RÈN LUYỆN VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY
QUA DẠY HỌC MÔN TOÁN
Vấn đề tư duy, đặc biệt là năng lực tư duy liên quan đến tư tưởng và
nguồn lực trí tuệ con người, không chỉ được nghiên cứu ở phương diện triết học
mà còn được nghiên cứu nhiều phương diện khác: khoa học quản lý, giáo dục
đào tạo, dạy và học một môn học cụ thể,…Tư duy và trí tuệ, đặc biệt tư duy và
trí tuệ con người trong công tác giáo dục và đào tạo, có tác dụng vô cùng lớn lao
trong hoạt động thực tiễn quản lý giáo dục, trong quá trình dạy học,…và thông
qua đó ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Nếu trong quá trình đào
tạo, bằng mọi cách phát triển tư duy và năng lực tư duy của quản lý giáo dục, của
người dạy và người học thì sẽ tạo tiềm lực, nguồn lực to lớn cho nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, là nguồn lực cho dân tộc phát triển trong thời đại toàn
cầu hóa.
I. QUÁ TRÌNH TƯ DUY
I.1. Khái niệm tư duy
1.1.1. Một số hướng tiếp cận tư duy trong tâm lý học
Tư duy là một năng lực phức tạp và kỳ diệu của con người. Đã có nhiều
cách tiếp cận để nghiên cứu, khám phá cả chiều sâu ý thức và trình độ, phương
pháp tư duy, nhưng đến nay, vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu.
(1) Chẳng hạn, hướng tiếp cận liên tưởng vấn đề tư duy, trí tuệ mà đại biểu là
các nhà triết học, tâm lý học người Anh: Đ. Ghatli (1705 – 1836), D. S. Milơ (1806
-1873), H. Spenxơ (1820 -1903). Về sau, thuyết liên tưởng dựa vào cơ chế phản xạ có
điều kiện do P.I. Pavlov phát hiện, làm cơ sở sinh lý thần kinh của các mối liên tưởng
tâm lý. Các nhà liên tưởng cho rằng tư duy là quá trình thay đổi tự do tập hợp các hình
ảnh, là liên tưởng các biểu tượng. Tư duy luôn là tư duy hình ảnh. Họ quan tâm chủ
yếu tới vấn đề tái tạo các mối liên tưởng tư duy, là tư duy tái tạo. Theo họ, có 4 loại
liên tưởng: liên tưởng giống nhau, liên tưởng tương phản, liên tưởng gần nhau về
không gian và thời gian, liên tưởng nhân quả. Liên tưởng nhân quả có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình tư duy. Sự phát triển trí tuệ là quá trình tích lũy các mối liên
tưởng. Thuyết liên tưởng chưa thoát khỏi tư duy siêu hình, mới chỉ nêu ra nguyên tắc
giải thích máy móc về trí tuệ mà chưa đề cập đến bản chất, cấu trúc, vai trò của tư duy
trong hoạt động của con người.
(2) Hướng tiếp cận hành động tinh thần, là đặc trưng của trường phái tâm
lý học Vuxbua (Đức), theo thuyết triết học duy lý, đại biểu: O. Quynpe (1862-
1915), O. Denxơ (1881-1944) và K. Biulơ (1897-1963). Tư tưởng chủ đạo của
trường phái này là nghiên cứu tư duy, trí tuệ thông qua thực nghiệm giải bài toán
tư duy. Phương pháp chủ yếu sử dụng trong thực nghiệm là tự quan sát. Theo họ,
tư duy là hành động bên trong của chủ thể nhằm xem xét các mối quan hệ. Việc
xem xét các mối quan hệ này độc lập với việc tri giác các thành phần tham gia
quan hệ. Hành động tư duy là công việc của cái “tôi” chủ thể, nó chịu ảnh hưởng
của nhiệm vụ tư duy (bài toán tư duy). Bài toán tư duy định hướng cho hành động
tư duy. Khi chủ thể nhận ra bài toán có nghĩa là đã biến các chỉ dẫn từ bên ngoài
thành tự chỉ dẫn bên trong trong quá trình giải quyết. Tính lựa chọn của tư duy bị
quy định bởi sự vận động của tự chỉ dẫn. Theo O. Denxơ để giải bài toán tư duy
thì thực chất tư duy là sự vận hành của các thao tác trí tuệ. Quá trình này diễn ra
qua nhiều giai đoạn, trong đó nhận thức đầu bài toán và cấu trúc lại nó, tạo ra
những tình huống có vấn đề cho tư duy là quan trọng nhất. Có thể nói, thực chất
của quá trình giải quyết bài toán tư duy là quá trình cấu trúc lại bài toán đó. Trong
quá trình giải các bài toán, chủ thể phải thường xuyên sử dụng các thao tác trí tuệ
như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, tạo ra sự giống nhau (khái quát hóa).
Hướng tiếp cận hành động tinh thần đã đóng góp nhiều cho khoa học tâm lý học
tư duy. Việc nghiên cứu tư duy như là một hành động bên trong, là quá trình vận
động của các thao tác trí tuệ là bước tiến lớn trên con đường tìm hiểu bản chất của
tư duy. Nhưng, họ lại cực đoan cho rằng tư duy thuần túy là hành động bên trong,
không liên quan gì tới các nhân tố bên ngoài. Vấn đề quan hệ giữa chủ thể tư duy
với các điều kiện bên ngoài của chính quá trình tư duy đã bị loại ra khỏi tầm
nghiên cứu của các nhà tâm lý theo hướng tiếp cận này. Vì thế, vấn đề bản chất xã
hội và logic tâm lý của tư duy vẫn còn để ngỏ.
(3) Tiếp cận hành vi: Tâm lý học hành vi, mà các đại biểu xuất sắc là các
nhà tâm lý học kiệt xuất: J. Watson (1878-1958), E. Tolmen (1886-1959), E. L.
Toocđai (1874-1949), B. Ph. Skinner (1904-1990), đã phủ nhận việc nghiên cứu
ý thức con người. Tâm lý học chỉ nghiên cứu hành vi con người mà thôi. Hành vi
là tập hợp các phản ứng của cơ thể đáp lại các kích thích từ môi trường bên ngoài.
Theo họ, hành vi trí tuệ (của cả người và động vật) là các phản ứng có hiệu quả
mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các kích thích của môi trường sống.
J.Watson coi hành vi trí tuệ đồng nhất với ngôn ngữ bên trong. Từ đó, ông chia tư
2
2
duy thành ba dạng: thứ nhất, là các thói quen, kỹ xảo, ngôn ngữ đơn giản; thứ hai,
giải quyết các nhiệm vụ tuy không mới, nhưng ít gặp và phải có hành vi ngôn ngữ
kèm theo; thứ ba, giải quyết nhiệm vụ mới, buộc cơ thể lâm vào hoàn cảnh phức
tạp, đòi hỏi phải giải quyết bằng ngôn ngữ trước khi thực hiện một hành động cụ
thể. Như vậy, các nhà hành vi coi tư duy giống như kỹ xảo, nó được hình thành
theo cơ chế phản xạ và luyện tập chúng. Vấn đề học tập và kỹ xảo đạt được là
trung tâm của tâm lý học hành vi. Về sau, khoảng những năm giũa thế kỷ XX,
hướng tiếp cận hành vi phát triển nảy sinh các học thuyết mới và phân hóa thành 3
nhánh: Tâm lý học hành vi bảo thủ; Tâm lý học hành vi mới; Tâm lý học hành vi
chủ quan.
Nhiều luận điểm của các nhà nghiên cứu tư duy theo hướng tiếp cận hành vi
không còn phù hợp với tâm lý học hiện đại. Nhưng, công lao to lơn của họ là đưa
tính khách quan, chặt chẽ khoa học vào nghiên cứu trí tuệ con người, vốn dĩ là rất
phức tạp. Muốn nghiên cứu khách quan tư duy con người thì phải nghiên cứu
hành vi của nó. Muốn huấn luyện chức năng tâm lý nào đó phải đưa chủ thể vào
trong các điều kiện xác định, tức là phải tường minh hóa nội dung dạy học theo
một quy trình chặt chẽ để qua đó có thể quan sát và kiểm soát được quá trình hình
thành các hành vi tâm lý người học. Tuy nhiên, cực đoan hóa môi trường kích
thích, coi nhẹ vai trò chủ thể của người học sẽ dẫn đến sự “đinh mệnh xã hội”
trong dạy học và phát triển.
(4) Tiếp cận sinh học: Nói chung, cách tiếp cận hành vi cũng bắt nguồn từ
hướng tiếp cận sinh học, tức là chịu ảnh hưởng của thuyết tiến hóa hành vi cá thể,
thu được do tập nhiễm và sự phức tạp hóa các hành vi bản năng của các cá thể.
Tuy vậy, tâm lý học hành vi mới chủ yếu khai thác mối quan hệ tương tác giữa
hành vi với các kích thích môi trường. Ngoài ra, nhiều công trình cũng tiếp cận
tâm lý từ góc độ sinh học, có các công trình nghiên cứu theo các hướng chính như:
Nghiên cứu cơ sở sinh lý-thần kinh của trí tuệ; Nghiên cứu vai trò và sự phát triển
của các hành vi bản năng và tự tạo trong hoạt động tâm lý của người và vật;
nghiên cứu vai trò của yếu tố di truyền trí tuệ giữa các thế hệ.
(5) Tiếp cận phát sinh trí tuệ (Tiếp cận kiến tạo): Hướng tiếp cận phát sinh
nhận thức, phát sinh trí tuệ trẻ em, đại diện chủ yếu là J. Piaget (1896-1980) và
các đồng sự của ông. Tiếp cận kiến tạo đã có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát
triển tâm lý học của thế kỷ XX và hiện nay.
3
3
J. Piaget đã xuất phát từ góc độ sinh học và logic học để giải quyết vấn đề
trí tuệ. Dưới dạng chung nhất, trí tuệ được J. Piaget hiểu là sự phát triển tiếp tục
của yếu tố sinh học. Cả hoạt động sinh học và hoạt động tâm lý không tách biệt
với cuộc sống của cá thể và cả hai đều là bộ phận của hoạt động toàn bộ, mà đặc
trưng của chúng là tính tổ chức kinh nghiệm và sự thích ứng. Đây là hai chức năng
cơ bản của trí tuệ.
Tính tổ chức của trí tuệ cho phép trong từng tính tích cực của chủ thể có thể
tách ra cái gì đó trọn vẹn, tách ra những phần tử và mối liên hệ giữa các phần tử tham
gia cấu trúc nên cái trọn vẹn đó. Để mô tả sự thích ứng của chủ thể, J. Piaget sử dụng
4 khái niệm gốc sinh học: Đồng hóa (Assimilation), Điều ứng (Accommodation),
Cơ cấu hay Sơ đồ (Scheme) và Cân bằng (Equilibrium). Đồng hóa là chủ thể tái lập
lại một số đặc điểm của khách thể được nhận thức, đưa chúng vào trong các sơ đồ đã
có. Điều ứng là quá trình thích nghi của chủ thể đối với những đòi hỏi đa dạng của
môi trường, bằng cách tái lập lại những đặc điểm của khách thể vào cái đã có, qua đó
biến đổi cấu trúc đã có, tạo ra cấu trúc mới, dẫn đến trạng thái cân bằng. Cân bằng, là
sự tự cân bằng của chủ thể, là quá trình cân bằng giữa hai quá trình đồng hóa và điều
ứng. Sự mất cân bằng (Desequilibrium) cũng là mất cân bằng giữa hai quá trình này.
Trong đồng hóa, các kích thích được chế biến cho phù hợp với sự áp đặt của cấu
trúc. Còn trong điều ứng, chủ thể buộc phải thay đổi cấu trúc đã có cho phù hợp với
kích thích mới. Đồng hóa là tăng trưởng, điều ứng là phát triển. Cấu trúc nhận thức
là những kinh nghiệm mà chủ thể tích lũy được trong mỗi giai đoạn nhất định. Sơ đồ
là một cấu trúc nhận thức bao gồm một lớp các thao tác giống nhau theo một trật tự
nhất định. Đó là một thể thống nhất, bền vững các yếu tố cấu thành (các thao tác) có
quan hệ với nhau. Sơ đồ là khái niệm then chốt trong lý thuyết phát sinh trí tuệ và thể
hiện rõ nhất tư tưởng của J. Piaget về bản chất tổ chức, bản chất của thao tác trí tuệ. J.
Piaget cho rằng trí tuệ có bản chất thao tác (Operation) và được trẻ em xây dựng nên
bằng chính hành động (Action) của mình. Sự phát triển trí tuệ được hiểu là sự phát
triển của hệ thống thao tác. Thao tác – đó là hành động bên trong, nó được nảy sinh
từ các hành động có đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, khác với hành động, thao tác là
hành động có tính rút gọn và đối tượng của nó không phải là những sự vật có thực,
mà là những hình ảnh, biểu tượng, kí hiệu. Thao tác có tính chất thuận nghịch
(reversible); bảo tồn (conservation); tính liên kết (associative). Các thao tác được cấu
trúc thành hệ thống nhất định (cấu trúc thao tác). Thao tác trí tuệ không có sẵn trong
đầu đứa trẻ, cũng không nằm trong đối tượng khách quan, mà nằm ngay trong sự tác
4
4
động qua lại giữa chủ thể với đối tượng, thông qua hành động. Có nghĩa là đứa trẻ tự
xây dựng cấu trúc trí tuệ cho mình. Thời kỳ đầu, trẻ em tiến hành thao tác với vật liệu
là các dạng vật chất cụ thể, các hành động thực tiễn – mức thao tác cụ thể. Sau đó,
các vật liệu cụ thể được thay bằng các ký hiệu, khái niệm, mệnh đề,… trí tuệ được
phát triển tới mức thao tác hình thức - mức trưởng thành.
Theo J. Piaget, trí tuệ cá nhân phát triển từ thấp đến cao được tuân theo trật
tự chặt chẽ, hằng định. Đây không phải là trật tự thời gian mà là trật tự kế tiếp, mọi
cá nhân phát triển bình thường đều phải tuân theo trật tự đó. Đồng thời quá trình
phát triển này theo hai quy luật: tăng trưởng liên tục, từng tí, từng tí một (theo cơ
chế đồng hóa) và phát triển nhảy vọt chuyển giai đoạn theo nguyên lý thống hợp.
Chính nhảy vọt cho ta khái niệm giai đoạn. Mỗi lứa tuổi có đặc trưng riêng về chất
lượng trí tuệ và được coi là một giai đoạn phát triển. Một giai đoạn trí tuệ có những
đặc trưng sau: thứ nhất, các thành tựu trí khôn giai đoạn này là sự kế tiếp giai đoạn
trước; thứ hai, là sự thống hợp các cấu trúc đã có từ giai đoạn trước; thứ ba, mỗi
giai đoạn là một cấu trúc tổng thể các sơ đồ chứ không phải là sự xếp chồng các sơ
đồ lên nhau; thứ tư, mỗi giai đoạn đều gồm cấu trúc đã có, đang có và các yếu tố
chuẩn bị cho giai đoạn tiếp sau.
Lý thuyết phát sinh trí tuệ là một trong những học thuyết có ảnh hưởng và có uy
tín nhất trong tâm lý học thế kỷ XX. Các khía cạnh cần quan tâm nhất của học thuyết
này là cách tiếp cận phát sinh, phát triển khi giải quyết vấn đề cơ bản của tâm lý học;
các phương pháp nghiên cứu khách quan, đặc biệt là phương pháp lâm sàng; quan
điểm nhấn mạnh hoạt động trí tuệ không đơn thuần là hoạt động nhận thức, là sự tái
lập lại đặc điểm của các vật thể bên ngoài, mà chủ yếu là thay đổi chính chủ thể nhận
thức. Sự thay đổi đó quy định khả năng nhận thức đối tượng mới, tách ra các giai đoạn
phát triển cụ thể,…
(6) Tiếp cận hoạt động
Hướng tiếp cận hoạt động là một cuộc cách mạng thực sự trong tâm lý học
nói chung, trong nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tư duy, trí tuệ cá
nhân nói riêng. Lý thuyết hoạt động được hình thành từ những năm 1930, đạt
đỉnh cao vào những năm 1970. Đại diện cho cách tiếp cận này là các nhà tâm lý
học Nga như: L. X. Vưgotxki và A. N. Leonchiev, X. L. Rubinstein, P. Ia.
Galperin,
5
5
Hướng tiếp cận hoạt động tìm cách khắc phục những thiếu sót của các cách
tiếp cận trước đây, bằng cách khai thác triệt để thành tựu của triết học duy vật biện
chứng và lịch sử, lấy triết học này làm nền tảng phương pháp luận cho việc nghiên
cứu tâm lý, tư duy con người. Luận điểm cơ bản ở đây là: Con người làm ra chính
bản thân mình bằng lao động và hoạt động xã hội. Toàn bộ đời sống tâm lý, ý
thức của con người là sự phản ánh thực tiễn đời sống vật chất của nó. Tâm lý ý
thức được hình thành và được biểu hiện qua hoạt động, mà trước hết là lao động
sản xuất và hoạt động xã hội. Vì vậy muốn nghiên cứu tâm lý, tư duy của con
người một cách khách quan, tất yếu phải bắt đầu từ nghiên cứu toàn bộ đời sống
(cấu trúc, lịch sử phát sinh hình thành và phát triển) của hoạt động thực tiễn của
con người. Công việc chủ yếu của các nhà tâm lý học là phân tích các dạng hoạt
động trong đời sống thực tiễn, xã hội của chúng; phát hiện các quy luật hình
thaành và chuyển hóa từ dạng hoạt động vật chất bên ngoài thành dạng hoạt động
tâm lý bên trong và ngược lại, từ trong ra ngoài. Chỉ có thể trên cơ sở hiểu biết
đầy đủ và sâu sắc các quy luật hình thành và chuyển hóa đó; hiểu biết các yếu tố
liên quan và chi phối quá trình này, thì khi đó các nhà tâm lý mới có hy vọng hiểu
biết, kiểm soát, điều chỉnh việc hình thành tâm lý, tư duy con người. Như vậy,
chìa khóa để nghiên cứu trí tuệ, theo hướng tiếp cận hoạt động là tìm hiểu sự hình
thành hoạt động trí tuệ từ hoạt động thực tiễn, vật chất bên ngoài. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu này không giống các nhà hình thái học quan sát, mô tả hành vi trí tuệ
của con vật hay của trẻ em theo kiểu “ở đây và bây giờ”. Các nhà tâm lí học hoạt
động nghiên cứu trí tuệ trong toàn bộ đời sống hiện thực của nó. Từ nghiên cứu
chức năng, cấu trúc của nó đến nguồn gốc, nội dung xã hội, lịch sử phát sinh, hình
thành và phát triển. Ở mức độ nhất định, cách tiếp cận hoạt động gần giống tiếp
cận phát sinh trí tuệ của J.Piaget. Cả hai cách tiếp cận đều quan tâm và đề cao thao
tác, hành động trí tuệ của cá nhân, đều tìm hiểu và xác lập quá trình phát sinh,
phát triển trí tuệ của trẻ em. Điểm khác nhau cơ bản giữa hai cách tiếp cận này là
ở chỗ, tiếp cận phát sinh chủ yếu dựa theo các nguyên tắc sinh học và lôgic học để
xác lập quy luật phát sinh về mặt lôgic - tâm lí của trí tuệ. Vì vậy, mặt cảm xúc và
nội dung xã hội của nó bị bỏ qua. Mối quan hệ giữa chủ thể với môi trường xã hội
được quy về quan hệ vật lý. Trong khi đó mặt văn hóa - xã hội của các quan hệ
này mới thực sự ảnh hưởng tới chiều hướng và phương thức phát sinh, phát triển
trí tuệ của trẻ em trong các nền văn hóa khác nhau và chúng là nội dung chính của
6
6
học thuyết lịch sử - văn hóa về sự phát triển tâm lí người do L.X.Vưgotxki sáng
lập.
Theo cách tiếp cận hoạt động, việc nghiên cứu tâm lí, trí tuệ phải dựa trên
các nguyên tắc phương pháp luận triết học duy vật lịch sử và biện chứng: nguyên
tắc gián tiếp và nguyên tắc lịch sử - phát sinh. Từ các nguyên tắc phương pháp
luận này, các nhà tâm lí học hoạt động đã sử dụng nhiều phương pháp khách quan
để phân tích, mô tả, hình thành trí tuệ cho trẻ em. Kết quả là hàng loạt vấn đề nan
giải trong tâm lí học về trí tuệ đã được giải quyết, đặc biệt là việc chủ động tổ
chức, định hướng, điều khiển, điều chỉnh trẻ em hoạt động để qua đó hình thành
và phát triển trí tuệ của mình. Có thể nêu vấn tắt một số thành tựu mà lí thuyết
hoạt động đã đạt được.
+ Về trí tuệ và cấu trúc của trí tuệ: Theo quan điểm của L.X.Vưgotxki, cần
tách ra hai mức trí tuệ: trí tuệ bậc thấp và trí tuệ bậc cao. Trí tuệ bậc thấp có
phần giống với trí tuệ động vật mà ta vẫn thấy trong các thực nghiệm của
V.Kolơ, U.Stecnơ trên khỉ và trí tuệ bậc cao chỉ có ở con người. Trí tuệ bậc thấp
được đặc trưng bởi mối quan hệ trực tiếp kích thích - phản ứng (như đã thấy
trong các sơ đồ S – R của hướng tiếp cận hành vi); còn trí tuệ bậc cao được đặc
trưng bởi sự tham gia của ngôn ngữ và các mối quan hệ gián tiếp giữa chủ thể
với đối tượng thông quan công cụ tâm lí (kí hiệu tâm lý).
+ Nguồn gốc khách quan của trí tuệ người không nằm trong cơ chế sinh học
mà ở trong thực tiễn đời sống văn hóa – xã hội. Trí tuệ người có nội dung xã hội –
lịch sử. Môi trường xã hội không phải là điều kiện của sự phát triển trí tuệ, mà là
nguồn gốc của sự phát triển. Sự phát triển trí tuệ của trẻ em bao giờ cũng chịu sự
chế ước của xã hội. Phương thức hoạt động trí tuệ của cá nhân là phương thức trí
tuệ của xã hội.
+ Trí tuệ bậc thấp được hình thành theo cơ chế tiến hóa, cơ chế thích nghi,
từ dưới đi lên, theo con đường tập nhiễm. Trí tuệ cấp cao có bản chất hoạt động
và được hình thành theo cơ chế lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội – lịch sử. Đó là
quá trình cấu trúc lại chức năng trí tuệ bậc thấp, đã có, bằng cách chủ thể sử
dụng các công cụ tâm lí, đưa vào các cấu trúc đó, cải tổ lại chúng, hình thành cấu
trúc mới. Sự phát triển trí tuệ trẻ em là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm của loài
người; là quá trình hình thành hành động trí tuệ của các em. Quá trình hình thành
này diễn ra theo quy luật phổ biến cho mọi chức năng tâm lí cấp cao. Quy luật đó
7
7
được phát biểu như sau: Bất kì chức năng tâm lí cấp cao nào của trẻ em trong
quá trình phát triển cũng đều được thể hiện hai lần: lần đầu là hoạt động tập
thể, hoạt động xã hội, tức là chức năng tâm lí bên ngoài. Lần thứ hai là hoạt
động cá nhân, là phương pháp bên trong của tư duy trẻ em, là chức năng tâm lí
bên trong. Quá trình chuyển hóa hoạt động vật chất, bên ngoài, thành hoạt động
tâm lí, trí tuệ bên trong được diễn ra qua một số khâu, một số bước. Các bước
chuyển hóa này và việc định hướng chúng được nghiên cứu, mô tả khá kĩ trong
công trình nghiên cứu của P.Ia.Galperin.
+ Trí tuệ của trẻ em được hình thành bằng chính hoạt động của nó. Mỗi giai
đoạn phát triển của trẻ có nhiều hoạt động. Trong đó, có hoạt động chủ đạo, là hoạt
động có vai trò chủ yếu đối với sự phát triển trí tuệ và của các hoạt động khác trong
giai đoạn đó. Sự phát triển trí tuệ của trẻ em phụ thuộc trước hết vào hoạt động nào
giữ vai trò chủ đạo trong từng giai đoạn. Vì vậy, hình thành và phát triển trí tuệ của
trẻ em gắn liền với việc hình thành hoạt động chủ đạo trong mỗi giai đoạn phát triển
của nó.
+ Trẻ em không thể tự mình hoạt động “theo kiểu Rôbinxơn”. Hoạt động
của trẻ em với thế giới đồ vật bao giờ cũng phải trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua người lớn, lấy người lớn làm trung gian. Nói cách khác, trí tuệ bậc cao của
trẻ em là sản phẩm của hoạt động và hợp tác của nó với người lớn. Vì vậy, dạy
học hợp tác giữa người dạy và người học (dạy học tương tác) là phương thức
mang lại hiệu quả nhất. Dạy học phải là một quá trình tương tác giữa trẻ em và
học phải là một quá trình tương tác giữa trẻ em và học phải là một quá trình
tương tác giữa trẻ em và người lớn, người dạy và người học là hai chủ thể của
một hoạt động chung.
+ Dạy học, theo đúng chức năng của nó là dạy học phát triển. Muốn vậy, nó
không được đi sau sự phát triển, phụ họa cho sự phát triển. Dạy học phải đi trước
sự phát triển, kéo theo sự phát triển. Tức là dạy học không hướng vào trình độ
phát triển hiện thời mà phải tác động vào vùng phát triển gần nhất trong trí tuệ
của học sinh.
1.1.2. Khái niệm tư duy
Ý thức của con người bắt nguồn từ thuộc tính phổ biến của vật chất là
thuộc tính phản ánh, mà bộ óc người là một dạng vật chất tiến hóa cao nhất trong
giới tự nhiên, với hệ thống thần kinh phức tạp, tinh vi, nhạy cảm, có năng lực
8
8
phản ánh sáng tạo rất cao. Chính nhờ năng lực ấy mà nảy sinh ra ý thức bộ não
của con người. Theo Mác, ý thức là cái vật chất được di chuyển vào óc người và
được cải biến trong đó. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là
sản phẩm của quá trình nhận thức hiện thực khách quan thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhận thức là hoạt động phản ánh, là sự xâm nhập vào
sự vật để “hiểu sự vật”, “nắm bắt” những quan hệ, những quy luật, những
khuynh hướng của nó.
Trong Tâm lý học, một trong những nghiên cứu tương đối đấy đủ nhất về tư
duy đã được trình bày trong các công trình của X. L. Rubinstein. Theo Rubistein: “Tư
duy – đó là sự khôi phục trong ý nghĩ của chủ thể về khách thể với mức độ đầy đủ hơn,
toàn diện hơn so với các tư liệu cảm tính xuất hiện do tác động của khách thể” (dẫn
theo Đavưđov V. V. (2000), Các dạng khái quát hóa trong dạy học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội).
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Trần Trọng Thủy, Nguyễn
Quang Uẩn (1992), (trong Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội) đã định nghĩa:
“Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan”.
“Tư duy là một quá trình tâm lý liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ- quá
trình tìm tòi sáng tạo cái chính yếu, quá trình phản ánh một cách từng phần hay
khái quát thực tế trong khi phân tích và tổng hợp nó. Tư duy sinh ra trên cơ sở
hoạt động thực tiễn, từ nhận thức cảm tính và vượt xa giới hạn của nó”
(Sacđacov M. N. (1970), Tư duy của học sinh, Nxb Giáo dục, Hà Nội).
Từ điển Triết học (M. Rô-den-tan và P. I-u-đin, tr. 873): “Tư duy- sản vật
cao cấp của một vật chất hữu cơ đặc biệt, tức là óc, qua quá trình hoạt động của
sự phản ánh hiện thực khách quan bằng biểu tượng, khái niệm, phán đoán,…”
Tư duy là trình độ cao và phức tạp của sự phản ánh, trong đó tạo ra sản
phẩm tinh thần một cách gián tiếp bằng những phương thức trừu tượng hóa, khái
quát hóa trong phân tích và tổng hợp… Đó là quá trình vận dụng khái niệm theo
quy luật logic (hình thức và biện chứng), và cả trực giác để đạt được chân lý. Đó
là quá trình không ngừng bổ sung, tìm tòi, “cải tạo” thế giới hiện thực của tư duy
trong óc người và sử dụng những kết quả ấy làm cơ sở để giải quyết những vấn
đề thực tiễn đặt ra.
9
9
Nhờ hoạt động của thực tiễn và sức mạnh của tư duy mà con người tiến xa
hơn loài vật. Theo Ăngghen, ở con vật và con người đều có lý trí (những phương
thức của hoạt động lý trí như quy nạp, diễn dịch,…). Sự khác biệt là ở con người
và con vật chỉ “khác nhau về trình độ” nhưng là những trình độ khác nhau về
chất. Chính vì vậy, “tư duy biện chứng, chính vì nó lấy sự nghiên cứu bản chất
của ngay những khái niệm làm tiền đề - chỉ có thể có được ở con người đã ở một
trình độ phát triển tương đối cao”…, theo Hêghen chỉ có tư duy biện chứng mới
có lý tính. Cant cũng nói: ‘lý tính là khả năng trí tuệ cao nhất của con người”
(Lịch sử triết học, Nxb Tư tưởng và văn hóa, Hà Nội, 1992, t. 2, tr. 166).
Tư duy bao gồm cả lý trí và lý tính. Lý tính là “chất kỳ diệu” của tư duy,
mà nhờ đó nó soi rọi ánh sáng vào sự vật, xâm nhập, nắm bắt được bí mật của sự
vật. Trong nhận thức cảm tính, các hình ảnh và thông tin ghi nhận được là nhờ
sức mạnh cảm giác của giác quan sinh học, còn lý tính là bản tính tinh thần của
tư duy, dựa trên hệ thần kinh trung ương ở não người, điều khiển khả năng suy
nghĩ của con người. Cái lý tính ấy, chỉ ở con người mới có. Do đó nói nhận thức
của con người là chủ yếu nói tới lý tính tức là tư duy.
1.2. Tư duy như một quá trình và tư duy như một hoạt động
1.2.1. Tư duy được xem xét như là một quá trình: Việc điểm qua các cách
tiếp cận nghiên cứu về tư duy ở trên, thì các trường phái tâm lý đều công nhận:
Tư duy được xem xét như là một quá trình, nghĩa là tư duy có nảy sinh, diễn biến
và kết thúc. Suy cho đến cùng, những quy luật của tư duy là sự phản ánh quy luật
của thế giới vật chất. Những hình ảnh của sự vật, từ mức độ trực tiếp, nguyên
vẹn trên cơ sở các liên tưởng, được tư duy cải biến, sửa chữa, loại bỏ những mặt
phụ, ngẫu nhiên, tìm ra những mặt chính, tất yếu và những quan hệ bền vững
giữa chúng, từ đó hình thành nên những khái niệm tương ứng với các mặt, các
quan hệ tất yếu đó của chúng, rồi cải tạo, kết hợp để xây dựng nên hình ảnh mới
về sự vật. Nhưng, đó không phải là sự phản ánh bị động mà là sự phản ánh chủ
động và sáng tạo của tư duy. Như vậy, quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn
kế tiếp nhau. K. K. Plantonov đưa ra sơ đồ minh họa:
10
10
Nhận thức vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyếtChính xác hóa Khẳng định Phủ định
Hoạt động tư duy mới
1.2.2. Quá trình tư duy là hoạt động trí tuệ, được diễn ra bằng cách chủ thể
tiến hành những “thao tác” trí tuệ nhất định: phân tích tổng hợp, so sánh, trừu
tượng hóa, khái quát hóa. Trong hoạt động thực tiễn, để biến đổi được hiện thực,
con người phải tìm hiểu và nhận thức nó. Chính trên cơ sở hoạt động thực tiễn đó
mà làm cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo. Quá trình nhận thức là quá trình
thu nhận những hình ảnh, từ cảm giác, chuyển dần lên tri giác, biểu tượng, rồi xây
dựng nên những khái niệm, những hình tượng để biểu đạt bản chất của sự vật.
Những khái niệm, phạm trù là hình thức cơ bản của tư duy, mà nhờ đó tư duy
không ngừng đi sâu vào bản chất của thế giới vật chất. Hoạt động của tư duy còn
là hoạt động sử dụng, vận dụng những khái niệm, phạm trù đã có để sáng tạo ra
những khái niệm, phạm trù mới, để phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật của
thế giới khách quan. Hoạt động của tư duy cũng đồng thời là quá trình vận dụng
tri thức vào thực tiễn đời sống hiện thực, soi sáng hoạt động của con người, từ đó
mà tư duy phát triển không ngừng.
Về mặt nội dung và hình thức, tư duy phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã
hội. Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
biến đổi thế giới vì nhu cầu của con người. Xã hội càng mở rộng, càng phát triển
cùng với hoạt động thực tiễn của con người, thì tư duy cũng càng phát triển. Lịch
sử bát đầu từ đâu, tư duy bắt đầu từ đó. Lịch sử không bắt đầu từ tư duy mà bắt
11
11
Giải quyết vấn đề
đầu từ hoạt động sản xuất vật chất - xã hội. Chính hoạt động đó là cốt lõi, là nền
tảng của thực tiễn và của lịch sử trong quá trình tiến hóa và nhận thức. Chính tư
duy, trí tuệ của con người là một sản phẩm của xã hội - lịch sử. Ăngghen khẳng
định: “tư duy, trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học
cải biến tự nhiên”. Quá trình cải biến giới tự nhiên lặp đi lặp lại rất nhiều lần làm
cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ bản chất, phương thức tồn tại của nó, và qua đó
được ghi lại trong óc người. Nói cách khác con người chủ động nhận thức sự tồn
tại ấy, tìm hiểu bí mật ấy, để làm chủ sự vật, hiện tượng phục vụ cho chính cuộc
sống của con người.
Tư duy không chỉ phản ánh thế giới bên ngoài mà còn phản ánh nhu cầu, lợi
ích,… của con người, những quan hệ của con người với thế giới. Nhu cầu và lợi ích
là động lực thúc đẩy con người nhận thức và hành động, thúc đẩy con người giải
quyết những tình huống, những mâu thuẫn cuộc sống. Tư duy của con người vừa do
cơ cấu của bộ não vừa do hiện thực khách quan quy định, nhưng chính hoạt động
thực tiễn của con người là cơ sở, động lực chủ yếu của tư duy. Thực tiễn kiểm tra,
điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận tính đúng đắn của tư duy. Theo Mác, vấn đề
tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn
toàn không phải là vấn đề lý luận, mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn, con
người chứng minh chân lý, tức là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh của tư
duy.
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Con người là chủ thể có tư
duy, có lý tính. Tư duy lý tính ấy đến lượt nó lại soi sáng hoạt động lịch sử, làm đòn
bẩy, làm công cụ lao động trí tuệ, và được vật chất hóa thành công cụ sản xuất.
Chính vì vậy tư duy ngày càng đóng vai trò to lớn trong hoạt dộng thực tiễn của con
người.
Tư duy của con người không phải là bất biến, mà nó cũng có quá trình
biến đổi và phát triển ngày càng cao. Trong nền văn minh hái lượm, nền văn
minh nông nghiệp, tư duy của con người còn đơn giản, thô sơ, còn mang nhiều
tính chất phác. Ở đó, tư duy ở cấp độ kinh nghiệm là chính, đặc biệt ở những
người hoạt động thực tiễn trực tiếp. Tư duy ở trình độ kinh nghiệm và tiền khoa
học dễ dẫn tới phương pháp tư duy phiến diện, chủ quan, rập khuôn máy móc.
Nếu có yếu tố biện chứng thì vẫn còn mang tính tự phát. Ở thời kỳ văn minh
12
12
nông nghiệp, trong giới trí thức đã xuất hiện tư duy lý luận, nhưng bên cạnh
những yếu tố hợp lý, thì cũng mắc phải bệnh không tưởng giáo điều, tư biện.
Thời đại công nghiệp đã mở ra một khả năng mới cho tư duy đi sâu vào bản
chất sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, trong thế kỷ XVII - XVIII, tư duy siêu hình vẫn
thống trị trong triết học và khoa học, mà về sau này mới được khắc phục bởi tư duy
biện chứng.
Tư duy biện chứng duy vật là đỉnh cao của tư duy và trí tuệ đang phát triển
của xã hội loài người. Tư duy đó đang được bổ sung, phát triển trong điều kiện
bước vào nền văn minh trí tuệ. Nền văn minh này cũng đang đòi hỏi và tạo ra
những nội dung, những phương pháp tư duy mới. Tư duy của con người có tính
độc lập tương đối, có sức mạnh riêng của nó. Sức mạnh đó được thể hiện tập
trung ở năng lực tư duy.
1.2.3. Về sự phân loại tư duy: Tư duy và năng lực tư duy là thế giới tinh thần
phong phú. Tư duy của con người trong hoạt động thực tiễn - xã hội, tùy theo từng lĩnh
vực, từng phương diện, từ cấp độ,…, của đời sống mà có những loại hình, những mức
độ, cấp độ khác nhau. Chẳng hạn, về loại hình, có tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư
duy văn hóa,…về hình thức thể hiện, có tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận; về
phương pháp, có tư duy biện chứng, tư duy siêu hình,… Điều này chứng tỏ rằng tư
duy - đặc tính căn bản của óc người là sản phẩm thực sự của hoạt động thực tiễn xã
hội, phản ánh các góc độ, tính chất, phương thức, trình độ của các sự vật và hiện tượng,
các quan hệ trong đời sống muôn vẻ, nhiều cấp độ của con người. Một số nhà Tâm lý
học cho rằng có ba cấp độ tư duy:
(1) Tư duy trực quan, hành động: là cấp độ tư duy bằng các thao tác cụ thể
tay chân hướng vào việc giải quyết một số tình huống cụ thể trực quan.
(2) Tư duy trực quan hình tượng: là loại tư duy phát triển ở mức độ cao
hơn, ra đời muộn hơn so với tư duy trực quan hành động, chỉ có ở người, đó là
loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa vào các hình ảnh của sự vật, hiện
tượng.
(3) Tư duy trừu tượng (tư duy ngôn ngữ logic): là tư duy phát triển ở cấp độ
cao nhất, chỉ có ở người, đó là tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa trên khái niệm,
phạm trù và các mối quan hệ logic và gắn bó với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ là phương
tiện.
13
13
Theo A. V. Ptrovxki và L. B. Itenxơn, có 4 loại tư duy: Tư duy hình tượng, tư duy
thực hành, tư duy khoa học, tư duy logic. Đối với tư duy logic được hiểu là: “Tư duy thay
thế các hành động với các sự vật có thực bằng sự vận dụng các khái niệm theo quy tắc
logic học”.
J. Piaget thường có nói đến 2 loại tư duy: Tư duy cụ thể, tư duy hình thức.
Các thuật ngữ tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm cũng được V. V. Đavưđov
sử dụng trong cuốn Các dạng khái quát hóa trong dạy học. V. A. Cruchetxki đã nói
đến: Tư duy tích cực, tư duy độc lập, tư duy sáng tạo, tư duy lý luận.
1.3. Đặc điểm của tư duy
1.3.1. Tư duy chỉ nảy sinh khi gặp hoàn cảnh có vấn đề;
1.3.2. Tư duy có tính khái quát;
1.3.3. Tư duy có tính gián tiếp;
1.3.4. Tư duy của con người có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ: tư duy và
ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, nhưng cũng không
đồng nhất với nhau. Sự thống nhất giữ tư duy và ngôn ngữ thể hiện rõ ở khâu
biểu đạt kết quả của quá trình tư duy;
1.3.5. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính, tư duy thường
bắt đầu từ nhận thức cảm tính, dù tư duy có khái quát và trừu tượng đến đâu thì
nội dung của tư duy vẫn chứa đựng những thành phần cảm tính (cảm giác, tri giác,
biểu tượng trực quan,…). X. L. Rubinstein khẳng định rằng: “Nội dung cảm tính
bao giờ cũng có trong trừu tượng, tựa hồ như làm thành chỗ dựa cho tư duy” (dẫn
theo Đavưđov V. V. (2000), Các dạng khái quát hóa trong dạy học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội).
1.4. Năng lực tư duy
1.4.1. Khả năng và năng lực
1. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xẩy ra
trong điều kiện nhất định”.“Cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được
việc gì”. Trong Triết học, khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển khách quan
nằm trong những hiện tượng đang tồn tại, sự tồn tại những điều kiện xuất hiện khách
thể, hoặc ít ra sự không tồn tại những tình huống có thể loại trừ điều kiện xuất hiện
khách thể.
14
14
Từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý
và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất
lượng cao.
2. Thuật ngữ “khả năng” thông thường có hai nghĩa. Thứ nhất, nó có nghĩa là
khả năng làm một việc nào đó: chúng ta nói rằng “anh ấy có khả năng dạy Toán” tức
là anh ấy đáp ứng yêu cầu việc dạy học môn Toán, nói anh ấy “không có khả năng
dạy học” nghĩa là anh ấy không đáp ứng được yêu cầu dạy học. Nghĩa thứ hai, theo
Từ điển tiếng Anh Oxford “có các phẩm chất cần thiết theo luật để thực hiện những
công việc nhất định” hoặc “khả năng là việc có thể đáp ứng yêu cầu công việc theo
một tiêu chuẩn nhất định và có thể áp dụng linh hoạt kỹ năng và kiến thức trong
những tình huống mới”
3. Từ điển Triết học [tr. 379]: Năng lực hiểu theo nghĩa rộng là những đặc
tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện cho hoạt động
sống của cá thể. Năng lực chung nhất của cá thể là tính nhạy cảm được hoàn
thiện trong một quá trình phát triển về mặt phát sinh loài và về mặt phát triển cá
thể.
Năng lực hiểu theo nghĩa đặc biệt là toàn bộ những đặc tính tâm lý của
người thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất định. Sự hình
thành năng lực đòi hỏi cá thể phải nắm được các hình thức hoạt động mà loài
người đã tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử xã hội. Năng lực của con người
không những do hoạt động bộ não quyết định, mà trước hết là do trình độ phát
triển lịch sử mà loài người đã đạt được. Theo ý nghĩa đó thì năng lực của người
gắn liền không thể tách rời với tổ chức lao động xã hội và với hệ thống giáo dục
ứng với tổ chức đó.
4. Năng lực luôn được xem xét trong mối quan hệ với hoạt động hoặc quan hệ
nhất định nào đó. Cấu trúc của năng lực gồm ba bộ phận cơ bản: Tri thức về lĩnh vực
hoạt động hay quan hệ đó; Kĩ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến, ứng xử với
quan hệ nào đó; Những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện tri thức, kĩ năng đó
trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng. Ta có sơ đồ sau
15
15
CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ
CƠ SƠ ĐỂ REN
LUYỆN VÀ
PHÁT TRIỂN
NLTD
KIẾN THỨC
KỸ NĂNG
1.4.2. Khái niệm năng lực tư duy
Năng lực tư duy là một khả năng, một phẩm chất tâm sinh lý của óc người,
vừa như là cái tự nhiên bẩm sinh, “sẵn có”, vừa như là sản phẩm của lịch sử, hơn
nữa là sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội. Cái vốn có tự nhiên ấy thông qua
rèn luyện trong thực tiễn mới trở nên một sức mạnh thật sự có hiệu quả của con
người và xã hội.
Năng lực tư duy là sản phẩm của quá trình phát triển ngày càng cao yếu tố
tự nhiên, lịch sử của con người và nhân loại. Nói cách khác, năng lực tư duy
ngày càng được nâng cao theo sự phát triển của con người và lịch sử. Nhưng đó
không phải là một quá trình tự phát, mà là cả một quá trình tự giác. Nghĩa là con
người tự giác rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy của mình.
Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng
hóa, khái quát hóa, tưởng tượng, suy luận - giải quyết vấn đề, xử lý và linh cảm
trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn.
Cần phải nhận thức rằng hoạt động của tư duy không thể tách rời yếu tố cảm
xúc, ý chí ở tầng vô thức và hữu thức. Cảm xúc không phải là tri thức, nhưng lại
là một yếu tố cần thiết cấu thành và là môi trường xúc tác của quá trình tư duy.
Hiện nay, nhiều khi người ta thường chưa chú ý tới mặt cảm xúc, mà khi nói đến
tư duy người ta nói đến trí tuệ (tri thức và phương pháp), điều này chưa hiểu đầy
đủ về tư duy. Vấn đề này được Các nhà tâm lý học lớn như P. Janet, J. Piaget,
L.X. Vưgôtxki đều khẳng định vai trò của cảm xúc đối với hoạt động trí tuệ,
hoạt động nhận thức của cá nhân. “Mọi hành động trí tuệ đều có sự tham gia của
cảm xúc. Nó thâm nhập ngay từ các hoạt động tri giác, đến việc lựa chọn các
thao tác và ra quyết định trí tuệ. Mức độ ảnh hưởng này rất lớn và trải ra trên
một phổ rộng, từ những cảm xúc đơn giản, đến tình cảm phức hợp và cuối cùng
là sự tham gia của những linh cảm trực giác”. Tuy nhiên, nhiều công trình
16
16
nghiên cứu và được kiểm nghiệm trong thực tiễn, kết quả hoạt động sống của
mỗi cá nhân không hoàn toàn tỷ lệ thuận với năng lực trí tuệ đã có của cá nhân
đó. Trong đa số trường hợp, thành công của mỗi cá nhân phụ thuộc nhiều vào
các yếu tố phi trí tuệ logic, đặc biệt phụ thuộc vào mức độ thấu hiểu và kiểm soát
được cảm xúc của mình cũng như của người khác. Vì vậy, những năm gần đây,
nhiều nhà tâm lý học đã tập trung nghiên cứu khả năng thâm nhập của yếu tố trí
tuệ vào trong các lĩnh vực cảm xúc – tình cảm của mỗi cá nhân; khả năng nhận
thức, kiểm soát và điều khiển chúng trong hoạt động và giao tiếp. Từ đó, hình
thành một khái niệm mới “trí tuệ cảm xúc”. Hai nhà tâm lý học Hoa Kỳ Peter
Salovey và Jonh Mayer đưa ra thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” vào năm 1990. Các
ông đã đưa ra quan điểm của mình là “trí tuệ cảm xúc được hiểu là khả năng hiểu
rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được
chúng và sử dụng chúng để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của bản thân”.
Định nghĩa nêu trên đã có sự thay đổi và phát triển.
Daniel Golman (nhà Tâm lý học Hoa Kỳ, 1995) cho rằng: Trí tuệ cảm xúc
là khả năng giám sát các cảm giác và cảm xúc của bản thân và của người khác,
khả năng phân biệt chúng và khả năng sử dụng các thông tin nhằm định hướng
suy nghĩ và hành động của mình.
Nhà tâm lý học H. Steve (1996) lại cho rằng, trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp
giữa sự nhạy cảm về cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm
xúc có được do tự học hỏi, nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc
sống.
Vẫn Peter Salovey (1997) đã định nghĩa lại như sau: Trí tuệ cảm xúc bao
gồm khả năng tiếp nhận đúng, đánh giá và thể hiện cảm xúc, khả năng đánh giá
và phân loại những cảm xúc giúp định hướng suy nghĩ, khả năng hiểu và điều
khiển, định hướng cảm xúc nhằm gia tăng sự phát triển cảm xúc và trí tuệ. Theo
Edward De Bono (người Anh), trí tuệ cảm xúc là loại trí tuệ giúp cá nhân đi sâu
phân tích, khám phá và làm bộc lộ cảm xúc của chủ thể ra ngoài. Nó là loại trí
tuệ trực giác, linh cảm và phi logic.
Vấn đề cấu trúc và vai trò của trí tuệ cảm xúc đã và đang được đề cập
trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà Tâm lý học. Tuy nhiên, hiện thời
có thể nhấn mạnh những thành phần chủ yếu sau của trí tuệ cảm xúc: Khả năng
nhận biết, đánh giá và thể hiện cảm xúc của bản thân; khả năng nhận biết và
17
17
đánh giá cảm xúc của người khác; khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và
của người khác; sử dụng cảm xúc để định hướng hành động.
Năng lực tư duy của con người như đã nói ở trên, có yếu tố bẩm sinh.
Nhưng nếu cho rằng, vì là bẩm sinh nên không cần nâng cao, không cần đổi mới,
không cần phát huy, thì chưa đúng. Thực tế đã chứng minh, yếu tố bẩm sinh có
vai trò rất quan trọng nhưng chỉ ở dạng khả năng, có thể rèn luyện nâng cao, phát
huy được, vì nếu không có tác nhân xã hội thì sẽ mai một dần. “Năng lực của
người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác do
tập luyện mà có”.
Năng lực tư duy xét về mặt tinh thần, trí tuệ, mặt bản chất xã hội, phải được
đổi mới, rèn luyện, bổ sung không ngừng. Tuy nhiên, tùy theo từng bộ phận cấu
thành của tư duy mà có sự rèn luyện, đổi mới khác nhau ít hoặc nhiều trên cơ sở các
quy luật của tư duy và quy luật của tồn tại. Mác đã nói, tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức. Tri thức cao hay thấp, nhiều hay ít ở mỗi người là do năng lực tư duy cao
hay thấp tiếp thu sử dụng nó mà có. Nhưng, đồng thời trình độ tri thức với tư cách là
phương pháp nhận thức là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất để tạo ra và
rèn luyện năng lực tư duy. Nói rèn luyện và phát triển năng lực tư duy trước hết là
nâng cao trình độ tri thức, để tạo nền cho năng lực tư duy. Phải nâng cao trình độ
hiểu biết khoa học, trình độ hiểu biết cuộc sống, nâng cao trình độ tư duy lý luận -
nhất là trình độ tư duy lý luận triết học. Hơn nữa, không chỉ là lý luận trong kinh
điển, mà quan trọng là lý luận và phương pháp thông qua việc giải quyết những vấn
đề thực tiễn. Do đó, việc nâng cao nội dung tri thức không tách rời phương pháp tư
duy. Phương pháp tư duy được đổi mới, nâng cao để làm công cụ rèn luyện và phát
triển năng lực tư duy. Tất nhiên, không có một phương thức tồn tại nào của tư duy lại
tách rời nội dung biện chứng của nó.
Năng lực tư duy không chỉ là năng lực tư duy hình thức mà chủ yếu là năng
lực tư duy biện chứng. Do đó, để phát triển năng lực tư duy, phải bồi dưỡng và phát
triển tính biện chứng của tư duy (khả năng nhận ra và thống nhất các mặt đối lập,
mối liên hệ và sự chuyển hóa giữa các khái niệm, phạm trù; năng lực trừu tượng
hóa, khái quát hóa, suy luận, theo quy luật biện chứng của tồn tại). Nâng cao năng
lực tư duy không phải là mục đích tự thân mà là để giải quyết thành công những
vấn đề thực tiễn.
18
18
Thực tiễn đa dạng, phức tạp, biến đổi nhanh và thông tin, chất xám, khoa
học ngày càng có vai trò quan trọng trong cuộc thử thách, đọ sức, cạnh tranh trí
tuệ. Thế kỷ XXI, kỷ nguyên của khoa học công nghệ, kỷ nguyên trí tuệ, năng lực
tư duy đã trở thành một nguồn lực cơ bản nhất của mỗi con người. Vì vậy việc
nâng cao năng lực tư duy sáng tạo là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển
con người ở nước ta.
1.5. Những điều kiện ảnh hưởng đến năng lực tư duy
Cơ sở của năng lực tư duy bao hàm cả mặt tự nhiên - sinh học và mặt xã
hội - tinh thần. Do đó, năng lực tư duy mạnh về loại hình nào, cao hay thấp,
được phát triển như thế nào, phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện, yếu tố phức tạp
của từng người và môi trường đời sống xã hội mà họ hoạt động trong đó. Cụ thể
là:
Thứ nhất, năng lực tư duy phụ thuộc vào đặc tính bẩm sinh do cấu tạo của
hệ thần kinh trung ương, tâm sinh lý ở từng người. Đây là cơ sở sinh học của
năng lực tư duy không thể coi nhẹ. Khoa sinh vật học, di truyền học ngày nay đã
xác định sự thông minh của con người có cơ sở từ huyết thống, từ đặc điểm của
hệ thần kinh, từ đặc điểm của nhóm máu, từ gen di truyền. Ăngghen cũng coi
năng lực tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của
người ta mà có thôi. Tuy nó chỉ ở dạng khả năng, tức là như một khả năng vốn
có bắt nguồn từ năng lực phản ánh của óc người, nhưng không có khả năng thì
không có hiện thực.
Thứ hai, năng lực tư duy phụ thuộc vào phương thức sản xuất, môi trường
văn hóa, xã hội với tư cách là những yếu tố tạo nhu cầu cho sự phát triển tư duy,
và cũng thể hiện trình độ tư duy mà con người đã đạt được. Năng lực tư duy phải
được phát triển trong môi trường xã hội dân chủ, tự do, phát triển cá tính, cung
cấp nhiều chiều thông tin, có tình huống, mâu thuẫn cần giải quyết thì mới phát
triển tư duy.
Thứ ba, Năng lực tư duy phụ thuộc vào trình độ khoa học và nghệ thuật của
xã hội mà loài người đạt được trong quá trình sáng tạo và sử dụng. Đồng thời, năng
lực tư duy cũng phụ thuộc trực tiếp vào hoạt động giáo dục, đào tạo, tiếp thu tri thức
một cách tự giác và suy ngẫm, thử nghiệm vận dụng tri thức (tri thức nội dung và tri
thức phương pháp). Tính độc lập tương đối và tính năng động của tư duy được tạo
19
19
ra trực tiếp từ tác động của những nhân tố trí tuệ trong giáo dục, đặc biệt là công
nghệ đào tạo.
Thứ tư, điều kiện, nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến năng lực tư duy xét đến
cùng là hoạt động thực tiễn. Hoạt động là nguồn gốc của mọi năng lực, đặc biệt
là năng lực tư duy, chính thông qua hoạt động và bằng hoạt động mà tư duy phản
ánh được phương thức, quy luật tồn tại của sự vật, hiện tượng, tạo ra phương
thức nội dung mới trong năng lực tư duy và rèn luyện cho tư duy một năng lực
phát triển và giải quyết vấn đề.
Thứ năm, nhu cầu, lợi ích - động cơ, cảm xúc tâm sinh lý của chủ thể cũng
ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ hoạt động để hình thành rèn luyện và nâng cao
năng lực tư duy. Đây là động lực bên trong rất quan trọng quyết định nhân cách
của con người cả về mặt đạo đức, bản lĩnh và tư duy.
Trong tất cả các điều kiện, nhân tố nói trên, nhân tố xã hội và sự rèn luyện
bản thân giữ vai trò quyết định. Nhân tố bẩm sinh rất quan trọng nhưng là khả
năng. Không có môi trường thực tiễn, không thông qua học tập phấn đấu thì khả
năng sẽ bị mai một dần. Chính nhờ hoạt động xã hội trong quá trình tiếp thu, tập
luyện nâng cao trình độ trí tuệ và phương pháp tư duy khoa học trong học tập và
kinh nghiệm thực tiễn đã biến khả năng bẩm sinh của năng lực tư duy thành hiện
thực. Đồng thời nhân tố tinh thần cũng tạo thành một cơ sở mới của năng lực tư
duy. Đến lượt nó, năng lực này phải tiếp tục được phát huy sử dụng mới có tính
hiện thực. Với ý nghĩa ấy, có thể nói “di truyền xã hội” bao gồm cả hai yếu tố tự
nhiên - sinh học và yếu tố xã hội - thực tiễn là yếu tố trực tiếp và chủ yếu tạo
thành nguồn gốc của năng lực tư duy.
1.6. Những đặc trưng và yếu tố cơ bản của năng lực tư duy
Trong quá trình đổi mới, trong đó có đổi mới tư duy, nhiều nhà nghiên cứu
đã đề cập nhiều tới tư duy với các góc độ khác nhau, nhất là nội dung và phương
pháp tư duy. Có nhà nghiên cứu lưu ý đến năng lực tư duy, năng lực suy nghĩ,
cho đây là vấn đế rất quan trọng khi nói đến đổi mới tư duy. Có nhà nghiên cứu
cho rằng: “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ, đáp ứng yêu cầu
nhận thức thế giới và bản thân con người, đảm bảo cho hành động sáng tạo của
mình”.
Nhưng, năng lực tư duy cần phải được nhìn nhận, nghiên cứu một cách cụ
thể để làm rõ hơn phẩm chất và sức mạnh trí tuệ của con người, tức là làm rõ
20
20
năng lực lý tính. Năng lực tư duy là khả năng phản ánh, sản xuất tri thức, biến tri
thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm
ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và hiện tượng, vận dụng đúng
đắn các quy luật trong cuộc sống.
1.6.1. Những yếu tố cơ bản của năng lực tư duy
Một là, yếu tố thấp của năng lực tư duy là năng lực ghi nhớ, tái hiện, vận dụng
những tri thức đã tiếp thu, không có năng lực này thì không có cơ sở cho sự suy nghĩ
và tư duy. Nói về trí nhớ, có hai cấp độ: trí nhớ cảm tính và trí nhớ lý tính, đều thể hiện
tính bền vững của sự phản ánh. Trí nhớ, nhất là trí nhớ ở trình độ tư duy đã được khoa
học thừa nhận là một trong những năng lực thể hiện trí thông minh, phẩm chất rất quan
trọng của nhân tài (trí nhớ, ý chí, sự thông minh).
Hai là, trừu tượng hoá, khái quát hoá trên tiềm lực phân tích và tổng hợp. Nói
cách khác, đó là năng lực phân tích và tổng hợp ở trình độ lý tính, tức là có khả năng
tách bản chất khỏi hiện tượng, cái chung khỏi cái riêng, và liên kết lại với nhau trong
chỉnh thể, từ đó đi đến kết luận và những biểu trưng. Trừu tượng hóa được coi như là
năng lực tinh thần cơ bản nhất của tư duy con người. Trong nhận thức các hiện tượng
xã hội, Các Mác đặc biệt coi trọng sức trừu tượng hóa của tư duy.
Ba là, liên tưởng, tưởng tượng, suy luận là một loại năng lực bậc cao của tư
duy, năng lực này gắn liền với cảm xúc, tạo ra sức sáng tạo. Sức tưởng tượng phong
phú, có tiềm lực là một phẩm chất quan trọng của trí thông minh và năng lực tư
duy. Nếu xét về mặt logic thì quá trình tưởng tượng cũng gắn liền với quá trình suy
lý, suy luận theo cả logic hình thức và logic biện chứng, cơ sở của sự tư duy đúng
đắn và sáng tạo.
Bốn là, trực giác với linh cảm là sản phẩm của quá trình tích luỹ, suy ngẫm
trong quan sát và nghiên cứu. Năng lực này không chỉ ở trình độ tâm lý thông
thường mà còn ở trình độ nhận thức bậc cao như sự thăng hoa của quá trình nhận
thức và tư duy ở tầng sâu của trí tuệ. Cần phải hiểu năng lực trực giác trong vô
thức, tiềm thức là một năng lực tư duy tiềm tàng rất qua trọng. Thiếu điều này sẽ
không hiểu đầy đủ được cơ chế sáng tạo của tư duy.
Bốn loại yếu tố này nằm trong tổng thể như một quá trình bao hàm, chuyển hoá
lẫn nhau, tương sinh và tạo thành năng lực tư duy ở trình độ chính xác và sáng tạo.
Yếu tố quan trọng nhất là năng lực trừu tượng hoá, suy luận và tưởng tượng, vì thế,
cần phải có biện pháp bồi dưỡng các yếu tố năng lực tư duy này.
21
21
1.6.2. Những đặc trưng cần chú ý của năng lực tư duy
(1) Hoạt động tư duy không thể tách rời yếu tố cảm xúc, ý chí. Cảm xúc
không phải là tri thức, nhưng nó là một yếu tố cần thiết cấu thành, là môi trường
xúc tác của quá trình tư duy. Đây là điểm cần lưu ý khi rèn luyện và phát triển
năng lực tư duy cho học sinh.
(2) Năng lực tư duy thể hiện trên cả hai lĩnh vực, hai chức năng là phản
ánh, xử lý và vận dụng tri thức. Tức là vừa khái quát hoá thành tư tưởng, quan
điểm, vừa phải cụ thể hoá thành mục tiêu, giải pháp để giải quyết vấn đề trong
những tình huống nhất định.
(3) Vai trò của năng lực tư duy thể hiện ở ba mặt: Một là, tư duy huy động
được toàn bộ trí lực, cả nội dung và phưong pháp tư duy; hai là, cụ thể hoá
những nhận thức đó để định hướng và chỉ đạo hành động cụ thể của con người
trong thực tiễn; ba là, lưu giữ, truyền bá, phát triển tri thức, càng sử dụng càng
sâu sắc, càng tích luỹ được nhiều càng được duy trì.
(4) Tư duy có nhiều trình độ nhất định mà ở từng người, hoặc từng thời đại
đạt được. Trình độ tư duy thể hiện một năng lực tư duy nhất định, và ngược lại,
năng lực tư duy nào cũng thể hiện ra ở một trình độ tư duy nhất định. Trình độ tư
duy là mức độ đạt được về nội dung và phưong pháp tư duy, còn năng lực tư duy là
một sức mạnh tinh thần, phẩm chất trí tuệ trong nhận thức, thể hiện tập trung ở
phưong pháp tư duy.
1.7. Vai trò của trực giác
Từ trước tới nay, việc tìm kiếm và đi đến những nhìn nhận khác nhau về
những nhân tố định hướng, thúc đẩy hoạt động của con người, nhìn chung các
nhà khoa học đều khẳng định đó là các yếu tố bản năng, nhu cầu, lợi ích, động
cơ, tình cảm, ý chí, ước mơ, lý tưởng, Những người khẳng định các yếu tố vật
chất (sinh học - kinh tế, ) quyết định là những người duy vật, còn những người
khẳng định yếu tố tinh thần, ý thức là quyết định thì đó là những người theo chủ
nghĩ duy tâm. Còn những người coi vật chất và tinh thần, ý thức có vai trò độc
lập, vai trò như nhau thì đó là những người theo nhị nguyên luận.
Trên thực tế, vấn đề không đơn giản như thế, mà là rất phức tạp. Nhiều
người đặt vấn đề là vô thức ở con người và các yếu tố ý thức (hữu thức) có tác
động như thế nào trong hoạt động nhận thức của con người. Có người cho rằng,
22
22
yếu tố ý thức, lý trí đóng vai trò quyết định chính hoạt động tư duy con người.
Cũng có người lại cho rằng các động lực vô thức đóng vai trò chủ yếu. Vô thức
có hai cách quan niệm: vô thức bản năng; vô thức trí tuệ tinh thần.
Những nhân tố bản năng mang tính vật chất, hoặc tinh thần mà ý thức, lý
trí không biết được, không điều khiển kiểm soát thì gọi là các nhân tố vô thức.
Vô thức được hiểu như một hệ thống nhiều mức độ, nhiều loại hình khác nhau,
nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức. Có nhiều cách phân chia vô thức bản năng
mang tính sinh vật như phản xạ nhu cầu ăn uống, tính dục , hoặc các hoạt động
sinh-lý-hóa duy trì hoạt động sự sống của cơ thể liên quan đến sóng điện từ,
trường sinh học ; vô thức tinh thần cũng là những kinh nghiệm sống, những tri
thức trong quá trình nhận thức ở cấp độ ý thức dần dần tích lũy “nhập kho” tạo
thành các hiện tượng vô thức (gồm cả tiềm thức), đây là điều quan trọng trên
bình diện vô thức tinh thần. Từ đó mà có trực giác bản năng và trực giác tinh
thần lý tính. Do đó, không thể chỉ quy vô thức chỉ là bản năng.
Các nhà triết học phi duy lý thường đánh giá cao các nhân tố vô thức,
thậm chí còn cực đoan tuyệt đối hóa vô thức. Các nhà triết học duy lý lại chưa
coi trọng các nhân tố vô thức, ít đi sâu nghiên cứu vô thức, hoặc né tránh vấn đề
này. Ngay ở Việt Nam, vấn đề vô thức vẫn bị coi nhẹ, ít quan tâm nghiên cứu,
nhiều khi còn coi vấn đề vô thức như là một thần bí, duy tâm. Vấn đề vô thức
này đang được xem xét dưới ánh sáng của khoa học hiện đại – cận hiện đại: cận
tâm lý, cận vật lý, cận hóa học, cận sinh học, , những khoa học nghiên cứu các
hiện tượng tâm linh - vô thức, nghiên cứu những hiện tượng vô hình, kỳ bí trong
vũ trụ và đời sống nhân sinh, nghiên cứu bản thể vũ trụ, bản thể con người.
Từ trước tới nay, các nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu các hiện tượng vật
lý hữu hình, và các hiện tượng duy lý. Ngày nay, người ta hiểu rõ hơn thế giới
vật chất có hai mặt: hữu hình và vô hình (vật chất mịn, các dạng năng lượng,
sóng điện). Nếu theo quá trình hình thành vũ trụ thì các dạng vật chất vô hình
mới là cái tạo nên vật chất hữu hình. Cái vô hình theo nghĩa rộng có cả vật chất
và tinh thần, nghĩa là tinh thần cũng thuộc về thế giới vô hình. Nhưng tinh thần
lại không tách rời các dạng vật chất vô hình và hữu hình. Không có linh hồn,
nghĩa là không có tinh thần thuần túy tách khỏi vật chất, dù có thể nói về tinh
thần hay ý thức “thuần khiết”. Trong hoạt động của con người, động lực vật chất
cũng như động lực tinh thần đều có mặt vô thức và mặt hữu thức. Cho nên, khi
23
23
dùng khái niệm vô thức - tâm linh cần chú ý đến cấp độ bản năng sinh học và
cấp độ tinh thần, mặc dù, hai cấp độ này có tác dụng khác nhau đối với hành vi
hoạt động của con người.
Bản năng sinh tồn là bản năng quyết định sự sống sinh học của con người
như là một thực thể sinh vật trong quá trình trao đổi chất với môi trường bên
ngoài cả về mặt tự nhiên và xã hội. Sự tương tác giữa con người với môi trường
là động lực quyết định sự sống, nhân cách, toàn bộ hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người. Sự tương tác này làm nảy sinh hoạt động xã hội. Hoạt động
xã hội của con người bao gồm lao động xản xuất, sinh hoạt vật chất và văn hóa,
tất nhiên trong đó có hoạt động toán học và giáo dục toán học. Vô thức và hữu
thức, trực giác và lý trí trái ngược nhau nhưng lại bổ sung cho nhau.
Mặc dù ta khẳng định các bản năng vô thức sinh học có ảnh hưởng lớn tới
nhân cách và hành vi con người, nhưng điều mà ta quan tâm là vô thức tinh thần.
Vô thức tinh thần tạo ra trực giác lý tính, và trực giác lý tính có khả năng nhận
thức trực tiếp, toàn bộ, tạo ra sự cộng hưởng trí tuệ với những sự bừng sáng,
sáng tạo mà không cần suy luận logic. Trong não bộ thì đây là vai trò của não
phải, với khả năng vô thức, trực giác tinh thần này đã tạo ra khả năng nhận thức
và hoạt động sáng tạo của con người. Còn não trái là nhận thức có ý thức, đóng
vai trò tư duy logic, kiểm tra, phối hợp với não phải của tư duy vô thức. Trong
hoạt động nghệ thuật, khoa học, thực tiễn, quản lý, dạy học đều thấy rõ vai trò to
lớn của vô thức, tâm linh và trực giác. Nhưng ở đây có sự chuyển hóa giữa hai
khả năng trên của hai não bộ. Trong tâm thức của mỗi người có hai cơ chế hoạt
động rất khác nhau, đó là cơ chế vô tiềm thức và cơ chế hữu thức. Cơ chế hữu
thức là cơ chế nhận thức theo kiểu logic hình thức và biện chứng, còn cơ chế vô
tiềm thức là cơ chế có đặc điểm nhận thức tự động- đồng thời từ phía toàn bộ phi
thời gian, phi không gian, phi ngôn ngữ và có khả năng nhạy cảm cao, thậm chí
bắt được các tần số rất thấp, các sóng điện trong vũ trụ vô hình. Hiện tượng này
gần giống các băng thu phát vô tuyến ở dạng vật lý thông thường. Thông tin ý
thức nảy sinh và truyền đi cả bằng cơ chế ngôn ngữ và cơ chế phi ngôn ngữ
nhưng không phải phi vật chất.
Trong quá trình dạy học, cũng cần nghiên cứu, hiểu phần nào cơ chế của vô
thức tiềm thức. Vô thức, tiềm thức và hữu thức, ở mỗi mặt, mỗi cấp độ, mỗi hình
thức đều có vai trò riêng, không thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Tiếp cận ý thức
24
24
tinh thần từ hữu thức đến tiềm thức và vô thức là cách tiếp cận theo chiều sâu.
Không nên chỉ dừng lại ở ý thức, và cũng không được bất khả tri, thần bí hóa vô
thức. Trên thế giới cũng đã có một số hội nghị khoa học quốc tế về vô thức, ở Viêt
Nam ta cũng có một số học giả bắt đầu nghiên cứu vấn đề vô thức, tâm linh này.
Nhưng sự quan tâm chỉ mới cấp độ trường sinh học. Việc nghiên cứu các bức xạ
điện từ, trường sinh học, các dạng sóng, các cơ thể vô hình chủ yếu nhằm cắt nghĩa
các cảm ứng nhờ các hiện tượng vật lý – sự sống để hiểu các hình thức thần giao
cách cảm, thấu thị, tiên tri, hậu tri.
Trong con người, cần chú ý cả hai mặt: cái vô thức và cái hữu thức. Hai
nhân tố này tạo thành một mâu thuẫn biện chứng trong đời sống tâm thức và tư
duy của con người, có thể chuyển hóa, bổ sung cho nhau, tác động, đấu tranh lẫn
nhau, cùng nhau tồn tại, phát triển. Trong mỗi thời điểm, có thể vai trò của từng
mặt đối lập có khác nhau, nhưng không nên tuyệt đối hóa hay tách rời chúng để
xem xét, đánh giá đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
II. NĂNG LỰC TƯ DUY TOÁN HỌC
2.1. Toán học về phương diện một khoa học
2.1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của toán học
Theo định nghĩa của Ăngghen trước đây thì đối tượng của toán học thuần túy
là những quan hệ số lượng và hình dạng không gian của thế giới khách quan. Ngày
nay toán học nghiên cứu chủ yếu là các quan hệ. Toán học bao gồm các yếu tố sau:
a/ Các sự kiện tích lũy được trong quá trình phát triển;
b/ Các giả thuyết, tức là các mệnh đề khoa học, dựa trên các sự kiện mà đề ra,
và về sau phải được thực nghiệm kiểm tra lại;
c/ Các lý thuyết và các quy luật toán học là kết quả của sự khái quát hóa các tài
liệu cụ thể;
d/ Phương pháp luận toán học, tức là sự giải thích lý luận tổng quát các quy
luật và lý thuyết toán học.
Các yếu tố nói trên liên hệ chặt chẽ với nhau và không ngừng phát triển.
2.1.2. Bản chất của toán học
Phân tích đối tượng của toán học, ta nhận thấy toán học là một khoa học
rất thực tiễn, vì toán học nghiên cứu các quan hệ thực tiễn, trong đó có quan hệ
số lượng và hình dạng không gian của thế giới khách quan. Loài người đã có
25
25