Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

đặc điểm tiểu thuyết vi hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.53 KB, 131 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




THIỀU THỊ PHƢƠNG NGA




ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VI HỒNG












LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN














Thái nguyên năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




THIỀU THỊ PHƢƠNG NGA




ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VI HỒNG





Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Mã số: 60.22.34





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN





Người hướng dẫn khoa học 1 : PGS. TS Đào Thuỷ Nguyên
Người hướng dẫn khoa học 2 :TS. Cao Thị Hảo






Thái nguyên năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 1

3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Bố cục của đề tài 6
CHƢƠNG 1 TIỂU THUYẾT VI HỒNG TRONG DÒNG CHẢY CỦAVĂN
XUÔI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 7
1.1 Khái quát về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. 7
1.2 Vài nét về nhà văn Vi Hồng. 14
1.2.1 Quê hương, gia đình, bản thân 14
1.2.2 Tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng. 19
1.2.3 Quan điểm sáng tác nghệ thuật của Vi Hồng 23
CHƢƠNG 2 HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG 31
2.1 Hiện thực cuộc sống miền núi. 31
2.1.1. Những xung đột chủ yếu của xã hội miền núi trong tiểu thuyết Vi Hồng. 31
2.1.2 Những phong tục tập quán của người miền núi Việt Bắc trong tiểu
thuyết của Vi Hồng. 48
2.1.3 Thiên nhiên miền núi trong tiểu thuyết Vi Hồng. 58
2.2 Con người miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng 66
2.2.1 Con người với số phận bi kịch 66
2.2.2 Con người lí tưởng – con người tận thiện. 69
2.2.3 Con người xấu xa- con người tận ác 72
2.2.4. Con người bản năng 75
2.2.5 Con người tha hoá 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CHƢƠNG 3 MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA VI HỒNG 80
3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và các yếu tố ngoài cốt truyện. 80
3.1.1 Cốt truyện 80

3.1.2 Yếu tố ngoài cốt truyện. 92
3.2. Nhân vật. 96
3.2.1. Khắc hoạ nhân vật qua yếu tố ngoại hình. 97
3.2.2 Khắc hoạ nhân vật qua tính cách, nội tâm 101
3.2.3 Khắc hoạ nhân vật qua hình ảnh thiên nhiên. 107
3.3 Nghệ thuật ngôn từ 115
3.3.1 Hệ thống từ ngữ gắn với cuộc sống và con người miền núi. 115
3.3.2 Ngôn từ giàu hình ảnh, giàu chất thơ 118
KẾT LUẬN 122
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 125



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, mảng văn học các dân tộc thiểu số
tuy chiếm một tỉ lệ khiêm tốn nhưng lại có một vị trí quan trọng, góp phần không
nhỏ làm nên diện mạo phong phú của nền văn học Việt Nam hiện đại. Vì vậy việc
nghiên cứu mảng văn học miền núi là một việc làm cần thiết khi dựng lại bức tranh
toàn cảnh văn hoá, văn học Việt Nam, nhất là trong thời kì hiện đại.
1.2 Trong đội ngũ nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Vi Hồng là một
cái tên được nhiều người biết đến. Tác phẩm của ông không chỉ được khẳng định ở
trong nước mà giá trị của nó còn vượt ra ngoài biên giới quốc gia (tác phẩm Vãi
Đàng của Vi Hồng được dịch ra tiếng Nga in trong “Tuyển tập chọn lọc 6 nhà văn
châu Á” được ấn hành tại Liên Xô cũ). Tính từ tác phẩm đầu tay năm 1959 đến lúc
nhà văn qua đời năm 1997, Vi Hồng đã sáng tác được một số lượng tác phẩm không
nhỏ, ở nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, tiểu luận, phê

bình, nghiên cứu văn học, kịch. Trong đó, thể loại để lại dấu ấn sâu đậm nhất và cũng
thể hiện rõ phong cách của Vi Hồng nhất là thể loại tiểu thuyết. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về
thể loại tiểu thuyết trong sáng tác của Vi Hồng. Vì vậy, việc tìm hiểu đặc điểm tiểu
thuyết của Vi Hồng là việc làm cần thiết có ý nghĩa thực tiễn và khoa học. Công trình
sẽ trở thành tài liệu tham khảo cho cán bộ và sinh viên khoa Ngữ văn nói riêng và cho
những người yêu thích văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung.
1.3. Là một sinh viên trưởng thành từ ngôi trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên – nơi nhà văn Vi Hồng công tác suốt một thời gian dài, việc thực hiện đề tài
này đối với chúng tôi còn là sự tri ân của thế hệ học trò đối với một người thầy, một
nhà văn tiêu biểu của quê hương mình.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1980, cuốn tiểu thuyết đầu tay - Đất Bằng của Vi Hồng được ấn hành.
Đây là một cái mốc quan trọng đánh dấu và khẳng định sự nghiệp văn chương của
Vi Hồng. Đọc bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tay này, nhà văn Nguyên Ngọc đã có
nhận xét : “Tôi thấy cách viết của anh rất khác đối với cách viết của ta - hay ít ra là
của tôi - vẫn thường quen thuộc…Cách viết, bao gồm cách hình dung về nhân vật,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
xây dựng nhân vật, dẫn dắt cốt truyện, lựa chọn tình tiết, tập trung chú ý tình tiết
này hơn tình tiết kia… cho đến kết cấu, bố cục tả người, tả cảnh, tả tình, đặt câu
chọn từ…” [Báo Nhân dân ngày 19/4/1980]. Có thể coi đây là ý kiến đáng chú ý
đầu tiên của một nhà văn có uy tín đánh giá về văn chương Vi Hồng. Từ những
nhận xét bước đầu của Nguyên Ngọc đến nay đã có một số bài viết về tiểu thuyết
của Vi Hồng được đăng tải trên báo chí, kỉ yếu hội nghị khoa học và một số luận
văn tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học đáng chú ý như:
1. Hoàng Văn Huyên (2003), Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
Luận văn thạc sĩ.

2. Ma Thị Ngọc Bích (2004), Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Vi
Hồng, luận văn thạc sĩ.
3. Phạm Mạnh Hùng (2006), Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ tác phẩm Vi
Hồng, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 4.
4. Phạm Mạnh Hùng, Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Vi Hồng, tạp chí
Nghiên cứu Văn học số 2.
5. Ngô Thu Thuỷ (2006), Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu thuyết
của Vi Hồng, kỉ yếu HTKH khoa Ngữ văn trường ĐHSPTN.
6. Lâm Tiến (2006), Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng, tạp chí
Non nước Cao Bằng số 3.
7. Phạm Mạnh Hùng (2006), Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi
Hồng, đề tài nghiên cứu KH cấp bộ.
8. Vũ Tú Anh (2006), Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi Hồng, kỉ yếu HTKH
khoa Ngữ văn trường ĐHSPTN.
9. Nguyễn Long (2006), Người trong ống của Vi Hồng, kỉ yếu HTKH khoa
Ngữ văn trường ĐHSPTN.
10. Dương Thị Xuân (2007), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi
Hồng, luận văn thạc sĩ.
11. Nguyễn Thị Thu Hương (2008), Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết
của Vi Hồng, luận văn tốt nghiệp đại học.
12. Phạm Duy Nghĩa (2009), Đặc điểm văn xuôi Vi Hồng, tạp chí Hội Nhà
văn Việt Nam.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Những công trình nghiên cứu về nhà văn Vi Hồng kể trên đã chú ý và phát
hiện được một số phương diện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết
của nhà văn.

Về nội dung:
Phương diện được nhiều tác giả chú ý nghiên cứu nhất chính là hình ảnh con người
miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Tuy nhiên các tác giả mới chủ yếu nghiên cứu
phương diện này trong sự chi phối của tính dân tộc đến tính cách nhân vật. Tác giả
Hoàng Văn Huyên trong Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng đã chỉ ra 3 đặc
điểm cơ bản của con người miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng là: con người giàu
sức sống, con người bộc trực thật thà và con người giàu khát vọng tình yêu, chung thuỷ.
Phạm Mạnh Hùng trong công trình Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng
lại sử dụng tiêu chí thành phần trong xã hội để phân chia hình ảnh con người trong tiểu
thuyết của Vi Hồng thành 2 loại: người trí thức và người lao động. PGS Phạm Mạnh
Hùng khi nghiên cứu về hình ảnh con người trí thức cũng đã chạm đến vấn đề đạo đức,
lối sống của người cán bộ vùng cao trong giai đoạn cách mạng mới. Qua đó tác giả nhận
định: “Sáng tạo nhân vật trí thức với sự đan xen giữa những con người thánh thiện và
những kẻ xấu xa bẩn thỉu, Vi Hồng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca những người trí thức
có tài năng, nhân cách và sự căm phẫn, lên án những kẻ bất tài, bất nhân, bất nghĩa.”
[32. Tr 52] Tuy nhiên sự nghiên cứu của Phạm Mạnh Hùng còn chưa thật sâu sắc và khái
quát bởi vấn đề này chỉ được ông đặt ra trong phạm vi rất hẹp (chủ yếu trong tác phẩm
Người trong ống và trong khuôn khổ hơn 1 trang của công trình nghiên cứu mà thôi).
Trong công trình nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ nghiên cứu hình ảnh con người ở
diện khái quát, toàn diện hơn, đặt hình ảnh con người trong tiểu thuyết của Vi Hồng
trong thế đối sánh với hình ảnh con người trong tác phẩm của những nhà văn miền núi
khác để chỉ ra nét riêng có, độc đáo của Vi Hồng mà không chỉ bó hẹp cái nhìn con
người trong phạm vi tính dân tộc hay thành phần xã hội.
Phương diện phong tục, tập quán và hình ảnh thiên nhiên trong tiểu thuyết
của Vi Hồng cũng mới chỉ được nghiên cứu rải rác trong một vài công trình và bài
viết chứ chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Và nhất là các tác
giả mới chỉ ra được đóng góp chứ chưa đề cập đến những hạn chế của các phương
diện này trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Đó sẽ là phần mới và cũng là đóng góp
chúng tôi trong công trình nghiên cứu này.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Về nghệ thuật:
Hai phương diện được các tác giả đi trước chú ý nghiên cứu là ngôn ngữ và
nghê thuật xây dựng nhân vật.
Về phương diện ngôn ngữ: Các tác giả (nhất là tác giả Nguyễn Thu Hương trong
khóa luận tốt nghiệp đại học Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết Vi Hồng) đã
nghiên cứu các phương thức tu từ và nghiên cứu trên 2 cấp độ của ngôn ngữ trong tác
phẩm là từ ngữ và lời văn. Từ đó chỉ ra một số đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ trong
tiểu thuyết của Vi Hồng. Có thể nói đây là phương diện nghệ thuật được nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu sắc nhất trong tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng. Chính vì vậy
trong công trình nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ dành một dung lượng nhỏ viết về
phương diện này trên cơ sở kế thừa và cố gắng phát hiện thêm một vài yếu tố mới khi
đặt Vi Hồng trong thế đối sánh với ngôn ngữ tiểu thuyết của Triều Ân và Cao Duy Sơn
để làm rõ thêm đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết của Vi Hồng.
Phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng đã được Phạm Mạnh Hùng
chú ý đến. Tuy nhiên tác giả chỉ nhấn mạnh tới những tới những thành công của Vi
Hồng ở nghệ thuật miêu tả nhân vật qua ngoại hình và ngôn ngữ mà chưa khai thác
những mặt hạn chế (dù không nhiều) về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng. Các phương diện được tác giả công trình nghiên cứu cũng mới
chỉ dừng lại ở mức độ khái quát và khá sơ sài (nghiên cứu phương diện miêu tả
ngoại hình, tác giả chỉ dừng lại ở chưa đầy một trang viết). Trong công trình của
mình, chúng tôi không chỉ đi sâu nghiên cứu các phương diện ngoại hình, nội tâm
mà còn phát hiện ra một đặc điểm nổi bật trong cách xây dựng nhân vật của Vi
Hồng là miêu tả, khắc hoạ nhân vật qua hình ảnh thiên nhiên. Đồng thời, bên cạnh
việc khẳng định những nét độc đáo, đóng góp của nhà văn trong tiến trình phát triển
của văn xuôi miền núi nói chung và của thể loại tiểu thuyết nói riêng, chúng tôi
cũng chỉ rõ những hạn chế trong cách xây dựng nhân vật của Vi Hồng.
Nhà nghiên cứu Lâm Tiến đã chỉ ra một số nét riêng trong cách viết tiểu thuyết

của Vi Hồng ở các phương diện: nhân vật, kết cấu [50]. Nhưng nhìn chung đó mới
chỉ là những nhận xét khái quát, chung chung mà chưa được phân tích làm rõ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Ngoài những công trình trên, hầu hết các công trình khác đều chỉ nghiên cứu
tiểu thuyết Vi Hồng trên phạm vi một phương diện, một tác phẩm cụ thể chứ chưa
có sự khai thác một cách toàn diện trên phạm vi thể loại. Đặc biệt các phương diện
như: xung đột chủ yếu của xã hội miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng; cốt
truyện và yếu tố ngoài cốt truyện; khắc hoạ nhân vật qua hình ảnh thiên nhiên chưa
được nghiên cứu trong bất cứ công trình nào. Chính vì vậy chúng tôi sẽ tập trung
nghiên cứu những phương diện ấy và đó sẽ là đóng góp của công trình nghiên cứu
trong việc tìm hiểu tiểu thuyết của Vi Hồng .
Điểm lại các công trình, bài báo nghiên cứu về văn chương Vi Hồng nói chung,
tiểu thuyết của Vi Hồng nói riêng, chúng tôi nhận thấy: Đã có một số công trình
nghiên cứu về tiểu thuyết của nhà văn ở các phương diện nội dung và nghệ thuật.
Nhưng những công trình này thường chỉ dừng ở một số phương diện cụ thể hoặc một
vài tác phẩm. Chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu tiểu thuyết Vi
Hồng một cách có hệ thống, ở diện rộng và khái quát. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên
cứu đặc điểm tiểu thuyết Vi Hồng được đặt ra như một đòi hỏi tất yếu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết của Vi Hồng ở cả 2 phương diện nội
dung và nghệ thuật, đề tài chỉ ra những đóng góp của Vi Hồng trong tiến trình vận
động, phát triển của văn học dân tộc thiểu số, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế
của nhà văn ở thể loại tiểu thuyết. Từ đó, khẳng định vị trí của Vi Hồng trong đội
ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, trong đội ngũ các nhà văn
hiện đại Việt Nam nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đặc điểm tiểu thuyết của Vi Hồng ở hai phương diện

nội dung và nghệ thuật.
- Phạm vi nghiên cứu: Vi Hồng sáng tác ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, kịch,
truyện vừa, truyện ngắn… Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và khuôn khổ của đề
tài chúng tôi chỉ nghiên cứu các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của nhà văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp khái quát, tổng hợp
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Tiểu thuyết của Vi Hồng trong dòng chảy của văn xuôi các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
Chƣơng 2. Hiện thực cuộc sống và con người miền trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
Chƣơng 3. Một số phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
CHƢƠNG 1
TIỂU THUYẾT VI HỒNG TRONG DÒNG CHẢY CỦAVĂN XUÔI
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI


1.1 Khái quát về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại còn rất trẻ, và văn xuôi các
dân tộc thiểu số Việt Nam còn trẻ hơn nữa. Nếu như trước năm 1945, các dân tộc
thiểu số đã có thơ thì văn xuôi các dân tộc thiểu số chỉ được hình thành và phát triển
từ sau Cách mạng tháng Tám. Văn xuôi chỉ xuất hiện khi văn học các dân tộc thiểu
số nói chung và các nhà văn dân tộc thiểu số nói riêng đã phát triển đến một trình
độ nhất định, ít nhiều đạt được độ chín trong nhận thức cũng như trong sáng tác. Sự
xuất hiện của văn xuôi các dân tộc thiểu số là sự xuất hiện tất yếu của một thể loại
trong tiến trình phát triển của một nền văn học- văn học các dân tộc thiểu số. Sự
xuất hiện ấy là kết quả của 3 nguyên nhân chính (cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan).
Thắng lợi của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ tháng Tám năm 1945 chính
là nguyên nhân khách quan đầu tiên. Cách mạng đã đem lại cho các dân tộc cuộc
sống tự do, dân chủ và bình đẳng, giúp cho các dân tộc thiểu số ý thức được mình là
một dân tộc như những dân tộc khác. Họ đã có một chỗ đứng để nhìn lại dân tộc
mình và dân tộc khác, thấy được chỗ mạnh, chỗ yếu của bản thân. Từ đó họ có điều
kiện phát triển không chỉ về mặt kinh tế, xã hội mà còn về cả văn hoá, văn học.
Những tác phẩm văn xuôi của những nhà văn dân tộc Kinh, nhất là những tác
phẩm như Ở rừng của Nam Cao, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Đất nước đứng lên
của Nguyên Ngọc đã ảnh hưởng không nhỏ tới cảm hứng sáng tác văn xuôi của các
tác giả dân tộc thiểu số. Họ, những nhà văn dân tộc thiểu số giàu tâm huyết và tài
năng ý thức được rằng đã đến lúc phải phản ánh cuộc sống, con người của dân tộc
mình bằng các thể loại văn học khác chứ không phải chỉ phán ánh bằng thơ như
trước đây nữa. Nhưng muốn làm được điều đó, các nhà văn dân tộc thiểu số cần
phải có một trình độ văn hoá, một sự hiểu biết về văn học nghệ thuật nhất định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Chính các lớp, các trại sáng tác, chính sự dìu dắt của thế hệ nhà văn người Kinh tài

năng, tâm huyết là nguyên nhân thứ ba, có lẽ cũng là nguyên nhân quan trọng nhất
cho sự ra đời của văn xuôi các dân tộc thiểu số.
Trong các thể loại của văn xuôi thì truyện ngắn là thể loại đầu tiên xuất hiện
trên tiến trình phát triển của văn học dân tộc thiểu số hiện đại. Người ghi công đầu
trong lĩnh vực này là Nông Minh Châu với truyện ngắn Ché Mèn được đi họp in
năm 1958, tức là vào những năm mở đầu của công cuộc chống Mĩ cứu nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tiếp đó vào những năm 50, 60 xuất hiện hàng
loạt những truyện ngắn Bên bờ suối tiên của Triều Ân, Cuộn chỉ màu hột đỗ của
Lâm Ngọc Thụ, Đêm giao thừa, Đặt tên của Vi Thị Kim Bình, Mường Nà Pàng
của Nông Viết Toại, Về nhiệm vụ của Huy Hùng, Nước suối tiên đào của Vi Hồng,
Ké Nàm của Hoàng Hạc, Hoa trong men của Vương Trung Bước sang thập kỉ 70,
80, truyện ngắn của văn học dân tộc thiểu số phát triển một cách mạnh mẽ với sự
xuất hiện liên tiếp những tuyển tập truyện ngắn của nhiều tác giả hoặc của riêng
từng tác giả: Tiếng hát rừng xa của Hoàng Hạc, Triều Ân (1969), Mây tan của
nhiều tác giả (1973), Đoạn đường ngoặt của Nông Viết Toại (1973), Tiếng chim
gõ của Nông Minh Châu (1979), Niềm vui của Vi Thị Kim Bình (1979), Tiếng
khèn A pá của Triều Ân (1980), Những bông ban tím của Sa Phong Ba (1981),
Người tạc tượng nhà mồ của nhiều tác giả (1988), Đường qua đèo mây của Triều
Ân (1988), Đuông thang của Vi Hồng (1988), Xứ lạ mường trên của Hoàng Hạc
(1989), Số phận đàn bà của Hoàng Thị Cành (1990)
Có thể nói sự xuất hiện của thể loại truyện ngắn trong văn xuôi các dân tộc thiểu
số đã đem đến một cách cảm nhận con người, cuộc sống vừa giống lại vừa khác với
những tác phẩm của người miền xuôi viết về miền núi, góp phần làm cho hình tượng
con người miền núi trở nên có xương thịt, có hồn hơn rất nhiều. Tuy nhiên cũng không
thể phủ nhận rằng, những non yếu ban đầu khó có thể tránh khỏi về mặt nghệ thuật,
cũng như những hạn chế nhất định về mặt thể loại (dung lượng tác phẩm ngắn) đã làm
giảm không ít tầm khái quát, diện phản ánh của tác phẩm. Những hạn chế này dần dần
đã được khắc phục cùng với sự xuất hiện và phát triển của thể loại tiểu thuyết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
So với truyện ngắn, tiểu thuyết ra đời muộn hơn 6 năm, và người mở đường
cho sự phát triển của thể loại này cũng là nhà văn Nông Minh Châu với cuốn tiểu
thuyết Muối lên rừng sáng tác năm 1964. Khác với thể loại truyện ngắn ra đời và
phát triển một cách liên tục, tiểu thuyết có quá trình phát triển rất riêng. Sau cuốn
Muối lên rừng, tiểu thuyết các dân tộc thiểu số dường như chững lại. Quá trình
chững lại ấy kéo dài đến 14 năm. Bởi Nông Minh Châu, từ 1964 đến 1979 (lúc nhà
văn qua đời) không viết thêm cuốn tiểu thuyết nào khác và cũng không có thêm bất
cứ một cây bút tiểu thuyết dân tộc thiểu số nào xuất hiện trên văn đàn trong suốt
khoảng thời gian hơn chục năm ấy. Lí giải hiện tượng này chúng ta chỉ có thể dựa
vào đặc trưng thể loại tiểu thuyết. Đây là một thể loại “dài hơi” hơn truyện ngắn rất
nhiều, tiểu thuyết đòi hỏi người viết phải có một sức viết “sung”, một vốn sống, vốn
hiểu biết không nhỏ. Và đây dường như là một đòi hỏi quá tầm với phần lớn nhà
văn dân tộc thiểu số lúc bấy giờ, khi mà nền văn xuôi mới chỉ tồn tại, phát triển
được 6 năm. Cho nên trong suốt những năm 70, 80, văn học các dân tộc thiểu số chỉ
dừng lại ở thể loại truyện ngắn. Đồng thời, trong khoảng thời gian hơn chục năm ấy
các nhà văn cũng tích luỹ những kĩ năng, kinh nghiệm, vốn hiểu biết để tạo nên
bước phát triển mới cho thể loại tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi dân tộc thiểu số
nói chung. Tuy nhiên, quá trình tích luỹ ấy không hề dễ dàng, nó đòi hỏi không chỉ
tâm huyết, lòng nhiệt tình mà còn là cả tài năng nữa. Bởi vậy nên đến năm 1978,
tức là 14 năm sau, cuốn tiểu thuyết thứ 2 mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết Hơ
Giang của Y Điêng (dân tộc Ê đê). Tiếp đó đến năm 1980 là Đất Bằng của Vi
Hồng. Và trong suốt một chục năm sau đó cũng chỉ có tiểu thuyết của Vi Hồng mà
thôi. Đó là Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đá rơi (1985), Người trong ống
(1990), Gã ngược đời (1990), Vào hang (1990), Lòng dạ đàn bà (1992)
Từ thập niên 90 đến nay, văn xuôi các dân tộc thiểu số xuất hiện một đội ngũ
gồm những cây bút tiểu thuyết mới, trẻ tuổi, tài năng và tâm huyết. Đó là Ma
Trường Nguyên với Mũi tên ám khói (1991) và Gió hoang (1992), Hoàng Thị
Cành với Làm dâu (1992) và Cướp chồng (1992), Cao Duy Sơn với Người lang

thang (1992), La Quán Miên với tập truyện ngắn Hai người trở về bản (1996),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Hlinh Niê với tập truyện ngắn Con rắn màu xanh da trời (1997), tập kí Trăng Xí
Thoại (1999), Kim Nhất với các tập truyện Động rừng (1999), Hồn ma núi (2002),
Kha Thị Thường với tập truyện Lũ núi (2003) và Niê Thanh Mai với Về bên kia
núi (2007)
Trước thập niên 80, văn xuôi các dân tộc thiểu số chủ yếu phản ánh cuộc
kháng chiến chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rất ít tác phẩm
viết về thời kì kháng chiến chống Pháp. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân chính có lẽ là do hầu hết các tác phẩm văn xuôi đều ra đời trong thời
kì chống Mĩ và chủ nghĩa xã hội. Các nhà văn thời kì này đều có ý thức lấy văn học
phục vụ nhiệm vụ trước mắt. Văn học luôn bám sát những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể, đi sâu khai thác các đề tài: xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng công trình thuỷ điện, xây dựng quê hương
mới, cuộc sống định canh, định cư, chống mê tín dị đoan, chống bảo thủ lạc
hậu Văn học còn phản ánh nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, cưới xin, ma
chay, săn bắn, lễ hội của các dân tộc. Một mảng hiện thực nữa được tái hiện trong
văn xuôi là cuộc sống của nhân dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Tác
phẩm tiêu biểu cho đề tài này là cuốn tiểu thuyết Muối lên rừng của Nông Minh
Châu và Vãi Đàng của Vi Hồng. Muối lên rừng - tác phẩm có ý nghĩa mở đường
cho thể loại tiểu thuyết của văn học thiểu số hiện đại, phản ánh hiện thực cuộc sống
cay cực và nạn thiếu muối trầm trọng do chính sách hà khắc của thực dân Pháp ở
miền núi Việt Bắc trước cách mạng. Thông qua nhân vật trung tâm là Pảo, một
thanh niên dân tộc Tày, tác giả kể lại quá trình giác ngộ cách mạng của người dân
miền núi, đồng thời ca ngợi tình bạn, tình yêu chung thuỷ của họ. Ngoài giá trị nội
dung thì đóng góp nổi bật nhất của Muối lên rừng chính là ở phương diện ngôn ngữ
và cách diễn đạt đầy màu sắc dân tộc. Ngôn ngữ trong tác phẩm rất trong sáng, giàu

hình ảnh với những hình thức ví von sinh động. Tuy nhiên, là một cuốn tiểu thuyết
đầu tay, tác phẩm không tránh khỏi những hạn chế như: tính điển hình của nhân vật
chưa cao, tâm lí nhân vật còn sơ sài, đơn giản thậm chí là mờ nhạt và hầu như
không có. Đến Vãi Đàng của Vi Hồng thì số phận của người dân miền núi được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
khắc hoạ một cách rất rõ nét, sinh động. Qua cuộc đời của Đàng, một cô gái Tày
xinh đẹp và giàu nghị lực sống nhưng gặp không ít nỗi bất hạnh, đắng cay, lần đầu
tiên số phận của người phụ nữ dân tộc trước Cách mạng tháng Tám đã đi vào văn
học Việt Nam hiện đại.
Trong giai đoạn này, cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước cũng là một chủ đề
được quan tâm khai thác với khá nhiều tác phẩm: Mẹ con chị Nải, Những cô gái
đảm đường cầu, Trận địa giữa ruộng bậc thang của Nông Minh Châu, Sông gọi
của Hoàng Hạc và đặc biệt là Hơ Giang của Y Điêng. Hơ Giang là cuốn tiểu thuyết
đầu tiên trong sự nghiệp cầm bút của Y Điêng và là cuốn tiểu thuyết thứ hai của văn
xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tác phẩm xoay quanh cuộc đời người con gái
Êđê mang tên Hơ Giang, là câu chuyện của bà con buôn Chư Pông đoàn kết đứng
lên phá ấp, giải phóng buôn làng. Nhưng đấy không phải là câu chuyện của một
làng, một vùng phía Tây Phú Khánh mà còn có sức khái quát cho cả Tây Nguyên
đồng khởi, không chỉ tập trung khắc hoạ chân dung của một Hơ Giang kiên trinh
mà còn chỉ ra con đường đến với cách mạng của cả một thế hệ thanh niên như Hơ
Đông, Hơ Tang, Hơ Lam, Y Thao, Y Mao Hơ Giang của Y Điêng đã hoàn chỉnh
thêm gương mặt của người dân Tây Nguyên bất khuất, góp phần làm phong phú
hơn diện mạo của văn xuôi các dân tộc thiểu số ở thể loại tiểu thuyết. Tuy nhiên,
trong cuốn tiểu thuyết này, Y Điêng cũng không tránh khỏi những hạn chế như cây
bút tiểu thuyết đàn anh. Ông vẫn sử dụng lối cấu trúc đơn giản theo mạch thời gian,
không có sự xen cài, va chạm phức tạp của các cảnh ngộ, sự biểu hiện tâm lí còn
đơn thuần, sơ lược

Bước sang thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90, với sự xuất hiện của
cây bút tiểu thuyết rất “sung sức” Vi Hồng, đề tài được phản ánh trong văn xuôi nói
chung và nhất là trong thể lọai tiểu thuyết nói riêng được mở rộng hơn rất nhiều. Vi
Hồng không chỉ làm phong phú thêm những vấn đề vốn quen thuộc của văn xuôi
dân tộc thiểu số như vấn đề chống mê tín dị đoan, khẳng định cái lỗi thời, lạc hậu
phải nhường chỗ cho cái tiên tiến, phơi bày những cái xấu xa cần được xoá bỏ trong
xã hội miền núi mà ông còn đưa vào những cuốn tiểu thuyết của mình những đề tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
hoàn toàn mới như: đề tài công nghiệp ( Thung lũng đá rơi), đề tài người trí thức
dân tộc ở các trường đại học (Người trong ống, Gã ngược đời). Các tiểu thuyết
Người trong ống, Gã ngược đời, Vào hang, Chồng thật vợ giả đã đề cập đến
những vấn đề có tính thời sự như sai lầm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự ấu
trĩ của việc ngăn cấm làm giàu cá nhân và gióng hồi chuông cảnh báo về sự hoành
hành của cái ác. Những tiểu thuyết của Vi Hồng dù vẫn tồn tại không ít những hạn
chế nhưng cũng đã đạt được một bước tiến khá dài so với hai cây bút tiểu thuyết
trước đó là Nông Minh Châu và Y Điêng. Vi Hồng đã phần nào khắc phục được
kiểu kết cấu đơn giản theo mạch thời gian ngay từ tác phẩm Vãi Đàng, ông cũng đã
chú ý hơn trong việc phân tích, thể hiện tâm lí của nhân vật, đặt nhân vật trong
những mâu thuẫn xung đột gay gắt hơn, thiên nhiên trong tác phẩm của Vi Hồng
cũng trở thành một đối tượng nghệ thuật có vẻ đẹp riêng của nó chứ không phải là
thiên nhiên được miêu tả khá mờ nhạt trong sự hoà nhập chia sẻ với vui buồn của
con người như trong tác phẩm của Nông Minh Châu. Đặc biệt, qua các tiểu thuyết
của mình Vi Hồng đã thể hiện một ngòi bút tài hoa, điêu luyện trong cách sử dụng
ngôn từ.
Những năm cuối thập niên 90 và thập niên đầu của thế kỉ XXI với sự xuất hiện
của rất nhiều cây bút văn xuôi trẻ, tài năng, văn xuôi (nhất là tiểu thuyết) các dân tộc
thiểu số ngày càng phát triển đạt đến trình độ hiện đại. Không những đề tài được mở

rộng mà những hạn chế trước đây của lớp nhà văn đi trước đều được lớp nhà văn trẻ
chú ý khắc phục. Sự thành công của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam đã phần
nào được ghi nhận và phản ánh thông qua rất nhiều giải thưởng trong nước và khu vực
mà lớp nhà văn trẻ đã đạt được. Điều này được minh chứng bằng sự thành công đáng
trân trọng của nhà văn dân tộc Tày- Cao Duy Sơn. Với một hành trình từ Người lang
thang (1992), Cực lạc (1995), Những chuyện ở thung lũng Cô Sầu (1996), Hoa mận
đỏ (1999), Những đám mây hình người (2002), Đàn trời (2006) đến Ngôi nhà xưa
bên suối (tập truyện đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008, Giải thưởng
Văn học ASEAN năm 2009), Chòm ba nhà (2009) Cao Duy Sơn xứng đáng được coi
là gương mặt tiêu biểu nhất trong đội ngũ văn xuôi các dân tộc thiểu số.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Nhận diện về văn học thiểu số Việt Nam hiện – đương đại, có thể chỉ ra ba
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất về khu vực sáng tác, chúng ta thấy rằng văn học thiểu số bắt đầu ở
miền núi phía Bắc và ngày càng có sự mở rộng đội ngũ sáng tác ở các khu vực phía
Nam (Tây Nguyên với các tác phẩm của Hlinh Niê, Kim Nhất và miền Trung với
các tác phẩm của La Quán Miên, Kha Thị Thường) với sự tham gia sáng tác của rất
nhiều dân tộc thiểu số như dân tộc Hoa, dân tộc Chăm, dân tộc Nùng, dân tộc
Thái…Tuy nhiên, có thể nhận định rằng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam phát
triển nhất ở miền núi phía Bắc, đặc biệt là ở vùng Việt Bắc – Cao Bằng với sự xuất
hiện của những nhà văn có vai trò tiên phong, mở đường như Nông Minh Châu, Vi
Hồng và cả những tên tuổi đỉnh cao như Cao Duy Sơn.
Thứ hai về đề tài, chủ đề thì ngày càng có sự mở rộng. Các nhà văn ngày
càng đi sâu khám phá những vấn đề phức tạp của đời sống miền núi nhất là khai
thác vấn đề số phận cá nhân. Chính vì vậy, chất tiểu thuyết cũng như tinh thần nhân
văn, nhân bản ngày càng trở nên đậm nét trong các sáng tác của văn học thiểu số.
Thứ ba, chất lượng nghệ thuật ngày càng được nâng cao với sự xuất hiện

ngày càng nhiều những tác phẩm có dấu hiệu mới trong cách nhìn và cách tư duy
nghệ thuật, với cái nhìn sâu vào mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, chú ý soi
chiếu nhân vật ở góc độ đời tư, tính cách nhân vật khá rõ nét và dần có xu hướng đa
diện phức tạp. Ngôn ngữ cũng ngày càng đậm chất văn xuôi, tiểu thuyết.
Qua việc tìm hiểu khái quát diện mạo văn xuôi dân tộc thiểu số hiện đại,
chúng ta nhận thấy rằng văn xuôi dân tộc thiểu số dẫu còn tồn tại một số hạn chế về
cả nội dung và hình thức nhưng cũng không thể phủ nhận rằng bộ phận văn học này
đang trên đà phát triển và ngày càng đạt đến trình độ hiện đại. Văn xuôi các dân tộc
thiểu số đã thực sự khẳng định được vị trí của mình và góp phần quan trọng vào
việc tạo nên diện mạo phong phú của nền văn học Việt Nam trong thời kì hiện đại.
Trong nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, nhất là ở thể loại
tiểu thuyết, Nông Minh Châu, Vi Hồng và Cao Duy Sơn là ba cái tên giữ vai trò

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
quan trọng. Nếu như Nông Minh Châu là người mở đường, người đặt viên gạch đầu
tiên xây dựng nền móng cho tiểu thuyết các dân tộc thiểu số với Muối lên rừng thì
Vi Hồng là người có công đầu trong việc khẳng định giá trị, vị trí của thể loại này
với gần hơn mười cuốn tiểu thuyết, và Cao Duy Sơn chính là cây bút đã đưa tiểu
thuyết dân tộc thiểu số hội nhập cùng xu thế hiện đại của nền văn học nước nhà.
1.2 Vài nét về nhà văn Vi Hồng.
1.2.1 Quê hương, gia đình, bản thân
Vi Hồng (tên đầy đủ là Vi Văn Hồng) sinh ngày 13/7/1936 tại bản Phai Thin
xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng trong một gia đình nông dân nghèo,
dân tộc Tày.
Quê hương Cao Bằng của Vi Hồng là miền đất địa đầu Tổ quốc, có từ thời
kỳ Thục Phán An Dương Vương thế kỉ II trước công nguyên. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển, tỉnh Cao Bằng đã có một bề dày truyền thống lịch sử, văn
hoá rất đáng tự hào và trân trọng. Cao Bằng là một vùng văn hoá đa dạng, phong

phú bởi sự giao hoà văn hoá của nhiều dân tộc anh em. Các dân tộc tiêu biểu ở Cao
Bằng bao gồm Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Mông và dân tộc Hoa. Trong đó dân tộc
Tày chiếm ưu thế (khoảng 42%). Mỗi dân tộc đều có những di sản văn hoá truyền
thống độc đáo của riêng mình. Nét đặc sắc về văn hoá của người Tày được thể hiện
trong làn điệu lượn, hát then, lượn slương, lượn cọi, lượn ngạn, múa slông, múa
chẩu, cây đàn tính, phướng lị. Những nét văn hoá đặc sắc của vùng đất Cao Bằng,
đặc biệt là những nét văn hoá của dân tộc Tày dường như đã ăn sâu vào máu thịt
của Vi Hồng, được nhà văn say mê từ ngày còn thơ bé. Nó vừa là động lực, vừa là
ngọn nguồn cảm hứng trong những sáng tác của Vi Hồng, góp phần làm nên tính
dân tộc và một phong cách rất riêng trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn, nhất là
trong thể loại tiểu thuyết.
Cao Bằng cũng là vùng đất của những sản vật nổi tiếng như hạt dẻ Trùng
khánh vừa to vừa bùi, lê Đông Khê với vị ngọt thanh mát và đặc biệt là món bánh
trứng kiến rất độc đáo. Đây cũng là vùng đất của những thảo dược quý như chè

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
đắng, chè dây và mật ong thơm ngon thơm hương vị hoa rừng và đặc biệt rất giàu
chất dinh dưỡng. Những món ăn, những sản vật của vùng đất quê hương ấy sau này
đã xuất hiện không ít trong những trang văn của Vi Hồng và làm nên một nét cuốn
hút rất riêng cho sáng tác của nhà văn. Rõ ràng, chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh
hưởng của quê hương đến những sáng tác của Vi Hồng. Điều này chỉ có thể được lí
giải bằng tình yêu sâu đậm của nhà văn với quê hương, với dân tộc mình chứ không
phải chỉ dựa vào hoàn cảnh sống giữa một vùng đất giàu truyền thống văn hoá.
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thế nhưng Vi Hồng lại là người rất
hiếu học. Con đường học tập của Vi Hồng là một con đường đầy chông gai gian
khổ. Có thể nói ông là một tấm gương về sự tự nỗ lực học tập vươn lên. Năm lên
bảy tuổi Vi Hồng đã học chữ Hán và chữ Quốc ngữ từ những người thân trong gia
đình, đặc biệt là học cùng với người bác cả giỏi cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

Thương đứa cháu sớm mồ côi mẹ lại thông minh, hiếu học, người bác cả đã dành
cho Vi Hồng nhiều sự quan tâm, chăm sóc. Sau này, việc học hành của ông hầu hết
đều được người bác cả lo liệu, giúp đỡ. Do hoàn cảnh gia đình,Vi Hồng phải tự học
đến năm 14 tuổi mới được thi vào lớp 3 của trường tiểu học và đến khi hoà bình lập
lại, Vi Hồng cùng một số rất ít học sinh Cao Bằng vượt con đường hơn 200 cây số
đầy “gian nan, vất vả và cả nguy hiểm” xuống Thái Nguyên học tại trường phổ
thông cấp III Lương Ngọc Quyến. Hành trình trên con đường về với “Mẹ chữ
Lương Ngọc Quyến” được nhà văn tái hiện một cách chân thực và xúc động qua
truyện ký Đường về với Mẹ chữ sáng tác năm 1994.
Sau khi tốt nghiệp cấp 3, Vi Hồng vào học Trường Đại học Sư phạm. Năm
1960 ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và lên công
tác tại Ty giáo dục Hà Giang (bây giờ là sở giáo dục Hà Giang). Sau đó Vi Hồng lại
trở về làm cán bộ giảng dạy khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tháng 10/ 1966, trường Đại Học Sư phạm Việt Bắc được thành lập, Vi
Hồng lên Thái Nguyên và trở thành một trong những giáo viên đầu tiên của khoa
Ngữ văn- trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (nay là trường Đại học Sư phạm Thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Nguyên). Từ năm 1966 đến khi nhà văn qua đời (1997), Vi Hồng là cán bộ giảng
dạy và là chủ nhiệm bộ môn Văn học dân gian của khoa Ngữ Văn.
Nhìn vào những gì Vi Hồng đã đạt được, là giảng viên một trường đại học, là
chủ nhiệm một bộ môn, lại là một trong số không nhiều nhà văn dân tộc thiểu số
đương thời có tên tuổi, không ít người cho rằng ông là một người may mắn. Thế
nhưng rất ít người biết rằng cuộc đời riêng của cố nhà văn phải chịu không ít bất
hạnh, khổ đau. Và những gì mà ông đạt được thực sự là những thành quả xứng đáng
cho sự nỗ lực không mệt mỏi của nhà văn cho đến tận những năm tháng cuối của
cuộc đời. Ngay từ ngày thơ bé, Vi Hồng đã sớm phải gánh chịu nỗi đau tinh thần
lớn lao, mẹ ông mất khi ông chỉ mới 7, 8 tuổi. Cha ông sau này lấy 3 người vợ

nhưng không có người vợ nào chăm sóc cho gia đình cả. Hai người em của ông
cũng lần lượt qua đời khi còn rất nhỏ. Trở thành người con trai độc nhất, nên năm
mười hai tuổi Vi Hồng đã bị người cha và họ hàng bắt phải lấy vợ để có người trông
nom việc nhà và sớm có con nối dõi tông đường. Từ đây một nỗi bất hạnh mới lại
đè xuống cuộc đời ông và sẽ bám theo, ám ảnh ông suốt cuộc đời. Khi đi xem mặt,
người vợ mà ông sẽ cưới chừng mười lăm tuổi, “đẹp như tiên sa”. Thế nhưng đó
chỉ là sự lừa đảo. Người vợ thật mà Vi Hồng phải lấy lại là một người đàn bà hơn
ông đến tám tuổi, xấu xí, dốt nát, học chữ quốc ngữ mười năm mà không hề biết
đọc, biết viết. Đó là một sự thật “khắc nghiệt như đá”. Đến khi trưởng thành, chàng
trai Vi Hồng hiểu được thế nào là tình yêu, là hạnh phúc lứa đôi thì sự thật kia lại
càng trở nên nghiệt ngã. Với ông nhìn vào cuộc sống gia đình là cả “một bầu trời
buồn thảm, một biển cả khổ đau và một dòng sông nước mắt”. Có lẽ Vi Hồng chỉ
thực sự biết đến niềm hạnh phúc của mái ấm gia đình khi ông đến với người vợ thứ
hai, một người phụ nữ dịu dàng, nhân hậu kém ông gần 20 tuổi, người đã yêu đã gắn
bó và sẵn sàng nâng đỡ tâm hồn cho ông từ chính sự đồng cảm sâu sắc. Người phụ nữ
dịu dàng, giàu đức hi sinh ấy đã tự nguyện gánh trên đôi vai gày gò nhỏ bé cả một gánh
nặng gia đình với cơm áo gạo tiền và người chồng- thầy giáo văn sĩ ốm yếu. Bà đã thực
sự trở thành chỗ dựa cho Vi Hồng trong cuộc sống, nhất là trong mười năm cuối của
cuộc đời khi mà nhà văn bị căn bệnh hiểm nghèo tâm phế mãn hành hạ khiến mọi sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
hoạt cá nhân đều phải dựa vào bà. Những năm tháng ấy bà còn sẵn sàng nghỉ việc ở
nhà (bà là một giáo viên dạy Địa) để chăm sóc chồng và trở thành người “thư kí đắc
lực”, hàng ngày cần mẫn gõ máy chữ giúp nhà văn ghi lại những sáng tác của mình.
Nếu như không có bà, chắc chắn chúng ta sẽ không có cơ hội tiếp cận với rất nhiều
sáng tác của Vi Hồng, nhất là ở mảng tiểu thuyết. Có lẽ với người vợ thứ hai của mình,
Vi Hồng sẽ là người hơn ai hết thấm thía câu nói rất nổi tiếng rằng: đằng sau sự thành
công của mỗi người đàn ông đều có bóng dáng của một người phụ nữ. Đối với riêng

ông, bà thực sự trở thành chiếc cầu “nối hai bến bờ của tâm hồn và sáng tạo” (Vi
Hồng), là động lực, là nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo, người mà cho đến những năm
tháng cuối đời ông vẫn trân trọng gọi là “đuông thang”, là bông hoa út của đời ông.
Không chỉ có những mất mát về tinh thần, Vi Hồng còn chịu không ít khó khăn
về vật chất. Sau này, dù đã trở thành giảng viên đại học, lại là một nhà nghiên cứu, một
nhà văn, xong Vi Hồng vẫn phải sống rất chật vật. Vợ cố nhà văn kể lại: “Lương của
thầy chỉ đủ sống một cách tằn tiện trong nửa tháng, còn lại thầy phải cố viết để kiếm
thêm thu nhập. Những lúc trong nhà không còn tiền để mua thức ăn thì thầy đi đánh
cá. Thời bao cấp, dù cuộc sống khó khăn nhưng mặc cho người khác tranh giành, thầy
không bao giờ màng tới, đợi đến lúc cuối cùng, còn cái gì thì thầy nhận cái đấy. Nhiều
lúc, có người thương còn phải đấu tranh để lấy phần cho thầy”. Mặc dù gặp không ít
những khó khăn, bất hạnh nhưng cái đáng trân trọng của Vi Hồng là những khổ đau,
những bất hạnh trong cuộc đời riêng lại được nhà văn biến thành động lực để sống và
nhất là để sáng tác. Nhà văn tâm sự: “Với riêng tôi thì nỗi buồn là động lực chính thôi
thúc tôi sáng tác - lúc đầu cũng coi như đó là một việc làm mình có thể say mê, để có
thể quên đi bầu trời buồn thảm trên đầu, có thể ẩn náu mỗi khi nỗi khổ trào dâng. Tuy
tôi chưa viết được bao nhiêu nhưng văn chương bao giờ cũng là một chiếc phao trong
những năm tháng tôi ngoi ngóp giữa biển cả khổ đau của riêng mình.” Chính nghị lực
và nhất là cái cách mà nhà văn dùng để vượt qua nỗi đau đã làm nên một nét đẹp trong
nhân cách của nhà văn miền núi Vi Hồng.
Vi Hồng là một người luôn hết lòng tận tuỵ với công việc. Dẫu ở cương vị
nào, là một người thầy, một nhà văn hay một nhà nghiên cứu văn học dân gian, ông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
cũng luôn dồn hết tâm sức của mình vào đấy. Với cương vị của một giảng viên đại
học, Vi Hồng đã làm tốt chức trách của một người thầy tận tuỵ, yêu nghề, hết lòng
vì học sinh, dẫu cho cuộc sống riêng của cố nhà văn không phải lúc nào cũng suôn
sẻ, thuận lợi. Có lẽ cũng vì vậy mà người thầy Vi Hồng đã để lại một ấn tượng sâu

đậm trong lòng các thế hệ sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Việt
Bắc những năm 1966- 1997. Trong kí ức của họ sẽ còn lư giữ mãi hình ảnh một
người thầy “có dáng đi đạo mạo khác người: lưng thẳng, đầu hơi nghiêng, tay cắp
cặp da, bút máy giắt ngực” và “cho đến hàng chục năm sau này khi ra trường công
tác, học trò vẫn nhớ nhất là những bài giảng về Foklre của thầy Vi Hồng” (nhà thơ
Dương Thuấn). Với cương vị là một nhà văn, Vi Hồng luôn miệt mài sáng tác, như
một người nông dân cần mẫn trên thửa ruộng của mình. Cho đến nay chưa có một
nhà văn miền núi nào có thể vượt Vi Hồng về số lượng những đầu sách đã xuất bản.
Là người con của dân tộc Tày, người con của núi rừng Việt Bắc, Vi Hồng
đặc biệt say mê và có ý thức tìm hiểu những di sản văn hoá, văn học của quê hương
mình. Ngay từ những ngày còn thơ bé, khi mới năm tuổi, cậu bé Vi Hồng đã bộc lộ
thiên hướng, niềm say mê đặc biệt này. Vi Hồng theo ông nội lên núi chăn trâu chỉ
với mục đích là được nghe kể chuyện cổ, vì ban đêm ông nội kể thì cậu hay ngủ khì.
Chiều chiều, trong khi trâu bò mải mê gặm cỏ, mặc cho các bạn bè cùng trang lứa
khác chơi đủ trò, hò hét trên các sườn núi thì Vi Hồng lại trở thành thính giả tí hon
duy nhất cùng với ông nội ngồi nghe các già bản, già mường kể chuyện “đời già,
đời cũ kĩ” dưới gốc cây xoà ô lưng núi. Đến năm lên 10, 11 tuổi, cậu bé Vi Hồng lại
say sưa học các điệu lượn với bà nội và bà bá cả. Bà nội và bá cả của Vi Hồng có cả
một kho tàng dân ca Tày.
Vi Hồng còn được bà nội dạy hát then- một thể loại dân ca Tày đặc sắc. Đặc
biệt người bá cả của Vi Hồng còn là người chuyên làm then, làm bụt. Cho nên đối
với hoạt động văn hoá tâm linh này của dân tộc mình, Vi Hồng đặc biệt hiểu rất rõ
và trong các trang tiểu thuyết của mình sau này, không ít lần nhà văn đã được dịp
tái hiện lại một cách sinh động Năm 13, 14 tuổi, ông đã đọc và học được rất nhiều
truyện thơ của dân tộc mình như Nam Kim- Thị Đan, Lương Quân – Bjoóc lạ, Kim
Quế, Tần Chu Tình yêu đối với di sản văn hoá, văn học quê hương của cậu bé

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

Hồng cứ lớn dần theo năm tháng và trở thành một phần máu thịt, con người của nhà
văn, trở thành nguồn nuôi dưỡng không bao giờ cạn trong sự nghiệp sáng tác của
ông. Dẫu cho sau này, vì điều kiện công tác, Vi Hồng ít có dịp trở về quê hương
nhưng ông vẫn luôn hướng về vùng đất Cao Bằng và những di sản văn hoá của quê
hương vẫn luôn sống trong kí ức, trong những trang văn của ông như là một cách
giúp ông nguôi đi nỗi nhớ và cũng như là để nhà văn “trả nợ” cho những gì đã nuôi
dưỡng tâm hồn ông từ thuở còn bé thơ.
Qua tìm hiểu về cuộc đời của nhà văn Vi Hồng, ta có thể thấy rằng quê
hương, gia đình là những nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp sáng tác
của ông. Thế nhưng cái làm nên con người Vi Hồng với một nhân cách đáng trân
trọng, làm nên một phong cách rất riêng của một nhà văn miền núi lại chính là yếu
tố tự thân, là nghị lực và sự cố gắng không mệt mỏi của chính nhà văn trong suốt
cuộc đời mình.
1.2.2 Tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng.
1.2.2.1 Khái niệm tiểu thuyết.
“Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và
hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể
chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội,
miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.”
[42. Tr 387]
1.2.2.2 Tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng.
Có thể nói Vi Hồng bắt đầu sáng tác từ rất sớm, dẫu không phải là sáng tác
một cách chuyên nghiệp. Năm 13 tuổi Vi Hồng đã tập làm thơ và thường làm thơ
tình yêu 7 chữ (phong slư) bằng tiếng Tày hộ cho những đàn anh đàn chị đến nhờ.
Dù hầu hết những bài thơ ông làm đều không được đăng tải trên báo hay tạp chí
nào, có chăng chỉ là trên tờ báo tường của học sinh nhưng Vi Hồng vẫn dồn hết tâm
huyết của mình vào từng bài thơ. Có những đêm nằm, ông nghĩ ra những câu hay, ý
hay rồi vùng dậy thắp đèn lên ghi lại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
Lớn hơn chút nữa, đến những năm đầu của thập kỉ năm mươi thế kỉ XX, Vi
Hồng đã sáng tác một vài vở kịch thơ để đấu tranh với những hiện tượng xấu trong
xã hội như thói ích kỉ lười biếng trong lao động, thói hách dịch quan liêu của cán
bộ. Đó là hai vở kịch: Tha vằn toóng táng (Mặt trời đâm cửa sổ) năm 1951 và Lục
slao thua khao (Con gái đầu bạc) năm 1952.
Mặc dù rất tâm huyết với thơ và kịch song với cả hai thể loại này Vi Hồng
đều không đạt được kết quả mong muốn, chỉ đến khi chuyển sang thể loại truyện
ngắn ông mới đạt được những thành công nhất định. Cái mốc đánh dấu sự thành
công trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng là truyện ngắn Ngôi sao đỏ trên đỉnh
Phja Hoàng (1959). Tác phẩm này được tặng Giải nhì của Tổng Hội sinh viên Việt
Nam. Sau tác phẩm này, Vi Hồng tiếp tục sáng tác thêm một vài tập truyện ngắn,
truyện vừa và cả truyện dài. Trong thể loại này nhà văn còn đặc biệt dành nhiều ưu
ái cho các em nhỏ, không ít những tác phẩm được nhà văn viết riêng cho thiếu nhi.
Vi Hồng còn viết nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, văn học dân gian
của dân tộc Việt Bắc, và hàng chục bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí trung ương
và địa phương. Tiêu biểu là các công trình: Khảm hải; sli lượn- dân ca trữ tình
Tày Nùng; Thầm thì dân ca nghi lễ. Đặc biệt, công trình sli lượn- dân ca trữ tình
Tày Nùng do NXB Văn Hoá phát hành năm 1979 được coi là công trình nghiên cứu
thơ ca Tày Nùng có giá trị nhất từ xưa đến nay. Những công trình nghiên cứu khoa
học của Vi Hồng đã phản ánh khá rõ tài năng, tâm huyết của tác giả đối với di sản
văn hoá, văn học dân gian của dân tộc.
Có thể thấy, Vi Hồng đến với văn chương từ rất sớm và bản thân nhà văn
cũng đã thử qua không ít thể loại, từ thơ, kịch đến truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài và cả nghiên cứu phê bình, tiểu luận. Bản thân Vi Hồng cũng đã bước đầu
khẳng định được tên tuổi của mình với thể loại tryuện ngắn. Thế nhưng Vi Hồng chỉ
thực sự phát huy được hết tiềm năng, cá tính của mình, chỉ thực sự được chú ý và
chiếm được cảm tình của độc giả khi ông đến với thể loại tiểu thuyết. Ngay từ cuốn
tiểu thuyết đầu tay Đất bằng (1980), Vi Hồng đã tự khẳng định được mình với một

phong cách rất riêng, độc đáo. Vi Hồng đến với tiểu thuyết muộn nhất trong các thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
loại mà ông từng thử sức trong sự nghiệp cầm bút của mình, muộn hơn 30 năm so
với thể loại thơ, 29 năm so với thể loại kịch và 21 năm so với thể loại truyện ngắn.
Thế nhưng, đây lại là thể loại mà Vi Hồng sáng tác được nhiều tác phẩm nhất. Với
17 năm (tính từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên 1980 đến năm nhà văn qua đời 1997), Vi
Hồng viết được mười lăm cuốn tiểu thuyết. Có những năm nhà văn còn cho ra đời
vài ba tác phẩm. Với số lượng mười lăm cuốn tiểu thuyết, Vi Hồng đã chứng tỏ với
mọi người niềm đam mê, sự tận tuỵ và sức sáng tạo không mệt mỏi của một nhà văn
giàu tâm huyết. Và tính cho đến nay chưa có một nhà văn dân tộc thiểu số nào vượt
được Vi Hồng về số lượng các cuốn tiểu thuyết.
Vậy cơ duyên nào, con đường nào đã đưa Vi Hồng đến với thể loại tiểu
thuyết và tại sao tiểu thuyết lại là thể loại giúp đưa Vi Hồng đạt đến đỉnh cao trong
sự nghiệp cầm bút của mình?
Như chính nhà văn đã từng tâm sự, nguyên nhân đầu tiên và có lẽ cũng là
nguyên nhân quan trọng nhất đưa nhà văn đến với văn chương và nhất là đến với
thể loại tiểu thuyết chính là nỗi buồn, nỗi bất hạnh trong cuộc đời riêng : “Cái buồn
có sức mạnh cảm thông với văn chương hơn thì phải? Xúc cảm của văn chương
cũng từ đâu đó dồn về theo mọi ngả buồn Với riêng tôi thì gần hai chục tiểu
thuyết của tôi đều bắt đầu từ một nỗi buồn nào đó, một nỗi khổ đau nào đó. Nỗi
buồn là ngọn nguồn tạo nên những tiểu thuyết của tôi.”[12.tr7] Nhà văn dường như
muốn dùng văn chương để giãi bày tấm lòng mình, thể hiện tâm tư tình cảm của
mình như là một cách giúp ông có thể tạm quên đi nỗi buồn. Và thử hỏi liệu có còn
thể loại nào lại có thể giúp người viết giãi bày tâm tư của mình tốt hơn được thể loại
tiểu thuyết? Nếu như nguyên nhân đầu tiên, thứ nhất đưa Vi Hồng đến với văn
chương và với tiểu thuyết là nỗi buồn thì niềm vui, những hạnh phúc ngọt ngào (dẫu
không nhiều) của cuộc đời lại là nguyên nhân thứ hai. Sau những năm tháng chiêm

nghiệm bằng chính cuộc đời mình, ông đã nhận ra rằng: “Tình yêu và hạnh phúc gia
đình chính là đôi cánh rất khoẻ cho tâm hồn nghệ sĩ.” Và: “Các bà vợ đáng yêu của
các văn sĩ, thi sĩ đóng một vai trò rất quyết định trong việc bắc nối hai bến bờ của
tâm hồn và sáng tạo. Ít nhất cũng đúng với riêng tôi.” [12. Tr 8] Rõ ràng, Vi Hồng

×