng đƣợc (Metric Character)
nhƣ khối lƣợng cơ thể, kích thƣớc các chiều đo, sản lƣợng trứng, khối lƣợng
trứng Các tính trạng số lƣợng thƣờng bị chi phối bởi nhiều gen (Hiện tƣợng
này gọi là hiện tƣợng đa gen (Polygenes), Các gen này hoạt động theo ba
phƣơng thức:
- Cộng gộp: Hiệu ứng tích luỹ của từng gen (A).
- Trội: Hiệu ứng do tƣơng tác giữa các gen cùng một lô cut.
- Át gen: Hiệu ứng do tƣơng tác, do các gen không cùng một lô cút.
Hiệu ứng cộng gộp A (Additueeffect) là do giá trị giống di truyền có
thể tính toán đƣợc có ý nghĩa trong chọn lọc nhân thuần.
Hiệu ứng trội D (Dominante) và át gen I (Epistatique in teration) là giá trị
giống đặc biệt không thể xác định đƣợc chỉ có thể xác định đƣợc qua thực
nghiệm, có ý nghĩa trong lai giống, do đó kiểu di truyền đƣợc xác định:
G = A + D + I
Các tính trạng số lƣợng còn chịu ảnh hƣởng nhiều của môi trƣờng E
(Environment), có hai loại môi trƣờng chính:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
- Môi trƣờng chung Eg (general Environment) tác động thƣờng xuyên
để tất cả các cá thể trong quần thể một cách lâu dài.

- Môi trƣờng riêng Es (special Envionment) tác động đến bộ phận riêng
biệt của một số cá thể riêng biệt nào đó trong quần thể trong một thời gian ngắn.
Eg và Es còn đƣợc phân chia các ảnh hƣởng cố định (Permenent) và tạm thời
T (Temporal) và E đƣợc xác định:
E = Egp + Egt + Esp + Est
Từ đó nếu bỏ qua mối tƣơng tác giữa di truyền và ngoại cảnh thì mối
quan hệ của kiểu hình P (Phenotype), kiểu gen G (Genotype) và môi trƣờng
của một cá thể biểu hiện nhƣ sau:
P = G + E
Và có thể tính:
P = A + D + I + Eg + Es
Qua phân tích trên cho thấy các giống gia cầm cũng giống nhƣ những
giống sinh vật khác đều nhận đƣợc ở bố mẹ một số gen quyết định tính trạng
số lƣợng nào đó, đƣợc xem nhƣ nhận từ bố mẹ một khả năng di truyền, nhƣng
khả năng đó có phát huy đƣợc hay không còn phụ thuộc vào môi trƣờng sống nhƣ
chế độ chăm sóc, nuôi dƣỡng, quản lý và trong đó quan trọng nhất là thức ăn.
1.1.2. Cơ sở khoa học của nghiên cứu lai kinh tế
Lai kinh tế là lai giữa hai cơ thể thuộc hai dòng khác nhau cùng giống,
khác giống hoặc thuộc hai giống khác loài (chủng) để sử dụng con lai F1
làm sản phẩm, con lai này không để làm giống mà chỉ để lấy sản phẩm thịt,
sữa, trứng… Lai kinh tế đƣợc gọi là lai công nghiệp vì chỉ dùng đời F1 làm
sản phẩm, nên sản phẩm có thể sản xuất nhanh, hàng loạt, có chất lƣợng trong
một đơn vị thời gian tƣơng đối ngắn (Trần Đình Miên và cs, 1995[30]).
Tiến hành lai kinh tế để sử dụng ƣu thế lai vì ƣu thế lai làm tăng mức
trung bình tính trạng giữa hai giống gốc, hai dòng thuần, nhất là đối với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
tính trạng khối lƣợng, tăng khối lƣợng, tăng chiều dài, chiều ngang. Con lai

có thể mang những đặc tính trội của giống gốc bố, con lai có thể phối hợp
đƣợc những đặc tính của hai giống gốc, con lai có thể vẫn còn giữ nguyên
tính bảo thủ của một trong hai giống gốc.
Năng suất vật nuôi phụ thuộc hai yếu tố, đó là bản chất di truyền và
ngoại cảnh. Do vậy, trong chăn nuôi có hai hƣớng chủ yếu để nâng cao năng
suất vật nuôi, đó là:
- Cải tiến bản chất di truyền của vật nuôi.
- Cải tiến phƣơng pháp chăn nuôi.
Bên cạnh việc nhân giống thuần chủng đối với việc cải tiến bản chất di
truyền của vật nuôi, thông qua con đƣờng lai tạo có hiệu quả trong thời gian
ngắn. Trong công tác giống kể từ những giống vật nuôi đầu tiên đƣợc tạo ra
từ cuối thế kỷ 18, các giống mới thƣờng đƣợc hình thành bằng con đƣờng lai
tạo và những giống gốc ban đầu ít nhiều có pha máu giữa nhiều giống khác
nhau, cho đến nay việc tạo ra sản phẩm các loại nhƣ: thịt, sữa, trứng, lông
phần lớn cũng đều đƣợc thông qua lai tạo và việc lai tạo cũng đã có ảnh hƣởng tốt
đến sản lƣợng và chất lƣợng của sản phẩm (Nguyễn Văn Thiện, 1995)[39].
Trong lịch sử nghiên cứu về lai tạo, Darwin là ngƣời đầu tiên đã nêu lên
lợi ích của lai tạo và đã đi đến kết luận là lai có lợi, tự giao là có hại đối với
động vật. Lai tạo còn nhằm sử dụng hiện tƣợng sinh học quan trọng đó là ƣu
thế lai (Hetorosis) làm cho sức sống của con vật, sức miễn kháng đối với bệnh
tật và các tính trạng kinh tế đƣợc nâng cao, đồng thời thông qua các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật của tổ hợp lai, ƣu thế lai làm căn cứ cho việc chọn lọc giống
gia súc (Lê Đình Lƣơng và cs, 1994)[25].
Trong quá trình nghiên cứu di truyền, nguyên tắc hoàn toàn mới đƣợc
Mendel đƣa vào để nghiên cứu, đó là phƣơng pháp lai, liên quan đến việc
nghiên cứu đặc điểm di truyền của từng tính trạng và đặc tính riêng rẽ. Phƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

pháp này do ông phát hiện và hình thành nên những qui luật cơ bản của di
truyền, Petrop D.Ph, 1984[41]. Theo Trần Đình Miên và cs, 1992[29] thì căn
cứ vào mục đích của lai tạo, ngƣời ta thƣờng áp dụng những phƣơng pháp lai
khác nhau nhƣ: Lai kinh tế, lai luân chuyển, lai cải tiến (lai pha máu), lai cải
tạo, lai phối hợp (lai tạo thành), lai kinh tế là phƣơng pháp phổ biến nhất.
Để tạo những tổ hợp lai có năng suất cao từ hai, ba hoặc bốn dòng. Lai
kinh tế có lai đơn giản và lai phức tạp. Quá trình nghiên cứu lai kinh tế ngƣời
ta quan tâm tới khả năng phối hợp (Nicking). Đó là cách chọn những con
giống gốc lai với nhau nhằm tạo nên những tổ hợp gen mới, các tính trạng
vốn có ở giống gốc nhƣng ở mức cao hơn theo mục đích thể hiện ở con lai.
Theo tài liệu của Lê Thanh Hải, 1978[14], Segee và các tác giả khác, đã trình
bày các cơ sở di truyền của việc chọn giống gia cầm về khả năng phối hợp,
cũng nhƣ xem xét một loạt vấn đề có liên quan tới việc đánh giá hệ số di
truyền các tính trạng khác nhau trong khi lai gia cầm.
Để lai kinh tế có hiệu quả phải chọn lọc tốt các dòng thuần, trong quần
thể, các cá thể dị hợp tử sẽ giảm đi và các cá thể đồng hợp tử sẽ tăng lên,
(Nguyễn Ân và cs, 1983)[3]. Giống gia súc, gia cầm là một quần thể gia súc
gia cầm lớn. Trong giống lại bao gồm các dòng, mỗi dòng có đặc điểm chung
của giống, nhƣng lại có đặc điểm di truyền riêng biệt. Sự khác biệt mỗi dòng
về kiểu gen chính là yếu tố quyết định sẽ làm xuất hiện ƣu thế lai, nhƣng nếu
sự khác biệt quá xa thì khi cho lai không có sự kết hợp (Nicking). Ngƣời ta lai
các dòng khác biệt về kiểu gen, nhƣng lại có khả năng kết hợp đƣợc trong
cùng một cơ thể sinh vật. Chính vì vậy, phải chọn những dòng trong các
giống, hoặc các dòng trong cùng một giống có khả năng kết hợp.
Theo tài liệu của Abtopute, 1968[70] thì Dial (1952) chỉ ra rằng: muốn
đạt đƣợc ƣu thế lai siêu trội thì phải cho giao phối các dòng xuất phát khác
nhau về kiểu gen, nhƣng lại phải có khả năng kết hợp tốt với nhau.
Bằng cách phối hợp tốt những dòng đã đƣợc quy định và qua cách lai
này, ngƣời ta đạt đƣợc hiệu quả tốt của ƣu thế lai (Heterosis) ở thế hệ sau.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Gia cầm lai do sự giao phối giữa hai hay nhiều dòng trong cùng một
giống hay nhiều giống phôí hợp đƣợc nhiều đặc trƣng kinh tế có lợi, vì vậy
mỗi chức năng sinh lý sinh hoá của chúng đƣợc tăng cƣờng và do đó năng
suất càng đƣợc tăng lên.
Trong việc lai giữa dòng ngƣời ta dùng nhiều phƣơng pháp chọn giống
khác nhau làm cho sự phối hợp giữa các dòng mang lại đƣợc hiệu quả của ƣu
thế lai. Không phải bất cứ dòng nào đem lai cũng đạt đƣợc hiệu quả của ƣu
thế lai theo ý muốn. Ngƣời ta chỉ cho lai những dòng có khả năng phối hợp
tốt. Để xác định đƣợc khả năng phối hợp đó, ngƣời ta dùng phƣơng pháp cho
phối giống giữa các dòng rồi kiểm tra đánh giá chất lƣợng thế hệ sau.
Hiệu quả của phƣơng pháp lai giữa dòng cao hơn nhiều so với phƣơng
pháp nhân giống thuần chủng. Theo phƣơng pháp nhân giống thuần chủng,
công tác chọn giống đƣợc tiến hành kĩ càng, đàn giống sinh sản đƣợc chọn lọc
những cá thể có năng suất cao hơn hẳn năng suất bình quân toàn đàn ấy đều
có chất lƣợng tốt. Ngƣời ta đã quan sát thấy rằng con của gia cầm mái có
năng suất cao hơn một chút đó không phải là đã đẻ nhiều trứng hơn so với
con của những gia cầm mái có năng suất thấp hơn. Bởi vì những con gia cầm
ấy đều xuất phát từ những con mẹ có năng suất đẻ trứng thấp. Theo cách làm
đó, mặc dầu đã tập trung nhiều sức lực để đẩy mạnh công tác nhân giống
thuần chủng lên, ngƣời ta thấy rằng năng suất đẻ trứng trong toàn đàn, trên
thực tế không tăng đáng kể mà chỉ dao động ở mức nhất định. Trong khi đó
trong đàn khi nào cũng xuất hiện những cá thể có năng suất đẻ trứng cao hơn
hẳn năng suất bình quân toàn đàn. Bởi vậy muốn nâng cao chất lƣợng, năng
suất của gia cầm, không thể dùng phƣơng pháp chọn giống hàng loạt theo đàn
mà phải dùng phƣơng pháp chọn giống theo dòng bằng cách đánh giá năng
suất và chất lƣợng của thế hệ sau. Nhƣng việc chọn giống theo dòng đó cũng
có giới hạn nhất định phụ thuộc vào những qui luật sinh vật học. Một dòng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
khó có thể đạt đƣợc năng suất tối đa với mọi đặc trƣng kinh tế có lợi, vì vậy
ngƣời ta phải cho lai. Lai nghĩa là cho giao phối giữa hai, ba hay nhiều dòng
tuỳ theo chất lƣợng và mục đích chọn giống hoặc dùng để sản xuất thịt trứng,
phối hợp đó gọi là những gia cầm lai giữa dòng.
Muốn đạt đƣợc sự phối hợp cao giữa các dòng, công thức chọn giống
phải đi theo một hƣớng nhất định, nếu không thì sự phối hợp giữa các dòng sẽ
kém về năng suất và chất lƣợng của thế hệ con lai sẽ giảm sút. Bởi vậy ngƣời
ta không thể tạo đƣợc ra những gia cầm lai tốt bằng cách cho giao phối một
cách tình cờ và tuỳ tiện giữa các dòng. Muốn gia cầm lai có năng suất cao,
phải cho giao phối giữa các dòng đã đƣợc qui định, những dòng này đã đƣợc
phối hợp về chất lƣợng năng suất theo một phƣơng pháp chọn giống nhất định
và đƣợc thực hiện trong những cơ sở giống.
Gia cầm lai không những chỉ thể hiện đƣợc chất lƣợng tổ hợp của những
dòng thuần mà còn đạt đƣợc hiệu quả của ƣu thế lai 5-20%. Có thể nói đây là
sự ƣu đãi của thiên nhiên mà con ngƣời có thể sử dụng tốt, nếu nắm đƣợc quy
luật của phƣơng pháp này và biết cách tổ chức sản xuất và sử dụng các gia
cầm lai giữa dòng là một trong những vấn đề quan trọng nhất (Hoàng Kim
Loan biên soạn theo tạp chí “Ptixevodstvo” số 4, 1973)[22].
Theo Phan Cự Nhân, 1971[31], gia cầm lai cũng là một phƣơng pháp
phổ biến ở nhiều nƣớc vì ngƣời ta đã xác định rõ về mặt di truyền là gia cầm
dị hợp tử có năng suất cao hơn gia cầm đồng hợp tử.
Trong tất cả những khía cạnh phân tích trên thì vấn đề ở chỗ lựa chọn
những con giống có những giá trị di truyền cộng tính mạnh nhất. Nhƣng
chúng ta cũng thấy rằng, đối với một số tính trạng nào đó nhất là những tính
trạng về sinh sản phần phƣơng sai cộng tính trong phƣơng sai tổng cộng là rất
nhỏ, nhƣ vậy là có rất ít sai khác về giá trị cộng tính giữa những cá thể cấu

thành quần thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Trong những điều kiện đó, điều logich là tìm cách sử dụng những thành
phần không cộng tính của giá trị tức là những mối tác động qua lại ( tính trội
và những mối tác động qua lại giữa các lôcut). Những mối tác động qua lại
này chủ yếu thể hiện qua hiện tƣợng ƣu thế lai đƣợc quan sát thấy ở những cở
thể lai. Những phƣơng pháp chọn giống tìm cách sử dụng nguồn biến dị đó
chủ yếu dựa vào sự lai giống. Ngƣời ta có thể dùng lai giữa các dòng, hay tạo
ra cả những dòng đồng huyết và cho chúng lai với nhau, Nguyễn Quang Thái
(Giangmisengu) (1982)[36].
Hiện nay nhiều hãng gia cầm lớn với trang thiết bị kĩ thuật hiện đại đi
vào sản xuất, thích ứng với trang thiết bị đó và để tăng năng suất trứng và
năng suất thịt, hầu hết các nƣớc có ngành chăn nuôi gia cầm phát triển đều
không chỉ sử dụng gia cầm lai giữa giống, vì chúng không còn đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi về năng suất của ngành chăn nuôi gia cầm theo qui mô công
nghiệp chuyên môn hoá. Vì vậy hiện nay ngƣời ta chú ý rất nhiều đến phƣơng
pháp lai giữa dòng.
Trong chăn nuôi gia cầm, tuỳ theo điều kiện và mục đích khác nhau mà
ngƣời ta sử dụng lai đơn hay lai kép.
* Lai đơn:
Là phƣơng pháp lai kinh tế đơn giản nhƣng vẫn phát huy tốt ƣu thế lai.
Lai đơn thƣờng đƣợc áp dụng để lai giữa một số giống cao sản có năng suất
thịt hoặc trứng cao với một số giống có tầm vóc nhỏ, năng suất thấp hơn
nhƣng lai có khả năng tận dụng thức ăn cao, khả năng chống chịu bệnh và
ngoại cảnh cao.
Đối với vịt, Rudolp (1965)[104], Lunchmann (1975)[102] đã lai vịt Call
với vịt Bắc Kinh, vịt chạy Ấn Độ (Coureur Indian) với vịt Khaki Campbell

đƣợc con lai có tầm vóc nhỏ hơn nhƣng có năng suất thịt ức cao.
Ở Indonesia ngƣời ta cho lai giống vịt Alabio với vịt Bắc Kinh để tạo
con lai phát huy đƣợc những đặc điểm tốt của cả hai giống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Ở Việt nam nhiều tác giả đã cho lai vịt Anh Đào với vịt Cỏ (Lê Xuân
Đồng và cs 1989)[10], vịt Bắc Kinh với vịt Bầu (Đào Đức Long, 1973[23];
Vũ Tuyên Hoàng và cs, 1990[19]; Nguyễn Song Hoan, 1993[18]) để tạo con
lai thƣơng phẩm có năng xuất thịt cao hơn các giống vịt nội. Phạm Văn
Trƣợng (1995)[64] đã cho lai vịt CV.Super với vịt Anh Đào Hung và vịt Anh
Đào Tiệp đã cho năng suất siêu trội vƣợt so với trung bình bố mẹ chúng từ
4,19- 5,48%.
Lai đơn còn đƣợc áp dụng lai giữa hai dòng trong cùng một giống, hoặc
hai giống khác nhau để tạo con lai thƣơng phẩm có năng suất không chỉ hơn
bố hoặc mẹ, mà thậm chí có thể cao hơn cả bố và mẹ ở một vài tính trạng.
Lai khác loài giữa ngan và vịt cũng có nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng
nhƣ Pháp, Đức, Đài Loan, Italia
* Lai kép:
Là phƣơng pháp lai phức tạp hơn. Ngƣời ta thƣờng dùng ba, bốn dòng
trong cùng một giống hoặc ba, bốn giống khác nhau để tạo tổ hợp lai phát huy
đƣợc khả năng phối hợp và ƣu thế lai cao nhất.
Đặng Hữu Lanh (1985)[21] cũng đã tiến hành lai kinh tế 3 giống (Cỏ x
Bầu) x Anh Đào để tạo con lai có năng suất cao hơn.
1.1.3. Cơ sở di truyền của ưu thế lai
1.1.3.1. Khái niệm về ưu thế lai
Ƣu thế lai là hiện tƣợng sinh học biểu hiện ở sự phát triển mạnh mẽ có
thể của những cá thể do lai tạo những con gốc không cùng huyết thống. Cũng
có thể hiểu ƣu thế lai theo nghĩa toàn bộ tức là sự phát triển toàn khối của cơ

thể con vật, sự gia tăng cƣờng độ trong quá trình trao đội chất, sự tăng thêm
của các tính trạng sản xuất Mặt khác có thể ƣu thế lai theo từng mặt từng
tính trạng một, có khi chỉ là một vài tính trạng phát triển còn các tính trạng
khác giữ nguyên, có tính trạng giảm đi, Trần Đình Miên và cs, 1995[30].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Nói chung, ngƣời ta có thể biểu thị ƣu thế lai là sự tăng sức sống và
tăng cƣờng thể trọng, trong đó các cá thể lai khác loài, khác giống và khác
dòng thƣờng vƣợt cả hai bố mẹ chúng. Ƣu thế lai có thể biểu hiện qua hiện
tƣợng sinh trƣởng nhanh hơn, kích thƣớc cơ thể tăng lên, sức sản xuất, sức
sống tăng, Phan Cự Nhân, (Hutt FB), 1978[33].
Theo Nguyễn Phúc Giác Hải, Lasley J.F (1974)[13], ƣu thế lai là hiện
tƣợng sinh học chỉ sự tăng sức sống của đời con so với bố mẹ khi có sự giao
phối giữa cá thể không thân thuộc. Ƣu thế lai không chỉ bao gồm sức chịu
đựng, nó bao hàm sự giảm độ tử vong, tăng tốc độ sinh trƣởng, tăng sức sản
xuất và độ mắn đẻ, vì vậy ngƣời ta xem hiện tƣợng đó nhƣ một sinh lực.
Theo Lê Đình Lƣơng và cs, 1994[25], khi lai các loài, chủng, giống
hoặc các dòng nội khác nhau phối với nhau thì dạng lai F1 thƣờng vƣợt các
dạng bố mẹ ban đầu về tốc độ sinh trƣởng, về khả năng sử dụng chất dinh
dƣỡng, tính chống chịu bệnh tật. Ƣu thế lai làm tăng sức sống, sức chịu đựng
về năng suất của đời con do giao phối không cận huyết và nuôi trong điều
kiện khác nhau. Theo Nguyễn Ân và cs (1969)[4] cho rằng ƣu thế lai có nghĩa
là sự tăng trƣởng và phát triển mạnh mẽ ở đời con, tính chịu đựng và năng
suất của nó cao hơn so với các dạng bố mẹ.
Nhìn chung ƣu thế lai là một hiện tƣợng sinh học thể hiện trên nhiều
mặt, thế hệ lai hơn hẳn bố mẹ về tốc độ sinh trƣởng, khả năng sinh sản, khả
năng sống, chất lƣợng thịt, khối lƣợng trứng, thời gian của chu kỳ đẻ trứng,
sự chuyển hoá thức ăn và những đặc tính kinh tế có lợi khác, từ đó năng suất

con lai đƣợc nâng lên.
Theo Nguyễn Ân và cs, 1983[3] trong chăn nuôi việc lai các cá thể khác
dòng, khác giống, khác chủng nói chung đã có xuất hiện ƣu thế lai ở các tính
trạng sản xuất. Ƣu thế lai trong chăn nuôi thể hiện đa dạng khó xếp loại thật
rành mạch, nhƣng một điều thể hiện rõ nhất là: con lai F1 có ƣu thế lai cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
hơn so với bất kỳ con lai nào ở các thế hệ tiếp theo là F2, F3 Fn, song dựa
vào sự biểu hiện của tính trạng mà ngƣời ta thấy ƣu thế lai ở động vật có thể
phân thành các loại nhƣ sau:
- Con lai F1 vƣợt bố mẹ về khối lƣợng và sức sống.
- Con lai F1 có khối lƣợng cơ thể ở mức độ trung gian giữa hai
giống song khả năng sinh sản và sức sống có thể hơn hẳn bố mẹ.
- Con lai F1 trội hơn bố mẹ về thể chất, vững chắc tuổi thọ, sức làm
việc, song nó mất một phần hoặc hoàn toàn khả năng sinh sản.
- Một dạng ƣu thế lai đặc biệt là từng tính trạng riêng rẽ có khả năng
di truyền theo typ trung gian, song có khi liên quan đến sản phẩm cuối
cùng thì lại khác.
Để xác định biểu hiện ƣu thế lai phần lớn các tác giả nhƣ Falconer P.S
(1960)[80]; Nguyễn Phúc Giác Hải, Lasley J.F (1974)[13], Trần Đình Miên,
Nguyễn Văn Thiện (1995)[30] ƣu thế lai là sự khác biệt (hiệu) giữa giá trị tính
trạng của con lai so với bố mẹ thƣờng là vƣợt trên trung bình của bố mẹ:
M mẹ + M bố
M con lai >
2
Theo Nguyễn Phúc Giác Hải, Lasley J.F (1974)[13]: ƣu thế lai thƣờng
đƣợc biểu hiện bằng giá trị % và tính theo công thức sau:
F1 – (Bố + Mẹ)/2

H% = x 100
(Bố + Mẹ)/2
Theo Vũ Kính Trực (1972)[63] việc sử dụng ƣu thế lai đúng ra đƣợc
chú ý nghiên cứu từ trên 200 năm nay song trong tài liệu khoa học danh từ
“ƣu thế lai” mới đƣợc làm quen (1914) do Shull (nhà di truyền học Mỹ) đề
nghị sử dụng.
Trong lịch sử chăn nuôi ƣu thế lai đƣợc biểu hiện trong việc lai lừa với
ngựa tạo con la. Kết quả của con lai đƣợc tạo ra hơn hẳn gốc bố mẹ về nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
mặt: tầm vóc, sức thồ, sức dẻo dai, sức chịu đựng (Trần Đình Miên, Nguyễn
Văn Thiện, 1995[30]. Theo Phan Cự Nhân, (Hutt FB)[33], hiện ƣu thế lai
đƣợc phát hiện ở tất cả các gia súc, từ gia súc lớn nhất đến gia súc bé nhất.
1.1.3.2. Bản chất di truyền của ưu thế lai
Ƣu thế lai càng cao khi bố mẹ càng xa nhau, bản chất của ƣu thế lai vì
vậy đƣợc giải thích tập trung vào hai thuyết chính, Trần Đình Miên và cs,
1995[30]. Theo thuyết gen trội những tính trạng nhƣ sức sống, khả năng sinh
sản nói chung là những tính trạng số lƣợng do nhiều gen điều khiển, nên rất
hiếm có tỷ lệ đồng hợp. Thế hệ con đƣợc tạo ra do lai giữa hai cá thể sẽ đƣợc
biểu hiện do tất cả các gen trội trong đó một nửa thuộc gen trội đồng hợp của
cha mẹ và một nửa thuộc gen trội dị hợp. Khi cha mẹ xa nhau trong quan hệ
huyết thống (khác dòng, khác giống, khác loài) thì xác suất để mỗi cặp cha
mẹ truyền lại cho con những gen trội khác nhau càng tăng lên, từ đó mà dẫn
đến mức độ ƣu thế lai.
Theo thuyết siêu trội: hiệu quả của một alen ở trạng thái dị hợp thƣờng
khác với hiệu quả của từng alen này biểu hiện ở trạng thái đồng hợp. Cho nên
có thể có tính trạng ở trạng thái dị hợp (trạng thái trội) sẽ vƣợt lên bất kỳ dạng
nào. Trạng thái siêu trội có thể là do ở thể dị hợp sự tƣơng tác giữa hai alen sẽ

có tác động lớn lên kiểu hình. Trong phần lớn các trƣờng hợp alen trội là
thắng thế (Trần Đình Miên và cs, 1995[30]).
Theo tài liệu của Nguyễn Huy Đạt (1991), từ năm 1907 có một số quan
niệm cho rằng: cơ sở của ƣu thế lai chính là ở ngay tính dị hợp tử theo nhiều
nhân tố di truyền, Shull (1908-1952) và nhiều ngƣời khác. Các tác giả cho
rằng ở cùng một cứ điểm nếu nhiều alen khác nhau thì sẽ tăng nhiều khả năng
phụ trách các quá trình tổng hợp sinh hoá khác nhau, đảm bảo tốt hơn sự tiến
triển các chức năng sinh lý cần thiết cho cơ thể, giúp cho cơ thể dị hợp tử phát
triển hơn cơ thể thuần hợp tử. Kết quả nghiên cứu của Hull and Cole
(1973)[88] cho thấy cơ thể ở dạng Aa phát triển mạnh mẽ hơn cơ thể ở dạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
AA và aa. Ƣu thế lai của Aa là ở chỗ mỗi alen trong quá trình tổng hợp sinh
hoá đảm đƣơng một chức năng ít nhiều khác với alen cùng loại, kết quả là gây
ảnh hƣởng bổ sung cho nhau, từ đó tăng hiệu quả tác động. Theo tài liệu tổng
hợp của Lasley J.F (1974)[13] khi nghiên cứu về tính trạng số lƣợng cho thấy
những tính trạng số lƣợng có hiệu ứng xấu nhất khi có sự cận huyết thì lại thể
hiện mạnh mẽ nhất do ƣu thế lai và những tính trạng có h² cao dƣờng nhƣ ít
chịu ảnh hƣởng của ƣu thế lai. Trong khi đó những tính trạng có h² thấp lại
chịu ảnh hƣởng nhiều hơn. Mức độ ƣu thế lai càng phụ thuộc vào mức độ sai
khác di truyền của các cặp bố mẹ đem lại.
Kết hợp cả hai giả thuyết chúng ta thấy đó là quan niệm về sự thay đổi
trạng thai hoạt động hoá sinh của hệ thống enzim trong cơ thể sống, đó là
tính dị hợp và tƣơng tác với nhau của các cạp gen mới có ƣu thế lai.
Để hiểu rõ hơn hiện tƣợng của ƣu thế lai, Trần Đình Miên và cs, 1992
[29] đã cho biết ƣu thế lai phụ thuộc hai yếu tố: trạng thái hoạt động dị hợp
(d) và sự khác nhau giữa hai quần thể xuất phát (i):
HF1 = Rdy2HF2 = 1/2HF1HF3 = 1/4HF1

Ƣu thế lai cao nhất ở đời F1 rồi từ đó giảm dần nhƣ vậy đến các đời sau
ƣu thế lai giảm bớt nhiều có sự thay đổi trong sự tác động tƣơng hỗ và tƣơng
quan giữa các gen thuộc các lô cút khác nhau, hơn nữa biểu hiện của một tính
trạng nhƣ trên đã nói bao giờ cũng chịu ảnh hƣởng không những của kiểu di
truyền mà còn cả của ngoại cảnh, cho nên sự thay đổi trong quan hệ giƣã các
gen cũng xảy ra trong điều kiện ngoại cảnh nhất định. Nói cách khác, mức độ
ƣu thế lai cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào sự tƣơng quan âm hay dƣơng giữa
môi trƣờng và kiểu di truyền.
Kết quả nghiên cứu của Bridges (1975), Abuncataja (1962), Pincô B
(1968) cũng đã chứng minh đƣợc ƣu thế lai và có thể giải thích bằng thuyết dị
hợp tử và tính siêu trội. Dubinin viết “ khi thể nhiễm sắc từ trạng thái dị hợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
chuyển sang đồng hợp bao giờ cũng thấy hiện tƣợng giảm sức sống của cơ
thể, cho nên nếu trong quan niệm dạng dị hợp thể là cơ sở của ƣu thế lai, thì
chính dạng đó cũng đã bao hàm một sức mạnh mà ngƣời ta thƣờng gọi là sức
mạnh của ƣu thế lai”.
Ƣu thế lai thể hiện mức độ khác nhau ở các tính trạng số lƣợng thƣờng
đƣợc thể hiện, còn các tính trạng chất lƣợng ít đƣợc thể hiện và các tính trạng
có hệ số di truyền cao nhƣ: tốc độ mọc lông, tăng khối lƣợng, ít chịu ảnh
hƣỏng của ƣu thế lai.
* Khả năng phối hợp
Để có ƣu thế lai còn phải chọn cặp bố mẹ tốt, có khả năng phối hợp.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới Wassen (1928),
Kawahara (1960), Kusher (1954, 1958), Fomia (1964) và nhiều tác giả khác
đã cho rằng khi chọn đúng cặp bố mẹ cho giao phối thì ở con lai sức sống
phôi và hậu phôi, sản lƣợng trứng tăng nhiều và chi phí thức ăn giảm bớt,
Nguyễn Ân và cs, 1969[4].

Theo Trần Đình Miên và cs, 1992[29] cho thấy trong thực tế chăn nuôi
không phải giống dòng nào cho lai cũng có kết quả tốt, tức là khi chọn phối
các cặp bố mẹ phải có khả năng phối hợp. Khả năng phối hợp phụ thuộc vào
mức độ chọn lọc các giống gốc, nếu các giống gốc có áp lực chọn lọc cao, có
tiến độ di truyền (g) thì khi cho lai với nhau khả năng phối hợp sẽ đạt kết quả
tốt. Trong chăn nuôi gia cầm thịt với mỗi dòng khác nhau đều phải chọn lọc
chặt chẽ để có tổ hợp lai cho năng suất cao. Tuy nhiên khả năng phối hợp
cũng là một hiện tƣợng tổ hợp mới đƣợc tạo ra khi chọn phối, bởi vì thật ra
khả năng đó đã có sẵn nằm ở gen con đực và con cái và khả năng sẵn có đó
phải đƣợc những nhà chọn giống có nhiều kinh nghiệm phát hiện và chọn phối.
Ngoài quan niệm chung nhƣ đã nói còn có khả năng kết hợp đặc biệt,
khả năng kết hợp chung thƣờng là do hoạt động của các gen trội, gen lấn át,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
có cả ảnh hƣởng của sinh thái môi trƣờng, có tƣơng quan giữa môi trƣờng và
di truyền.
* Tương tác giữa nhân và tế bào chất
Theo Vũ Kính Trực (1972)[63], giữa tạp giao thuận và nghịch có mức chênh
lệch rất lớn, có khi ở mức độ khác nhau về chất lƣợng, nguyên nhân chính là:
- Có sự khác nhau về cấu trúc của tế bào chất của cơ thể gia súc mẹ.
- Do ảnh hƣởng sinh lý với những đặc điểm riêng của cơ thể mẹ đến con lai.
1.1.4. Cơ sở di truyền của năng suất trứng và chất lượng trứng
Đối với gia cầm sự di truyền về sinh sản cũng phức tạp, vì phải thông
qua hai khâu và chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố khác nhau: số lƣợng trứng
đẻ ra và số lƣợng trứng ấp nở đƣợc. Theo các công trình nghiên cứu của nhiều
tác giả, việc sản xuất trứng của gia cầm có thể do 5 yếu tố mang tính di truyền
ảnh hƣởng, đó là:
- Tuổi thành thục về sinh dục, ngƣời ta cho rằng ít nhất cũng có hai gen

chính tham gia vào yếu tố này: một là E (gen liên kết với giới tính) và e; còn cặp
thứ hai là E’ và e’. Gen trội E chịu trách nhiệm về tính thành thục về sinh dục.
- Cƣờng độ đẻ: yếu tố này do hai cặp gen R và r; R’ và r’ phối hợp,
cộng lại để điều hành.
- Bản năng đòi ấp, do 2 gen A và C điều khiển, phối hợp với nhau.
- Thời gian nghỉ đẻ do các gen M và m điều khiển.
- Thời gian kéo dài của chu kỳ đẻ do cặp gen P và p điều hành.
Yếu tố thứ 5 và yếu tố thứ nhất là hai yếu tố kết hợp với nhau, cũng có
nghĩa là các cặp gen Pp và Ee có phối hợp với nhau
Tất nhiên ngoài các gen chính tham gia vào việc điều khiển các yếu tố
trên, có thể còn có nhiều gen khác phụ lực vào.
Số lƣợng trứng có tƣơng quan di truyền âm với khối lƣợng cơ thể. Độ
lớn của trứng trái lại có tƣơng quan dƣơng với khối lƣợng cơ thể, cho nên khi

×