Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống ngô lai nhập nội tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––



NGUYỄN TRƢỜNG THỨC




NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
NHẬP NỘI TẠI THÁI NGUYÊN



CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ : 60. 62. 01. 10



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. TRẦN TRUNG KIÊN
2. PGS. TS. LUÂN THỊ ĐẸP





Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn này đều đã đƣợc nêu rõ
nguồn gốc.

Tác giả luận văn



Nguyễn Trường Thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành bản luận văn,
tôi luôn nhận đƣợc sự quan tâm giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, khoa Sau
Đại học Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng các tập thể, cá nhân
và gia đình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: PGS.TS. Luân Thị Đẹp, giảng viên khoa
Nông học, TS. Trần Trung Kiên, giảng viên khoa sau Đại học, trƣờng Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, đã trực tiếp hƣớng dẫn tận tình tôi trong suốt
thời gian tôi thực hiện đề tài này.

Tôi xin trân thành cảm ơn các em sinh viên ngành trồng trọt K39, đã
tham gia thực hiện, nghiên cứu cùng với tôi.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè, và
đồng nghiệp, những ngƣơi luôn động viên giúp đỡ trong suốt thời gian tôi học
tập và nghiên cứu vừa qua.
Thái nguyên, ngày tháng 10 năm 2012
Tác giả luận văn


Nguyễn Trường Thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các cụm từ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
MỞ ĐẦU 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
2. MỤC TIÊU 3
3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI 3
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN 3
4.1. Ý nghĩa khoa học 3
4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 5
1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 7
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 7

1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 12
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc 16
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô ở Thái Nguyên 19
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHỌN TẠO GIỐNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ
Ở VIỆT NAM 21
1.3.1. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế giới 21
1.3.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống ngô ở Việt Nam 28
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 34
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 34
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35
2.4.1. Thí nghiệm so sánh giống 35
2.4.1.1. Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm 35
2.4.1.2. Quy trình kỹ thuật 36
2.4.1.3. Các chỉ tiêu và phƣơng pháp theo dõi, đánh giá 37
2.4.2. Thu thập số liệu mô hình trình diễn 41
2.4.3. Phƣơng pháp xử lý số liệu 41
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42
3.1. KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC GIỐNG
NGÔ THÍ NGHIỆM VỤ ĐÔNG 2010 VÀ VỤ XUÂN 2011 42
3.1.1. Các giai đoạn sinh trƣởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm
vụ Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 42
3.1.1.1. Giai đoạn tung phấn 43
3.1.1.2. Giai đoạn từ gieo đến phun râu 44
3.1.1.3. Thời gian sinh trƣởng 45
3.1.2. Đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm vụ Đông 2010 và vụ

Xuân 2011 tại Thái Nguyên 45
3.1.2.1. Chiều cao cây 46
3.1.2.2. Chiều cao đóng bắp 47
3.1.2.3. Số lá trên cây 48
3.1.2.4. Chỉ số diện tích lá 49
3.1.3. Khả năng chống chịu của các giống tham gia thí nghiệm vụ Đông 2010
và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 51
3.1.3.1. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm 51
3.1.3.2. Khả năng chống đổ của các giống tham gia thí nghiệm 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
3.1.4. Trạng thái cây, trạng thái bắp và độ bao bắp của các giống ngô tham gia
thí nghiệm vụ Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 56
3.1.4.1. Trạng thái cây 57
3.1.4.2. Trạng thái bắp 57
3.1.4.3. Độ bao bắp 58
3.1.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 58
3.1.5.1. Chiều dài bắp 60
3.1.5.2. Đƣờng kính bắp 60
3.1.5.3. Số hàng/bắp 61
3.1.5.4. Số hạt/hàng 61
3.1.5.5. Khối lƣợng 1000 hạt 62
3.1.5.6. Năng suất lý thuyết 63
3.1.5.7. Năng suất thực thu 63
3.2. KẾT QUẢ TRÌNH DIỄN GIỐNG NGÔ CÓ TRIỂN VỌNG 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 66
1. Kết luận 66
2. Đề nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT

NN-PTNT : Nông nghiệp phát triển nông thôn
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
CV % : Hệ số biến động
CIMMYT : Trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ quốc tế đ/c : Đối chứng
FAO : Tổ chức nông nghiệp và lƣơng thực Liên Hợp Quốc
GMO : Biến đổi gen
KHKT : Khoa học kỹ thuật
IPRI : Viện nghiên cứu chƣơng trình lƣơng thực thế giới
KL1000 : Khối lƣợng 1000 hạt
LSD5% : Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
OPV : Giống ngô thụ phấn tự do
TPTD : Thụ phấn tự do
WTO : Tổ chức thƣơng mại thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2010 7
Bảng 1.2. Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2010 9
Bảng 1.3. Sản xuất ngô của một số nƣớc trên thế giới năm 2010 10
Bảng 1.4. Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020 11
Bảng 1.5. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2011 13

Bảng 1.6. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2011 14
Bảng 1.7. Diện tích, năng suất và sản lƣợng ngô của tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2000 – 2011 20
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trƣởng và phát triển của các giống ngô thí
nghiệm vụ Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 43
Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống thí nghiệm vụ
Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 46
Bảng 3.3. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm vụ
Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 48
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Đông 2010
và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 52
Bảng 3.5. Tỷ lệ gãy thân, đổ rễ của các giống ngô thí nghiệm vụ Đông 2010
và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 55
Bảng 3.6. Trạng thái cây, trạng thái bắp, độ bao bắp của các giống ngô tham
gia thí nghiệm vụ Đông 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái Nguyên 56
Bảng 3.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Đông 2010 59
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Xuân 2011 59
Bảng 3.9. Kết quả trình diễn giống có triển vọng tại Thái Nguyên 65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây ngũ cốc chính và quan trọng
của loài ngƣời, ngô là cây lƣơng thực góp phần giải quyết lƣơng thực cho
khoảng 8 tỷ ngƣời trên trái đất chúng ta. Toàn thế giới sử dụng 21% sản
lƣợng ngô làm lƣơng thực. Ở các nƣớc thuộc Trung Mỹ, Nam Á và châu Phi

ngƣời ta sử dụng ngô làm lƣơng thực chính cho con ngƣời với phƣơng thức
rất đa dạng tùy theo từng vùng địa lý và tập quán từng nơi. Các nƣớc Đông
Nam Phi sử dụng 85% sản lƣợng ngô làm lƣơng thực, Tây Phi 80%, Bắc Phi
42%, Tây Á 27%, Nam Á 75%, Đông Nam Á và Thái Bình Dƣơng 39%,
Đông Á 30%, Trung Mỹ và Caribe 61% Ngô là nguồn dinh dƣỡng chính
của loài ngƣời, đã giúp cho loài ngƣời giải quyết nạn đói thƣờng xuyên đe
dọa, “là cây báo hiệu sự no ấm”.
Bên cạnh giá trị làm lƣơng thực, ngô còn là cây thức ăn gia súc quan
trọng, 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp cho gia súc và gia cầm làm từ ngô.
Ở các nƣớc phát triển có nền chăn nuôi công nghiệp đã sử dụng 70 - 90 % sản
lƣợng ngô cho chăn nuôi nhƣ Hungari 97%, Pháp 90%, Mỹ 89%,… Cây ngô là
thức ăn xanh và ủ chua rất tốt cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là bò sữa.
Việt Nam, cây ngô đã có mặt cách đây 300 năm, mặc dù là cây lƣơng thực
đứng thứ 2 sau lúa nhƣng thời gian đầu do không đƣợc chú trọng nên cây ngô
chƣa phát huy đƣợc tiềm năng của nó sản xuất ngô nƣớc ta chỉ thực sự có
những bƣớc tiến nhảy vọt từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc
mở rộng giống lai và cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Năm 1991, diện
tích trồng giống lai chƣa đến 1% nhƣng ngành sản xuất ngô không ngừng phát
triển về diện tích, năng suất và sản lƣợng tăng dần theo từng năm. Năm 2011
giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn 1 triệu ha. Diện tích 1.117,2 nghìn
ha, năng suất 42,9 tạ/ha, sản lƣợng 4,8 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2012) [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Tổ chức Lƣơng Nông thế giới (FAO) cảnh báo những năm gần đây dân số
thế giới ngày càng tăng nhanh, trong khi đó diện tích đất canh tác ngày càng thu
hẹp do sa mạc hóa và xu thế đô thị hóa. Nguy cơ thiếu lƣơng thực ở các nƣớc
nghèo do thời tiết khô nóng làm giảm sản lƣợng thu hoạch và đẩy giá lƣơng thực
tăng cao. Ở Việt Nam có đến 70% diện tích trồng ngô phụ thuộc vào nƣớc trời
dẫn đến nguy cơ bị hạn rất lớn, với công tác tạo giống, bộ giống ngô thực sự

chịu hạn và các điều kiện bất thuận khác nhƣ đất xấu, chua phèn, kháng sâu
bệnh, có thời gian sinh trƣởng ngắn đồng thời cho năng suất cao ổn định nhằm
nâng cao năng suất và hiệu quả cho ngƣời sản xuất vẫn chƣa nhiều.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngô là cây lƣơng thực chính chỉ
đứng sau cây lúa. Năm 2011, diện tích lúa là 670,7 nghìn ha, diện tích ngô là
464,9 nghìn ha (Tổng cục thống kê, 2012) [7]. Việc mở rộng diện tích đƣợc
tƣới chủ động cho cây trồng ở vùng núi cao là vấn đề khó khăn, vì địa hình
canh tác trên nền đất dốc, nƣơng rẫy và sƣờn núi, nguồn nƣớc tƣới ở xa; nông
dân nghèo thiếu vốn đầu tƣ; chi phí xây dựng công trình tƣới nƣớc lớn hơn
nhiều so với vùng đồng bằng. Nhƣ vậy, chủ yếu diện tích ngô trong vùng
đƣợc trồng ở vùng cao nhờ nƣớc trời, chỉ có một phần nhỏ diện tích ở vùng
thấp là có tƣới. Năng suất ngô của vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ
đạt 36,5 tạ/ha (Tổng cục thống kê, 2012) [7]. Vì vậy, giải pháp tối ƣu cho việc
nâng cao năng suất và sản lƣợng ngô ở vùng này là sử dụng các giống ngô lai
chịu hạn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới. Do đó, cần phải chọn tạo
đƣợc những giống ngô cho năng suất cao, có khả năng chống chịu tốt, phù
hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng. Để tìm ra đƣợc những giống ngô
ƣu việt nhất đƣa vào sản xuất đại trà, cần tiến hành quá trình nghiên cứu, đánh
giá, loại bỏ những giống không phù hợp, giúp cho quá trình đánh giá và chọn
tạo giống đạt hiệu quả cao nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số
giống ngô lai nhập nội tại Thái Nguyên”.
2. MỤC TIÊU
Nhằm chọn đƣợc giống ngô nhập nội phù hợp với điều kiện sinh trƣởng
của Thái Nguyên, để đƣa vào cơ cấu cây trồng góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất ngô.

3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
- Theo dõi khả năng của sinh trƣởng, phát triển của các giống ngô lai
nhập nội từ Trung Quốc.
- Theo dõi đặc điểm hình thái của các giống ngô lai nhập nội.
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh hại và chống đổ của các
giống ngô lai nhập nội.
- Đánh giá tiềm năng năng suất của các giống ngô lai nhập nội.
- Xây dựng mô hình trình diễn các giống ngô lai triển vọng.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định đƣợc đặc tính nông học, năng suất và khả năng chống chịu
với một số loại sâu, bệnh hại và điều kiện ngoại cảnh bất thuận của các giống
ngô nhập nội.
- Nghiên cứu khả năng thích ứng của các giống ngô triển vọng góp
phần xây dựng cơ sở khoa học để giới thiệu giống mới cho sản xuất, góp phần
làm phong phú cơ cấu giống ngô tại địa phƣơng.
- Làm đa dạng phong phú nguồn gen cây ngô ở Việt Nam.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài sẽ lựa chọn đƣợc 1 - 2 giống ngô lai có khả năng sinh trƣởng
phát triển tốt, chống chiu tốt, cho năng suất cao và ổn định, có chất lƣợng cao,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
thích nghi với điều kiện tỉnh Thái Nguyên, góp phần mở rộng diện tích các
giống ngô mới làm tăng hiệu quả sản xuất.
- Đề tài góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng vụ nhằm khai thác
hết tiềm năng đất đai, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho các hộ
nông dân vùng miền núi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Trong sản xuất nông nghiệp, giống có vai trò rất quan trọng góp phần
nâng cao năng suất và sản lƣợng cây trồng. Khả năng thích ứng của giống với
các điều kiện sinh thái rất khác nhau, Vì vậy muốn phát huy hiệu quả tối đa
của giống, cần tiến hành nghiên cứu và đánh giá khả năng thích ứng cũng nhƣ
tiềm năng năng suất của các giống mới trƣớc khi đƣa ra sản xuất đại trà, từ đó
tìm ra những giống thích hợp nhất đối với từng vùng sinh thái.
Ngày nay sản xuất ngô muốn phát triển theo hƣớng hàng hoá với sản
lƣợng cao, quy mô lớn nhằm phục vụ nhu cầu thị trƣờng, cần phải có các biện
pháp hữu hiệu nhƣ thay thế các giống cũ, năng suất thấp bằng các giống mới
năng suất cao, chống chịu tốt. Đặc biệt là ở các tỉnh Trung du và miền núi
phía Bắc, sử dụng giống có khả năng chống chịu tốt, cho năng suất cao sẽ góp
phần phát huy hiệu quả kinh tế của giống, đồng thời góp phần xoá đói giảm
nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong công tác chọn tạo giống cây trồng nói chung và cây ngô nói
riêng, việc tạo ra những dòng, giống có khả năng chống chịu với điều kiện
ngoại cảnh bất thuận là cần thiết. Sau khi chọn tạo ra bất kỳ một dòng, giống
mới nào thì công việc khảo nghiệm và đánh giá các đặc tính nông sinh học
của các giống mới đó đƣợc xem là một khâu quan trọng trƣớc khi đƣa vào sản
xuất đại trà. Việc đánh giá biểu hiện của một số giống thƣờng bắt đầu từ việc
đánh giá các đặc tính sinh học, đánh giá sự sinh trƣởng, phát triển, tiềm năng
năng suất, khả năng chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất lợi, phân tích
mối tƣơng quan giữa một số chỉ tiêu đến năng suất cây trồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
Viện Nghiên cứu Ngô - Trƣờng Đại học Nông nghiệp Vân Nam, Trung
Quốc đã nghiên cứu chọn tạo đƣợc nhiều giống ngô năng suất và chất lƣợng
cao, đáp ứng nhu cầu giống cho sản xuất trong và ngoài nƣớc. Một số giống đã
phổ biến trong sản xuất nhƣ: Xundan No. 7, Gengyuann135, Jingeng No. 1,
Yunfeng 88, Yunda No. 1, Gengyuann 11, Yunda No. 14, AS-3, Makmur-3,
Makmur-1, Makmur-7, Makmur-2, Makmur-6, AS-2, AS-7. Năng suất trung
bình của các giống ngô này từ 100 - 120 tạ/ha. Hiện nay, Trung Quốc vẫn tiếp
tục lai tạo đƣa ra sản xuất những bộ giống ngô lai mới năng suất cao phù hợp
từng vùng sinh thái. Do vậy việc nhập nội những giống ngô lai mới có tiềm
năng năng suất cao của Trung Quốc vào thử nghiệm sản xuất tại Việt Nam
không những là một trong những phƣơng pháp chọn giống hiệu quả nhất nhằm
đẩy mạnh sản xuất ngô trong nƣớc mà còn tạo ra nguồn vật liệu đa dạng phong
phú phục vụ cho công tác lai tạo giống ngô của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, việc chọn tạo và đƣa vào thử nghiệm vào sản
xuất những giống ngô lai mới có năng suất cao, ổn định và thích nghi với
những vùng sinh thái khác nhau là vấn đề rất quan trọng góp phần đƣa nhanh
các giống ngô tốt vào sản xuất đại trà nhằm nâng cao năng suất, sản lƣợng ngô.
Nhập nội giống cây trồng là một trong những phƣơng pháp lâu đời nhất
và rất có tác dụng trong công tác chọn tạo giống cũng nhƣ việc đƣa năng suất
cây trồng tăng cao, làm cho tập đoàn giống ngày càng phong phú, là nguồn
gen quý để sử dụng trong công tác lai tạo, gây đột biến, từ đó tạo nguồn vật
liệu khởi đầu tốt cho chọn giống.
Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm đến vấn đề nhập nội giống. Các
giống ngô nhập nội nhƣ: C.P888, C.P999, C.P989, CP3Q, G49, B9698,
C919 Để tăng năng suất cũng nhƣ sản lƣợng đáp ứng nhu cầu trong nƣớc,
trong những năm qua Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xét công nhận đƣợc nhiều
giống ngô lai mới, các giống này đã phát huy hiệu quả tốt trên đồng ruộng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
Đề tài nghiên cứu một số giống ngô lai nhập nội từ Trung Quốc tại
Thái Nguyên nhằm đánh giá một cách khách quan, kịp thời có cơ sở khoa học
về tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng, khả năng
sinh trƣởng phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh
bất thuận cũng nhƣ tiềm năng cho năng suất của các giống ngô nhập nội.
Xuất phát những cơ sở khoa học trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện
đề tài này.
1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2010
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
1961
105,48
19,4
205.00
2004
147,47
49,48
729,21
2005
147,44
48,42
713,91

2006
148,61
47,53
706,31
2007
158,61
49,69
788,11
2008
161,01
51,09
822,71
2009
155,7
51,9
809,02
2010
161,91
52,15
844,41
Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2012[22]
Ngô là cây lƣơng thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, mặc dù
chỉ đứng thứ về diện tích sau lúa nƣớc và lúa mì, nhƣng ngô lại dẫn đầu về
năng suất và sản lƣợng, là cây trồng có tốc độ tăng trƣởng về năng suất cao
nhất trong các cây lƣơng thực chủ yếu.
Ngô còn là cây điển hình đƣợc ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về
các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

khí hoá và tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất (Ngô Hữu Tình,
1997) [9]. Do vậy diện tích, năng suất ngô liên tục tăng trong những năm gần đây.
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 1961, năng suất ngô trung bình của
thế giới chỉ đạt sấp xỉ 20 tạ/ha nhƣng đến năm 2004 năng suất ngô trên thế
giới đã đạt 49,48 tạ/ha. Năm 2010, diện tích trồng ngô gieo trồng với 161,91
triệu ha, năng suất đạt 52,15 tạ/ha và sản lƣợng đạt 844,41 triệu tấn. Trong khi
đó, diện tích trồng lúa nƣớc năm 1961 là 115, 3triệu ha, năng suất 19 tạ /ha,
sản lƣợng 215,3 triệu tấn. Năm 2010, diện tích 153,65 triệu ha, năng suất đạt
43,74 tạ/ha, sản lƣợng đạt 672,0 triệu tấn. Diện tích trồng lúa mỳ năm 1961
đạt 200,9 triệu ha, năng suất đạt 11tạ/ha, sản lƣợng thu đƣợc 219,22 triệu tấn.
Năm 2010, diện tích 222,39 triệu ha, năng suất 29,1 tạ/ha, sản lƣợng đạt
684,21 triệu tấn (FAOSTAT, 2012) [22]. Nhƣ vậy, trong những năm qua, lúa
nƣớc, lúa mỳ và ngô vẫn là những cây trồng chủ lực trong sản xuất nông
nghiệp thế giới, mặc dù diện tích trồng ngô của thế giới năm 2010 có thấp hơn
so với lúa mỳ nhƣng năng suất và sản lƣợng ngô vẫn đứng đầu trong những
cây lƣơng thực chủ yếu trên thế giới.
Có đƣợc kết quả trên, trƣớc hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ƣu thế
lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới
trong chọn tạo giống ngô lai nhờ kết hợp phƣơng pháp truyền thống với công
nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp
phần đƣa sản lƣợng ngô thế giới vƣợt lên trên lúa mì và lúa nƣớc.
Nhƣ vậy sản xuất ngô của thế giới ngày càng phát triển nhƣng tập trung
và phân bố không đều ở các khu vực: Châu Mỹ đứng đầu với 66,07 triệu ha
chiếm 44,9%, Châu Á chiếm 30,9% và Châu Phi là 18,4%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Bảng 1.2. Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2010

Khu vực
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Châu Á
53,70
45,82
246,12
Châu Mỹ
63,09
70,98
447,92
Châu Âu
14,11
60,64
85,57
Châu Phi
30,91
20,78
64,25
Nguồn: FAOSTART, 2012[22]
Số liệu bảng 1.2 cho thấy năm 2010 sản xuất ngô ở một số châu lục
trên thế có sự khác biệt cả về diện tích, năng suất và sản lƣợng. Về diện tích
Châu Mỹ có diện tích sản xuất ngô lớn nhất 63,09 triệu ha chiếm 38,8% của
toàn thế giới, Châu Á sản xuất đƣợc 53,70 triệu ha đứng thứ hai về diện tích
chiếm 33,0% của toàn thế giới, châu lục có diện tích sản xuất ngô thấp nhất là
Châu Âu có 14,11 triệu ha chiếm 8,6% của toàn thế giới.

Năng suất ngô của Châu Mỹ đạt năng suất cao nhất 70,98 tạ/ha cao hơn
năng suất bình quân của thế giới là 19,43 tạ/ha, đứng thứ hai về năng suất là
Châu Âu đạt 60,64 tạ/ha cao hơn năng suất bình quân của thế giới là 9,09
tạ/ha, thấp nhất là Châu Phi với năng suất là 20,78 tạ/ha.
Nhờ có diện tích và năng suất tăng nên sản lƣợng ngô của Châu Mỹ
tăng lên nhanh chóng đạt 447,92 triệu tấn chiếm 54,6% so với sản lƣợng của
toàn thế giới. Đứng thứ 2 về sản lƣợng là Châu Á đạt 246,12 triệu tấn chiếm
29,9% so với sản lƣợng của toàn thế giới. Châu Phi có sản lƣợng thấp nhất đạt
64,25 triệu tấn chiếm 7,8% so với sản lƣợng của toàn thế giới.
Hiện nay tình hình sản xuất ngô của một số nƣớc trên thế giới cũng đã
có nhiều thay đổi, thể hiện cụ thể qua số liệu bảng 1.3.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Bảng 1.3. Sản xuất ngô của một số nƣớc trên thế giới năm 2010
Nƣớc
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
Mỹ
32,96
95,92
316,165
Trung Quốc
32,52

54,59
177,541
Braxin
12,82
43,75
56,060
Mexicô
7,15
32,59
23,302
Ấn Độ
7,18
19,58
14,060
Ý
0,93
95,34
8,828
Đức
0,46
87,85
4,073
Hy Lạp
0,19
117,27
2,195
Israel
0,003
283,91
0,084

Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2012[22]
Phần lớn các nƣớc phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể nhƣng
năng suất ngô ở Mỹ lại tăng đột biến. Kết quả đó có đƣợc là nhờ ứng dụng
công nghệ sinh học trong sản xuất (Minh-Tang Chang and Peter, 2005)[20]
cho biết, ở Mỹ chỉ còn sử dụng 48% giống ngô đƣợc chọn tạo theo công nghệ
truyền thống, 52% bằng công nghệ sinh học. Do vậy mà năng suất, sản lƣợng
ngô của Mỹ đạt cao nhất, sau đó đến Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ,
Theo FAO, việc sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới đang có sự mất
cân đối giữa cung và cầu dẫn đến tình trạng các nƣớc nhập khẩu ngô tăng dần,
các nƣớc xuất khẩu ngô giảm dần từ nay đến những năm đầu thế kỷ XXI.
Xuất khẩu ngô đã đem lại nguồn lợi lớn cho các nƣớc lớn sản xuất ngô nhƣ
Mỹ, Trung Quốc, Achentina, Hungari,… (Ngô Hữu Tình, 2003) [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Hiện nay Mỹ và Trung Quốc là hai quốc gia có diện tích trồng ngô lớn
nhất và cao gấp nhiều lần so với các quốc gia khác trên thế giới. Các nƣớc
khác nhƣ Ý , Đức, Hy Lạp, Israel, mặc dù năng suất ngô cao nhƣng sản
lƣợng vẫn còn thấp do diện tích trồng ngô chƣa đƣợc mở rộng.
Viện nghiên cứu Chƣơng trình Lƣơng thực thế giới (IRRI) dự báo tổng
nhu cầu sử dụng ngô trên thế giới vào năm 2020 là 852 triệu tấn, trong đó
15% dùng làm lƣơng thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm
nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nƣớc phát triển chỉ dùng 5% ngô làm
lƣơng thực nhƣng ở các nƣớc đang phát triển tỷ lệ này là 22% (IRRI, 2003) [24].
Điều này đƣợc biểu hiện cụ thể qua bảng 1.4.
Bảng 1.4. Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng
Năm 1997
(triệu tấn)
Năm 2020

(triệu tấn)
% thay đổi
Thế giới
586
852
45
Các nƣớc đang phát triển
295
508
72
Đông Á
136
252
85
Nam Á
14
19
36
Cận Sahara - Châu Phi
29
52
79
Mỹ Latinh
75
118
57
Tây và Bắc Phi
18
28
56

Nguồn: Số liệu thống kê của IRRI, 2003[24]
Trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, ngô, lúa mỳ, lúa
nƣớc là những cây thực phẩm vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất trong lĩnh vực
cung cấp lƣơng thực, thực phẩm nuôi sống toàn nhân loại. Vì vậy, chọn các
giống ngô năng suất cao và các biện pháp kỹ thuật canh tác là một trong
những giải pháp của nhân loại về vấn đề lƣơng thực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Dự báo đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu
năm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nƣớc đang phát triển (72%), trong đó các
nƣớc khu vực Đông Á đƣợc dự báo có nhu cầu tăng mạnh nhất vào năm 2020
(85%). Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh ở các nƣớc này là do dân số tăng, thu
nhập bình quân đầu ngƣời tăng, dẫn đến nhu cầu về lƣơng thực, thực phẩm
tăng mạnh, từ đó đòi hỏi khối lƣợng ngô rất lớn để phát triển chăn nuôi.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nƣớc ta, ngô là cây trồng nhập nội đƣợc đƣa vào Việt Nam khoảng
300 năm và đã trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ thống
cây lƣơng thực quốc gia (Ngô Hữu Tình và cộng sự, 1997) [9]. Cây ngô đã
khẳng định vị trí trong sản xuất nông nghiệp và trở thành cây lƣơng thực quan
trọng đứng thứ hai sau cây lúa đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể
trong việc giải quyết lƣơng thực tại chỗ cho ngƣời dân Việt Nam, nhờ những
đặc tính sinh học ƣu việt nhƣ khả năng thích ứng rộng, chịu thâm canh, đứng
đầu về năng suất, trồng đƣợc ở nhiều vùng sinh thái và ở các vụ khác nhau
trong năm, từ đó diện tích trồng ngô nhanh chóng đƣợc mở rộng ra khắp cả
nƣớc, đặc biệt là các vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Trong hơn mƣời
năm trở lại đây, những thành công trong công tác nghiên cứu và sử dụng các
giống ngô lai đƣợc coi là cuộc cách mạng thực sự trong ngành sản xuất ngô ở
Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây ngô đã thay đổi sâu sắc tập quán
trồng ngô ở Việt Nam và đã có những đóng góp nhất định cho mục tiêu phát triển

cây ngô ở nƣớc ta. Nế u nhƣ năm 1991, diện tích trồng ngô lai ở nƣớc ta chỉ đạt
1% tổng diện tích trồng ngô, nhƣng đến năm 2011, giống ngô lai đã chiếm
khoảng 95% trong tổng số hơn 1 triệu ha trồng ngô. Trong đó giống đƣợc cung
cấp do các cơ quan nghiên cứu trong nƣớc chọn tạo và sản xuất chiếm khoảng
50 - 55%, còn lại là của các công ty hạt giống ngô lai hàng đầu thế giới. Một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
giống ngô lai đƣợc dùng chủ yếu ở vùng núi hiện nay nhƣ LVN99, LVN4,
LVN61, DK888, DK999, B9698, NK54, NK4300, NK66, NK67, VN8960
Bảng 1.5. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2011
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
1975
276,6
10,42
278,4
1980
389,6
11,00
428,8
1985
392,2
14,90
584,9

1990
431,8
15,50
671,0
1995
556,8
21,3
1.184,2
2000
730,2
27,50
2.005,9
2005
1.052,6
36,0
3.787,1
2006
1.033,1
37,30
3.854,6
2007
1.096,1
39,30
4.303,2
2008
1.125,9
40,20
4.531,2
2009
1.086,8

40,80
4.431,8
2010
1.125,7
41,10
4.625,7
2011
1.117,2
42,90
4.799,3
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2012[7]
Năng suất ngô nƣớc ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình
thế giới trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nƣớc ta chỉ bằng
34% so với trung bình thế giới, năm 1990 bằng 42%, năm 2000 bằng 59,8%, năm
2005 bằng 74,4% và năm 2010 đạt 80,8%. Năm 1990, sản lƣợng ngô vƣợt
ngƣỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vƣợt ngƣỡng 2 triệu tấn, và đến năm 2011 Việt
Nam đạt năng suất, diện tích, sản lƣợng ngô cao nhất từ trƣớc cho đến nay (diện
tích đạt 1.117,2 nghìn ha, năng suất đạt 42,9 tạ/ha và sản lƣợng 4,799,3 triệu tấn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử
phát triển ngô lai trên thế giới. Đây là bƣớc tiến vƣợt bậc so với một số nƣớc
trong vùng, kết quả này đã đƣợc CIMMYT và nhiều nƣớc đánh giá cao. Hiện
nay nhiều tỉnh có diện tích trồng ngô lai đạt gần 100% nhƣ; Đồng Nai, An
Giang, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Sự phát
triển ngô lai ở Việt Nam đã đƣợc CIMMYT và FAO cũng nhƣ các nƣớc trong
khu vực đánh giá cao (CIMMYT, IITA, 2010) [21]. Việt Nam đã đuổi kịp các
nƣớc trong khu vực về trình độ nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai
đoạn đầu đi vào công nghệ cao (công nghệ gen, nuôi cấy bao phấn và noãn)

(Ngô Hữu Tình, 2003)[8].
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2011
Vùng
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
Đồng bằng sông Hồng
95,9
46,2
443,0
Trung du và miền núi phía Bắc
464,9
36,5
1696,2
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
207,4
40,4
838,2
Tây nguyên
231,5
51,3
1188,7
Đông Nam Bộ
78,7
54,1
426,0
ĐB sông Cửu Long

38,8
53,4
207,2
Nguồn: Tổng cục thống kê, năm 2012[7]
Một thực trạng đặt ra hiện nay là mặc dù diện tích, năng suất và sản
lƣợng ngô của nƣớc ta đều tăng nhanh nhƣng so với bình quân chung của thế
giới năng suất ngô nƣớc ta còn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngô của Việt
Nam ngày càng lớn. Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết cho
các cơ quan nghiên cứu chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô có năng suất
cao, chống chịu tốt đồng thời đáp ứng đƣợc cả yêu cầu về chất lƣợng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy diện tích sản xuất ngô lớn nhất
(464,9 nghìn ha) nhƣng năng suất lại thấp nhất trong cả nƣớc (36,5 tạ/ha). Vùng
đồng bằng sông Cửu Long diện tích sản xuất nhỏ nhất (38,8 nghìn ha). Vùng
Đông Nam Bộ có năng suất đạt cao nhất (54,1 tạ/ha). Sự trái ngƣợc này có thể
đƣợc giải thích do nhiều nguyên nhân: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy
có diện tích lớn song chủ yếu tập trung ở các vùng miền núi, diện tích rải rác nhỏ
lẻ thuộc các vùng dân tộc ít ngƣời. Họ không có đủ điều kiện đầu tƣ về vốn cũng
nhƣ các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp mà chủ yếu canh tác theo lối truyền
thống lạc hậu. Cộng thêm vào đó là các điều kiện đất đai nghèo dinh dƣỡng, khí
hậu khắc nghiệt với hạn hán và rét kéo dài vào mùa đông, lƣợng mƣa phân bố
không đều trong năm dẫn tới năng suất thấp. Tuy nhiên, với ƣu thế về diện tích
(chiếm 41,6% diện tích của cả nƣớc) nên sản lƣợng chung của vùng vẫn cao hơn
các vùng khác, đạt 1696,2 nghìn tấn chiếm 35,3% sản lƣợng của cả nƣớc và trở
thành một trong những vùng sản xuất ngô trọng điểm cung cấp lƣợng ngô lớn
nhất cả nƣớc.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có năng suất đạt 53,4 tạ/ha bằng
124,5% năng suất trung bình của cả nƣớc do vùng có điều kiện tự nhiên thuận

lợi, phù hợp với yêu cầu sinh trƣởng, phát triển của cây ngô nhƣ: nhiệt độ
bình quân cao 25 - 30
o
C, nguồn ánh sáng dồi dào, hệ thống thủy lợi đảm bảo
nhu cầu tƣới tiêu, nền đất có độ phì nhiêu cao. Tất cả các điều kiện tự nhiên
kết hợp với các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp đã dẫn tới sự tăng vọt
năng suất trung bình của vùng.
Tây Nguyên cũng đƣợc xem là trọng điểm sản xuất ngô của cả nƣớc
với diện tích 231,5 nghìn ha đứng thứ 2 sau vùng trung du và miền núi phía
Bắc. Năng suất trung bình đạt 51,3 tạ/ha.
Các giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao đã và đang đƣợc phát
triển ở những vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, có thuỷ lợi, những vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
đất tốt nhƣ: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam
Bộ, Tây Nguyên. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi, những vùng khó khăn, canh
tác chủ yếu nhờ nƣớc trời, đất xấu, đầu tƣ thấp thì giống ngô thụ phấn tự do
chiếm ƣu thế và chiếm một diện tích khá lớn.
Mặc dù có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng sản xuất ngô ở
Việt Nam nhƣng từ những kết quả đã đạt đƣợc chúng ta vẫn có thể khẳng
định sản xuất ngô của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1985 - 2011
đã có sự phát triển vƣợt bậc. Sở dĩ chúng ta đạt đƣợc những thành quả to lớn
trong phát triển sản xuất ngô là do Đảng, Nhà nƣớc và Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển nông thôn thấy đƣợc vai trò của cây ngô trong nền kinh tế và kịp
thời đƣa ra những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích sản
xuất. Các nhà khoa học đã nhạy bén đƣa những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc
biệt về giống mới vào sản xuất. Từng thế hệ giống tốt thay thế nhau qua từng
giai đoạn lịch sử: giống thụ phấn tự do tốt thay thế cho các giống địa phƣơng
năng suất thấp, giống lai quy ƣớc thay cho các giống lai không quy ƣớc, lai

đơn thay dần cho lai kép, lai ba và không thể không kể đến vai trò của những
ngƣời nông dân có trình độ về kỹ thuật đã tiếp thu và ứng dụng nhanh chóng
những tiến bộ KHKT mới với những cải tiến rất hiệu quả, phù hợp với địa phƣơng
và điều kiện cụ thể của mình làm tăng thêm sự ƣu việt của tiến bộ KHKT.
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng,
Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình).
Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngô là cây lƣơng thực chính chỉ
đứng sau cây lúa. Năm 2011, diện tích lúa là 670,7 nghìn ha, diện tích ngô là
464,9 nghìn ha (bằng 41,6% diện tích trồng ngô cả nƣớc) (Tổng cục Thống
kê, 2012) [7]. Nhìn chung, vụ ngô chính trong vùng là vụ Xuân Hè, gieo cuối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
tháng 2 hoặc đầu tháng 3 và thu hoạch vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7. Vụ
ngô này chiếm 65 - 70% tổng diện tích gieo trồng ngô. Ngô Thu Đông trong
vùng đƣợc gieo vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 và thu hoạch vào tháng 11
chiếm 10 - 15%. Ngoài hai vụ trên thì còn vụ ngô Đông đƣợc trồng sau khi
thu hoạch lúa mùa sớm. Diện tích trồng ngô vụ này chiếm khoảng 15 - 20%
(đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ).
Ba tỉnh Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai có diện tích ngô lớn hơn diện
tích lúa. Tại Hà Giang, năm 2011 diện tích ngô là 49,9 nghìn ha trong khi
diện tích lúa là 37,3 nghìn ha; tƣơng tự Cao Bằng có diện tích ngô là 38,9
nghìn ha trong khi diện tích lúa chỉ có 30,0 nghìn ha; Lào Cai có diện tích ngô
là 32,7 nghìn ha, diện tích lúa là 20,3 nghìn ha (Tổng cục thống kê, 2012)[7].
Khác với cây lúa, cây ngô có thể phát triển ở cả những vùng đất có độ
dốc 15 - 20% nên nó có vị trí quan trọng, góp phần tích cực thay đổi cơ cấu
cây trồng trên đất dốc, thay thế nhanh chóng diện tích trồng cây lúa nƣơng và
cây sắn trong sản xuất nông nghiệp.

Ngô là cây trồng truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi, mặt
khác do dễ trồng, dễ bảo quản và tiêu thụ hơn các cây trồng khác nên diện
tích ngô vùng Trung du và miền núi phía Bắc tăng dần hàng năm (diện tích
ngô năm 2001 là 288,4 nghìn ha, năm 2011 là 464,9 nghìn ha). Diện tích ngô
tăng chủ yếu do tăng vụ trên đất một vụ lúa mùa (ruộng bậc thang) và tăng
diện tích trồng ngô vụ 2. Do sử dụng giống ngô lai và tăng đầu tƣ phân bón đã
giúp năng suất ngô tăng và lợi nhuận của nông dân trồng ngô tăng dần (năng
suất ngô năm 2001 là 24,4 tạ/ha, năm 2011 là 36,5 tạ/ha). Sản lƣợng ngô
trong vùng cũng tăng dần hàng năm, năm 2001 đạt 798,9 nghìn tấn, năm 2011
đạt 1696,2 nghìn tấn. Tỉnh Lạng Sơn có năng suất ngô đạt cao nhất 48,5 tạ/ha
(năm 2011). Sơn La là tỉnh có sản lƣợng ngô lớn nhất trong vùng, đạt 506,1
nghìn tấn. (Tổng cục thống kê, 2012) [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×