Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐẾN THU NHẬP TỪ TIỀN CÔNG, TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.1 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
HỆ SAU ĐẠI HỌC
Đề tài tiểu luận:
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN ĐẾN THU NHẬP TỪ TIỀN CÔNG, TIỀN
LƯƠNG
Giảng viên: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG
SVTH: TRẦN THỊ HỒNG LOAN
Lớp: ĐÊM 2- TCND – K20
LỜI MỞ ĐẦU
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 1
Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong những nguồn thuế chính của chính
phủ. Với hình thức trực thu, thuế TNCN đánh trực tiếp vào từng cá nhân có thu nhập
trong nền kinh tế, đảm bảo mọi cá nhân đều phải đóng góp một phần thu nhập vào ngân
sách trên cơ sở đó xây dựng đất nước và phát triển phúc lợi công cộng, đảm bảo quyền
lợi cho mọi người dân. Nhưng thu thuế như thế nào, bao nhiêu là hợp lý lại là vấn đề còn
nhiều tranh cãi. Chính phủ cần thu thuế để tạo dựng cho ngân sách, người dân cần một
luật thuế phù hợp và công bằng. Giải pháp là xây dựng và hoàn thiện luật thuế. Tuy
nhiên, cả điểm tích cực và tiêu cực đều có những điểm phải bàn. Vậy, người dân và chính
phủ nói gì?
Trong thời gian luật thuế TNCN mới đi vào thực tế. Trên cơ sở phân tích những
điểm mới và cả những điểm chưa hoàn thiện, tiểu luận sẽ đưa ra một tổng quan về thuế
TNCN mới và những điểm còn hạn chế. Trên cơ sở đó, thấy rõ những vướng mắc và
phương hướng khắc phục.
Mặt khác, tiểu luận cũng đi vào những cơ sở tích cực giải thích cho những quy
định mới ban hành để hiểu rõ hơn về các quyết định của Nhà Nước để mọi người đều có
thể nắm vững chủ trương, chính sách phát triển đất nước.
Đề tài tiểu luận:
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TNCN ĐẾN
THU NHẬP TỪ TIỀN CÔNG, TIỀN LƯƠNG


Chương 1: Khái quát về thuế thu nhập cá nhân
1 Khái quát
1.1 Khái niệm
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài người đã
chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình thành và phát
triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức năng của
mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chỉ tiêu có tính chất xã hội.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 2
Bằng quyền lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật
chất đó. Quan hệ thu, nộp những nguồn vật chất này chính là thuế.
Từ sự phân tích khái quát đó có thể cho thấy, thuế là một khoản thu của ngân sách
nhà nước mang tính bắt buộc, không mang tính hoàn trả trực tiếp và được pháp luật quy
định đối với các tổ chức kinh tế xã hội cũng như mọi thành viên trong xã hội.
- Căn cứ theo đối tượng đánh thuế, nghĩa là thuế đánh trên cái gì, thuế được chia
thành:
+ Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp …
+ Thuế tài sản như thuế sử dụng tài sản nhà nước (thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế tài nguyên …), thuế chuyển nhượng tài sản ( thuế chuyển giao quyền sử dụng đất,
thuê mua, bán các tài sản như nhà, xe cộ …).
+ Thuế tiêu dùng đánh vào hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường trong nước
và xuất nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…
- Căn cứ theo tính chất chuyển giao của thuế thì thuế được chia thành hai loại là
thuế trực thu và thuế gián thu:
+ Thuế gián thu là các thứ thuế mà người nộp thế gián tiếp nộp thuế cho người
tiêu dùng, họ không phải là người chịu thuế. Đặc điểm cơ bản của thuế gián thu là được
cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ để bán ra. Ở đây có sự chuyển giao gánh nặng
thuế từ người nộp thuế theo luật định sang người tiêu dùng qua cơ chế giá cả. Ở nước ta,
đó là các thứ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

+ Thuế trực thu là các thứ thuế trực tiếp huy động một phần thu nhập của các đối

tượng có nghĩa vụ nộp thuế. Đặc điểm cơ bản của thuế trực thu là đối tượng nộp thuế và
đối tượng chịu thuế là một. Nó đánh trực tiếp vào người nộp thuế, tức là người có thu
nhập chịu thuế làm giảm phần thu nhập của họ. Ở đây không có hiện tượng chuyển giao
gánh nặng thuế cho người khác chịu. ở nước ta, đó là các thứ thuế như thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Trong các loại thuế trực thu, thuế thu nhập cá nhân ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo nguồn thu đối với ngân sách nhà nước.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 3
Khái niệm thuế thu nhập cá nhân :
Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi
thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn
thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội.
Vậy ta có khái niệm về thuế thu nhập cá nhân như sau: “Thuế thu nhập cá nhân
là thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một kỳ tính
thuế nhất định thường một năm, từng tháng hoặc từng lần, không phân biệt nguồn
gốc phát sinh thu nhập”.
Thuế thu nhập cá nhân lần đầu tiên ra đời ở Anh (1799) sau đến Nhật (1887), Đức
(1889), Mỹ (1913) và Mỹ trở thành quốc gia có tỷ suất thuế thu nhập cá nhân lớn nhất thế
giới chiếm tới 40% tổng thu từ thuế vào ngân sách nhà nước. Trung Quốc, thuế thu nhập
cá nhân ra đời từ năm 1941 nhưng đến năm 1955 mới trở thành một sắc thuế độc lập. Ở
Pháp, thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1961, Liên Xô năm 1922,Hàn Quốc năm 1974 và
cho đến nay theo thống kê của ERNST& YOUNG tại “the global Excutive” hiện nay thế
giới có khoảng 180 nước áp dụng thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh
và cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến
hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm
thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
1.2 Đặc điểm
Thuế thu nhập cá nhân có những đặc điểm sau:
Một là, Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên

nguyên tắc theo luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế thu nhập cá nhân gắn với
quyền lực, sức mạnh của Nhà nước.
Hai là, Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho
người nộp. Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải
trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 4
Ba là, Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
Hầu hết các quốc gia đều gắn chính sách thuế thu nhập cá nhân với một số chính sách xã
hội khác (như phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe…).
Bốn là, Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu. Do vậy, người nộp thuế cũng là
người chịu thuế.
Năm là, Thuế thu nhập cá nhân có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu
nhập bao gồm: công dân nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không
thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải
tính thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy,
khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của thuế thu nhập cá nhân rất cao.
Sáu là, Việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất
lũy tiến. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là điều tiết
mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng
thuế suất lũy tiến sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ
phải tính thuế suất càng cao.
Bảy là, Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân có tính trung lập cao hơn so
với các loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế thu nhập cá nhân hầu như không kéo
theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế thu nhập cá nhân vừa mang các vai trò
chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có
được.
2.1 Đối với nền kinh tế - xã hội
- Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước.

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, trong đó thuế thu nhập cá
nhân là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một
phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân được tính
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 5
với diện rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế thu nhập
cá nhân tác động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào
cũng đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật
chất tinh thần. Thuế thu nhập cá nhân luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng
lên của thu nhập bình quân đầu người.
- Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Thực hiện công bằng xã hội là một trong những vai trò quan trọng của thuế nói
chung, ngoài ra với thuế thu nhập cá nhân cùng với việc thực hiện biểu thuế luỹ tiến từng
phần, thuế thu nhập cá nhân đã thực hiện được việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công
bằng trong xã hội.
- Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Loại
thuế này điều tiết trực tiếp thu nhập cá nhân nên một mặt tác động trực tiếp đến tiết kiệm,
mặt khác làm cho khả năng thanh toán của các cá nhân bị giảm.Từ đó cầu hàng hoá, dịch
vụ giảm sẽ tác động đến sản xuất.
- Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ
việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp
luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô, hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm,
trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân Những hành vi
này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu
hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các biện
pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế thu nhập cá nhân.
2.2 Đối với hệ thống thuế
- Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược

điểm là có tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu
thụ cùng một lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 6
thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến sẽ góp phần
khắc phục được nhược điểm này
- Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu
nhập cá nhân. Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế
thu nhập cá nhân còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có
sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường
hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm
giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các
cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối
với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng
thường kéo theo sự tăng lên của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tóm lại, Thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân còn nhiều hạn
chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước chậm phát
triển.
3 Những nội dung cơ bản của chính sách thuế thu nhập cá nhân
a. Đối tượng nộp thuế
Thuế thu nhập cá nhân thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng đồng
thời là đối tượng nộp thuế. Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung
quan trọng của thuế thu nhập cá nhân, từ đó mới có thể vận dụng cách tính thuế cho phù
hợp. Khi tiến hành xác định đối tượng nộp thuế, người ta thường dựa vào hai tiêu thức là
“nơi cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú", một cá nhân được xác định là cư trú ở một nước phải
nộp thuế tại đó đối với mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi trên thế giới, còn một cá
nhân được xác định là không cư trú ở một nước chỉ phải nộp thuế cho phần thu nhập phát
sinh tại nước đó. Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” lại quy định: một cá nhân

SVTH: Trần Thị Hồng Loan 7
phải nộp thuế thu nhập cá nhân ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát
sinh tại nước đó.
Hiện nay, đa số các nước tính thuế thu nhập cá nhân theo tiêu thức “nơi cư trú”.
Tuy nhiên, khái niệm thế nào là một cá nhân cư trú tại một nước lại được định nghĩa khác
nhau trong luật thuế thu nhập cá nhân của các nước. Rất có nhiều nước quy định cá nhân
cư trú là người định cư tại nước đó hoặc những người đến nước đó không thường xuyên
nhưng tổng số ngày ở tại nước đó vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương lịch hay
năm tài chính). Tuy nhiên, một số nước lại đưa ra những định nghĩa về cá nhân cư trú cụ
thể hơn và có điểm khác với định nghĩa nêu trên.
b. Cơ sở tính thuế
Việc xác định cơ sở tính thuế là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
được đề cập đến trong chính sách thuế thu nhập cá nhân của các nước. Căn cứ vào đó,
người ta có thể thấy rằng thuế thu nhập cá nhân mà từng nước cụ thể áp dụng có công
bằng không, thuế này tạo được nguồn thu như thế nào cho ngân sách nước đó. Đối tượng
tính thuế ở đây là một số khoản thu nhập nằm trong diện tính thuế thu nhập cá nhân theo
quy định trong chính sách thuế thu nhập cá nhân của từng quốc gia. Để tính được thuế
thu nhập cá nhân phải nộp trước tiên phải xác định được những khoản thu nhập nào là đối
tượng tính thuế và tính toán thu nhập đó như thế nào. Sau đó, căn cứ vào một số quy định
khác trong chính sách thuế như các khoản miễn giảm, khấu trừ… cơ quan thuế xác định
được thu nhập tính thuế, từ thu nhập tính thuế và thuế suất sẽ xác định được thuế phải
nộp.
Trước hết, chúng ta cần xác định một khái niệm cho thuật ngữ “thu nhập”. Cho
đến nay, hầu hết các đạo luật về thuế thu nhập cá nhân ở các nước thường chỉ quy định
những khoản thu nhập nào phải tính thuế. Tuy nhiên, trên thực tế cũng tồn tại một số
quan niệm về thu nhập như sau:
+ Thu nhập là giá trị nhận được của một pháp nhân hay thể nhân nào đó trong một
khoảng thời gian nhất định không phân biệt nguồn gốc phát sinh.
+ Giá trị đó có thể được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay các giá trị vật chất,
phi vật chất nhưng có thước đo chung là tiền tệ.

SVTH: Trần Thị Hồng Loan 8
+ Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu và phân phối
lại thu nhập quốc dân.
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng thu nhập cá nhân là giá trị một cá nhân
kiếm được trong một khoảng thời gian (thường là một năm) sau khi đã khấu trừ đi các chi
phí để tạo ra thu nhập đó.
Điều thực sự cần làm đối với ngành thuế mỗi nước là phải xác định đối tượng tính
thuế từ thu nhập sao cho người nộp thuế chấp nhận và để luật thuế có tính khả thi cao. Có
như vậy mới đảm bảo được mục tiêu kinh tế, xã hội trong việc thu thuế thu nhập cá nhân.
* Thu nhập cá nhân được phân loại theo những tiêu thức nhất định để xác định
đối tượng tính thuế:
- Theo đối tượng nộp thuế, người ta chia thu nhập thành thu nhập của cá nhân cư
trú và không cư trú.
- Theo nguồn tạo ra thu nhập, người ta chia thu nhập thành các loại như thu nhập
từ kinh doanh, tiền lương tiền công, đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất
động sản, trúng thưởng, bản quyền, nhượng quyền thương mại, thừa kế và quà tặng.
+ Thu nhập từ lao động: là khoản thu nhập thường xuyên nhận được dưới dạng thu
nhập từ kinh doanh, hành nghề tự do như tiền lương, tiền công hoặc các khoản thù lao
khác mà cá nhân nhận được trong quá trình lao động.
+ Thu nhập từ đầu tư: đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, bản quyền, nhượng quyền
thương mại.
+ Thu nhập khác: chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, thừa kế và quà tặng.
* Những nguyên tắc giảm trừ để xác định thu nhập tính thuế:
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi tính thuế thu nhập cá nhân là đối tượng
tính thuế phải là thu nhập do người đóng thuế toàn quyền sử dụng theo quy định của pháp
luật. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng tính thuế là thu nhập đã trừ đi các khoản chi phí
cần thiết để tạo ra thu nhập đó với một số giới hạn nhất định. Tùy theo đặc điểm kinh tế –
xã hội của mỗi quốc gia mà người ta quy định những khoản giảm trừ phù hợp. Tuy nhiên,
về cơ bản có một nguyên tắc chung: Tất cả các chi phí trực tiếp liên quan đến việc tạo ra
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 9

thu nhập cá nhân đều được giảm trừ để xác định thu nhập thực nhận được, sau đó trừ tiếp
một số khoản mang tính chất xã hội trước khi tính thuế.
 Các khoản giảm trừ có tính chất kinh tế để xác định thu nhập.
Cá nhân có các khoản thu sẽ phải trả những khoản chi phí này. Do vậy, sẽ có một
khoản tiền trong các khoản thu của cá nhân mà người ta chỉ tạm thời sở hữu chứ không
được toàn quyền sử dụng tương ứng với chi phí này. Khoản tiền này sẽ nhanh chóng
được chuyển quyển sở hữu cho người khác khi người đó chi trả các chi phí trên. Thật
vậy, các chi phí để tạo ra thu nhập cần được trừ để xác định thu nhập của mỗi cá nhân.
- Đối với thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, dịch vụ của các hộ
kinh doanh cá thể không chịu thuế thu nhập doanh nghiệp mà chịu thuế thu nhập cá nhân.
Nguyên tắc khấu trừ là tất cả các chi phí cần thiết và liên quan trực tiếp đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập mà người nộp thuế đã thực hiện bao
gồm: lương công nhân, chi phí thuê mướn, tiền trợ cấp, chi phí mua vật tư, nguyên liệu,
chi phí bảo hiểm, các chi phí về dịch vụ được cung cấp từ bên ngoài, khấu hao máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, vật kiến trúc và một vài chi phí phân bổ chung…
Quy định chung để trừ các phí tổn này là chi phí đã thực sự chi trả và cần thiết liên
quan trực tiếp đến quá trình tạo ra thu nhập. Trong thực tế, rất khó xác định ranh giới
được trừ hay không được trừ nên thông thường phải có những khống chế hoặc giới hạn
tối đa rất tỷ mỉ, chặt chẽ thì mới có thể quản lý được. Về nguyên tắc một cá nhân cần
phải có các chứng từ hợp lệ để chứng minh được các chi phi mà mình phải bỏ ra liên
quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, quản lý được chi phí thực tế rất khó.
Nhiều trường hợp, cá nhân không có đủ chứng từ hợp lệ để chứng minh chi phí mình bỏ
ra. Do đó, có những trường hợp Nhà nước sẽ khoán một chi phí định mức cho cá nhân
theo một số tiêu chuẩn nhất định.
- Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, hưu trí, trợ cấp xã hội và các khoản
tương đương.
Với thu nhập loại này, người ta cho phép trừ ra khỏi thu nhập một mức nào đó gọi
là chi phí nghề nghiệp bao gồm: các khoản đóng góp xã hội: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 10
tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm

bắt buộc và các khoản bảo hiểm bắt buộc khác theo quy định của pháp luật.
 Các khoản giảm trừ mang tính chất xã hội, khoa học, những thu nhập mang tính chất trợ
cấp xã hội, giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, người già không nơi nương tựa,
người tàn tật và thể hiện sự quan tâm đến đời sống của đối tượng nộp thuế.
Đây là một trong những đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân là có quan tâm đến
sinh hoạt và đời sống của đối tượng nộp thuế và tính thuế theo khả năng. Điều này cũng
cho thấy thu nhập cá nhân luôn gắn với các chính sách xã hội. Những khoản chi cá nhân
thường được xem xét để khấu trừ khi xác định đối tượng nộp thuế là:
- Giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế
đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế
là cá nhân cư trú, bao gồm các khoản giảm trừ sau:
+ Giảm trừ cho cá nhân có thu nhập: Là khoản tiền mà người nộp thuế TNCN
được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế TNCN nhằm giúp cho người nộp
thuế trang trải những chi phí liên quan đến việc phát sinh thu nhập, ví dụ: tiền thuê nhà,
chi phí đi lại…
+ Giảm trừ cho người phụ thuộc: Là khoản tiền giảm trừ cho người phụ thuộc mà
người nộp thuế được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế TNCN, người phụ
thuộc là người mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng. Ví dụ: con ruột, cha mẹ
ruột, cha mẹ vợ, cô dì chú bác…
- Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các
hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu qua thuế"
của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà Nước bây
giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện. Chẳng hạn như,
một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu nhập
bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi
đó, 10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Số thuế nhà nước giảm thu
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 11
khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong

trường hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào
bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.
c. Các phương pháp tính thuế thu nhập cá nhân
Thông thường, thuế thu nhập cá nhân được chia làm hai loại riêng biệt: thuế thu
nhập cá nhân theo khoản và thuế thu nhập cá nhân tổng hợp.
* Thuế thu nhập cá nhân theo khoản
Đó là thuế thu nhập cá nhân được xác định theo từng nguồn thu nhập, ứng với mỗi
nguồn thu nhập khác nhau. Do đó, tổng số thuế phải nộp chính là tổng số thuế thu nhập
mà họ phải nộp theo từng nguồn. Thuế thu nhập cá nhân theo khoản tồn tại với hai
nguyên tắc: tính thuế độc lập và có phân biệt thuế suất với các loại thu nhập khác nhau.
Từ đó, có thể cho phép điều chỉnh tăng giảm mức đóng góp về thuế tùy theo nguồn gốc
thu nhập, có sự phù hợp giữa kỹ thuật tính thuế với đặc điểm của mỗi loại thu nhập.
* Thuế thu nhập cá nhân tổng hợp
Đó là loại thuế được tính trên tổng thu nhập tương ứng với tổng số các khoản thu
nhập cộng lại. Thông thường, theo cách tính này, người có thu nhập cao phải nộp thuế
nhiều hơn người có thu nhập thấp.
Căn cứ để xác định thuế thu nhập cá nhân phải nộp là thu nhập tính thuế và thuế
suất. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân có thể tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định hoặc
được xác định theo thuế suất lũy tiến từng phần, lũy tiến toàn phần hay lũy thoái tùy theo
quan điểm về mục đích sử dụng thuế thu nhập cá nhân của mỗi quốc gia. Do đó, phù hợp
với mỗi đặc trưng của thuế suất, thuế thu nhập cá nhân lại được tính theo một phương
pháp riêng, bao gồm:
- Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ: theo phương pháp này, thuế được tính theo
thuế suất tỷ lệ. Mức thu quy định bằng một tỷ lệ phần trăm của cơ sở thuế và không thay
đổi theo quy mô của cơ sở đó.
- Phương pháp tính thuế theo lũy tiến từng phần: thuế suất được dùng trong
phương pháp này là thuế suất lũy tiến từng phần: thuế suất tăng dần theo từng phần tăng
lên của cơ sở thuế. Cơ sở thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng dần. Ứng với
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 12
mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế đó là một mức thuế suất biên. Số thuế mà đối

tượng phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và kiểm tra loại thuế
này nhìn chung khá phức tạp nhưng cách tính này đảm bảo số thuế phải nộp tăng dần,
không bị đột biến cùng với tốc độ tăng của cơ sở thuế, đảm bảo tính công bằng theo chiều
dọc cao và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập. Chính vì vậy, thuế thu nhập cá
nhân ở rất nhiều nước áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần.
- Phương pháp tính thuế lũy tiến toàn phần: theo phương pháp này, biểu thuế cũng
bao gồm nhiều bậc ứng với mỗi mức tăng lên của thuế suất nhưng toàn bộ cơ sở thuế
được áp dụng một thuế suất chung tương ứng. Thuế suất lũy tiến toàn phần cho phép xác
định số thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng. Tuy vậy, cách tính này có nhược
điểm là gây ra sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của các đối
tượng nộp thuế. Mặc dù giá trị của cơ sở thuế có thể thay đổi không đáng kể nhưng người
chịu thuế lại phải nộp một thuế suất tương ứng tăng lên cho toàn bộ cơ sở thuế. Do đó, số
thuế phải nộp tăng cao. Sự tăng thuế này dễ dẫn đến phản ứng từ phía đối tượng nộp
thuế, làm giảm vai trò của thuế.
- Phương pháp tính thuế với thuế suất lũy thoái: thuế suất được áp dụng trong
phương pháp này là thuế suất lũy thoái. Đây là loại thuế có tính chất ngược lại với thuế
suất lũy tiến, tức là mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở thuế lại tăng dần. Nói chung,
thuế suất lũy thoái không được áp dụng phổ biến.
Trong nội dung thuế thu nhập cá nhân, đối với thu nhập từ lao động thì hầu hết các
nước áp dụng hệ thống đa thuế suất, với cơ chế thuế suất lũy tiến từng phần. Tuy nhiên,
có một số nước không thu thuế thu nhập cá nhân đối với tiền lương, tiền công như
Bruney. Một số nước khác như Iceland chỉ áp dụng một thuế suất cố định đối với mọi
khoản thu nhập là 39% .
Đối với thu nhập từ đầu tư như lãi cổ phần, lãi cho vay, tiền bản quyền , ở nhiều
nước thuế suất thường quy định mức 10%, 15%, 20% hoặc 25%. Trong trường hợp chủ
sở hữu bất động sản là người nước ngoài thì tùy theo Hiệp định ký kết giữa các nước mà
quy định mức thuế cụ thể khác nhau. Nhiều nước cũng quy định tính thuế suất riêng cho
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 13
một số khoản thu nhập mang tính chất không thường xuyên (thặng dư tài sản, quà biếu,
quà tặng) theo một mức nhất định.

Số lượng thuế suất trong biểu thuế của các nước cũng rất khác nhau. Có nước chỉ
áp dụng hai thuế suất như Thụy Điển. Tuy nhiên, phần lớn các nước áp dụng ba hay sáu
mức thuế suất như Nhật Bản (5 mức thuế suất), Hàn Quốc (6 mức thuế suất) …
Bên cạnh đó, cũng có một số nước áp dụng nhiều thuế suất như Ai Cập (23 mức
thuế suất).
Hiện nay, trong việc tính thuế thu nhập cá nhân thường có hai dạng quy định:
+ Dạng 1: Áp dụng mức khởi điểm tính thuế.
+ Dạng 2: Không áp dụng mức khởi điểm tính thuế.
Theo cách tính thuế này, hầu hết các cá nhân có thu nhập đều phải nộp thuế. Nhìn
chung, những nước không áp dụng mức khởi điểm lại áp dụng cơ chế suất miễn thu
d. Đơn vị tính thuế
Cá nhân có thu nhập hoặc là hộ gia đình thường là đơn vị tính thuế. Vì thuế thu
nhập cá nhân ảnh hưởng đến hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế nên cần phân biệt cá
nhân có gia đình với cá nhân độc thân khi tính thuế. Với cá nhân độc thân, nhiều người
cho rằng cần phải tính thuế cao hơn cá nhân có gia đình vì họ chỉ phải chi phí cho bản
thân họ. Nhưng có người lại cho rằng nên tính thuế thấp hơn đối với những người này vì
họ đã chịu thiệt thòi do không được hưởng hạnh phúc gia đình. Nói tóm lại, mỗi đơn vị
tính thuế đều có những ưu nhược điểm khác nhau.
Tính thuế thu nhập cá nhân trên thu nhập thực tế của từng cá nhân có ưu điểm là
đơn giản, dễ làm, thu kịp thời cho ngân sách nhưng lại có nhược điểm là chưa đảm bảo
được yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế, chưa đáp ứng được tính công
bằng xã hội.
Các nước như: Anh, Nhật, Thụy Điển, Áo, Đan Mạch đã tính thuế thu nhập cá
nhân trên thu nhập của từng cá nhân. Ngược lại, ở các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan lại sử
dụng thu nhập của các hộ gia đình để tính thuế thu nhập cá nhân. Cách tính thuế này sẽ
đảm bảo công bằng hơn về đạo đức xã hội nhưng mất tính kịp thời trong động viên thuế
cho nhà nước vì trong một gia đình, mỗi cá nhân thường có việc làm và nguồn thu nhập
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 14
khác nhau, do đó việc thống kê theo dõi từng nguồn thu nhập rồi đối chiếu với nơi phát
sinh là rất phức tạp.

e. Thời gian tính thuế
Việc xác định thời gian tính thuế là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây
dựng và thực hiện luật thuế bởi vì thời điểm tính thuế là thời điểm thuận lợi cho công tác
quản lý thu cũng như việc kê khai và nộp thuế của người dân và phải chịu đảm bảo giá trị
của đồng tiền nộp thuế trước tình trạng lạm phát, đảm bảo việc chi tiêu theo kế hoạch của
nhà nước, tránh được việc chiếm đoạt tiền thuế.
Thông thường, các nước xác định mức thuế phải nộp từng năm. Ưu điểm của việc
sử dụng khoảng thời gian năm là đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên của chính phủ
để trang trải các chi phí vì các kế hoạch kinh tế - xã hội của chính phủ được đặt ra và thực
hiện trong từng năm. Dự kiến nguồn thu ngân sách cũng được đặt ra hàng năm. Đây là
khoảng thời gian hợp lý cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên cơ sở hệ thống kế toán
ở các doanh nghiệp đơn vị kinh tế hạch toán, quyết toán.
f. Về miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân
Các nước cũng có quy định về vấn đề này tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã
hội của từng quốc gia.
Ví dụ như Mỹ quy định “suất miễn giảm thu nhập” cho người nộp thuế trong
trường hợp này phải chứng minh được rằng mình phải cung cấp quá nửa sự hỗ trợ cho cá
nhân ăn theo thì sẽ được miễn thu 2.350 USD/năm. Mức này được xác định theo tỷ lệ
lạm phát từng năm có sự điều chỉnh.
Chương 2: Nội dung của Luật thuế TNCN hiện nay tại Việt Nam
1. Đối tượng nộp thuế
- Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy
định tại Điều 3 của Luật thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt
Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế thu
nhập cá nhân phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
- Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 15
+ Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc
tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;
+ Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường

trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
- Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện cư trú quy định trên.
2. Thu nhập chịu thuế:
Thu nhập chịu thuế của cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây:
- Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh;
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử
dụng lao động;
- Thu nhập từ đầu tư vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
- Thu nhập từ trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật;
- Thu nhập từ bản quyền;
- Thu nhập từ nhượng quyền thương mại theo quy định của Luật Thương mại;
- Thu nhập từ thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở
kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế,
cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử
dụng.
3. Thu nhập được miễn thuế
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với
con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ
với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em
ruột với nhau.
- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với
đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
- Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 16
- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ,
mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha
vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại;

anh, chị, em ruột với nhau.
- Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc
chỉ qua sơ chế thông thường.
- Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà
nước giao để sản xuất.
- Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Thu nhập từ kiều hối.
- Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền
lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật.
- Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả.
- Thu nhập từ học bổng.
- Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi
thường tai nạn lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi thường khác theo
quy định của pháp luật.
- Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm
mục đích lợi nhuận.
- Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo
dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt.
4. Giảm thuế
Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo
ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại
nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.
5. Các khoản giảm trừ
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 17
* Giảm trừ gia cảnh:
- Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế
đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân

cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
+ Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu
đồng/năm);
+ Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
- Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo
nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp
thuế.
- Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng,
bao gồm:
+ Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
+ Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định,
bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học
nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc
không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế
phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Chính phủ quy định mức thu nhập, kê khai để xác định người phụ thuộc được tính giảm
trừ gia cảnh.
6. Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
- Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế
đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú, bao gồm:
+ Khoản đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa;
+ Khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.
- Tổ chức, cơ sở và các quỹ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 20, Mục
I, Chương II Luật số 04/2007/QH12 phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 18
phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, khuyến học,
không nhằm mục đích lợi nhuận.
7. Biểu thuế luỹ tiến từng phần

- Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế đối với thu nhập
từ kinh doanh, tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế trừ các khoản đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành,
nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản giảm trừ nêu trên.
- Biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau:
Bậc
thuế
Phần thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất
(%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15
4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20
5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25
6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35
8. Biểu thuế toàn phần
- Biểu thuế toàn phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ đầu
tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, tiền bản quyền,
nhượng quyền thương mại, nhận thừa kế, quà tặng là thu nhập chịu thuế.
- Biểu thuế toàn phần được quy định như sau:
Thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
a) Thu nhập từ đầu tư vốn
5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại
5

c) Thu nhập từ trúng thưởng
10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng
10
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 19
e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
- Trường hợp không xác định được thu nhập tính thuế thì áp dụng
thuế suất tính trên giá bán
20
0,1
g) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
- Đối với chuyển nhượng chứng khoán áp dụng thu theo từng phần
25
2
Chương 3: Phân tích Thực trạng tác động của thuế TNCN đến thu nhập từ tiền công tiền
lương:
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế khá “nóng” được nhiều chuyên gia kinh tế
đưa ra phân tích mổ xẻ trên các phương tiện thông tin đại chúng bởi những bất cập trong
cách tính thuế và sự “chậm chạp” không theo kịp với tình hình phát triển kinh tế chung
của cả nước, sắc thuế này còn liên quan tới nhiều người làm công ăn lương. Thời gian
gần đây, dư luận lại thêm một lần nữa “xôn xao” khi Bộ tài chính công bố sửa đổi nội
dung Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Những lợi ích cũng như đóng góp của thuế thu nhập cá nhân đối với ngân sách
quốc gia là điều có thể nhìn thấy một cách rõ ràng. Tuy nhiên tình hình suy thoái của
kinh tế thế giới thời gian qua cùng với lạm phát gia tăng ở năm 2011 đã kéo theo hàng
loạt hệ lụy khiến cho Luật Thuế thu nhập cá nhân trước đây trở nên hết sức lỗi thời và
không còn phù hợp.
Đánh giá về việc thực hiện Luật Thuế TNCN hiện hành (được ban hành năm 2007
và áp dụng từ năm 2009), Bộ Tài chính cũng thừa nhận những điểm bất cập tồn tại. Mức
giảm trừ gia cảnh 4 triệu đồng/tháng đã không còn phù hợp, bởi khi có hiệu lực, CPI năm

2009 chỉ ở mức 6,52%. Nhưng, 3 năm qua, CPI đã tăng liên tục, đều trên 2 con số, năm
2010 là 11,75% và 2011 là 18,13% ảnh hưởng lớn tới mức sống của người dân. Vì vậy,
việc sửa Luật Thuế TNCN hiện hành đã tiến hành từ cách đây một năm.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 20
Ngày 13/03/2012, Bộ Tài chính đã công bố nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Thuế
thu nhập cá nhân (TNCN) với nhiều điểm mới được dư luận quan tâm về mức giảm trừ
gia cảnh, giảm trừ cho người phụ thuộc. Bộ Tài chính dự kiến sẽ nâng mức giảm trừ gia
cảnh từ 4 triệu lên 6 triệu đồng/tháng, đồng thời nới mức giảm trừ cho mỗi người phụ
thuộc từ 1,6 triệu lên 2,4 triệu đồng/tháng với hiệu lực đề xuất từ ngày 1/1/2014. Như
vậy, mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người nộp thuế là 78 triệu đồng/năm, mức giảm trừ
cho mỗi người phụ thuộc là 28,8 triệu đồng/năm.
Theo Bộ Tài chính, phương án giảm trừ gia cảnh này đã căn cứ vào tốc độ trượt
giá CPI, tốc độ tăng GDP bình quân và tiền lương tối thiểu dự kiến năm 2014. Cụ thể,
căn cứ vào mức thu nhập tiền lương tối thiểu sẽ ở khoảng 1,67 triệu đồng/tháng vào năm
2014, đồng thời căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người do Tổng cục Thống kê
công bố. So với GDP bình quân theo đầu người vào năm 2014, mức 6 triệu đồng/tháng
giảm trừ gia cảnh đã tương đương 1,7 lần. Nếu so với tiền lương tối thiểu dự kiến như
trên, mức giảm trừ gia cảnh trên cũng đã cao gấp 3,6 lần.
Đề xuất sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân nhận được sự quan tâm chú ý của khá
nhiều tầng lớp nhân dân, tuy nhiên sau khi Bộ Tài chính công bố quyết định sửa đổi thì
hầu hết người dân đều lắc đầu và cảm thấy hụt hẫng bởi những nội dung được sửa đổi
của Luật Thuế TNCN cùng những giải thích mà Bộ Tài chính đưa ra có nhiều điểm lại
tiếp tục lạc hậu so với thực tế. Cụ thể, đến năm 2014, mức giảm trừ gia cảnh 6 triệu
đồng/tháng cho người nộp thuế không còn phù hợp, khi giá cả ngày một tăng cao. Trong
khi đó, việc tham khảo dựa trên kết quả cuộc điều tra xã hội học của Tổng cục Thống kê
về thu nhập và mức sống dân cư là kết quả thực hiện từ năm 2010.
Có nhiều ý kiến cho rằng việc điều chỉnh mức đánh thuế thu nhập cá nhân từ 4
triệu đồng lên 6 triệu đồng/tháng cần được áp dụng ngay từ thời điểm này, vì thực chất
đây không phải tăng mà chỉ là quy đổi ngang giá, bởi với tình trạng tăng giá như hiện
nay, 6 triệu đồng của đầu năm 2014 chắc chắn không có giá trị bằng 4 triệu đồng thời

điểm hiện nay và giá trị 4 triệu đồng của năm 2011 không thể bằng giá trị 4 triệu đồng
của thời điểm năm 2009. Nếu trong hai năm 2012-2013 vẫn tiếp tục áp dụng mức thu
khởi điểm 4 triệu đồng như hiện nay thì sẽ gây khó cho cuộc sống của nhiều người dân.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 21
Vì với mức sống như hiện nay tại một số thành phố lớn nhất là Hà Nội và TPHCM, 4
triệu đồng/tháng cho một người chắc chắn không đủ trang trải cho những nhu cầu thiết
yếu nhất thì rất khó nói đến chuyện nộp thuế. “Vết” xe đổ trong cách tính mức khởi điểm
chịu thuế của Luật Thuế TNCN năm 2007 vẫn là bài học nhãn tiền, việc điều chỉnh luật
Thuế thu nhập cá nhân như lần này rõ ràng chúng ta đang dẫm lại vào vết xe đổ trước đó.
Nộp Thuế thu nhập cá nhân là một chủ trương đúng đắn của nhà nước. Tuy nhiên,
nếu xét trên thu nhập của một gia đình có hai vợ chồng là công chức nhà nước, thu nhập
tất nhiên không thể so sánh với tư nhân bên ngoài và mọi khoản thu đều phải công khai
minh bạch. Và với mức lương 4 triệu đồng đã phải nộp thuế TNCN. Nếu Thuế TNCN
bám sát với thực tế hơn, thì chi phí hiện nay rất đắt đỏ, một người có mức thu nhập 4
triệu đồng chưa đảm bảo được mức sống trung bình, chưa kể ốm đau bệnh tật, đình đám
cưới xin Mặc khác, nhà ở cho người có thu nhập thấp ở thủ đô thấp nhất hiện nay đã là
700 – 800 trăm triệu đồng thì với người có mức thu nhập 4 triệu đồng/tháng, với tiêu
chuẩn mua nhà dành cho người thu nhập thấp, sau khi chi tiêu hàng ngày thì bao nhiêu
năm mới người lao động mới có nhà để ở dựa trên thu nhập từ tiền công tiền lương của.
Đó chính là nguyên nhân mà người ta luôn luôn tìm cách trốn thuế.
Nếu không đề cập đến mức khởi điểm chịu thuế cũng như mức giảm trừ gia cảnh
thì việc nhà nước sửa đổi luật cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng lại hoàn toàn chưa
“thực tế” và chưa toàn diện. Nhà nước nên căn cứ theo một mốc nào đó cụ thể chẳng hạn
là mức lương tối thiểu để tính thuế. Đồng thời nhà nước cũng không nên cứng nhắc trong
việc quy định Thuế thu nhập cá nhân mà phải có sự linh hoạt mềm mỏng để Thuế thu
nhập cá nhân thực sự “theo sát” với đời sống nhân dân. Chỉ cần xem phản ứng của người
dân thời gian qua kể từ khi Bộ tài chính họp báo công bố sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá
nhân là đủ thấy sự thay đổi này hoàn toàn chưa có tính thuyết phục và khó đi vào cuộc
sống. Nhiều người nói rằng không hề có sự thay đổi nào có lợi cho dân trong khi cuộc
sống người dân thì vẫn đang bí bách, sửa đổi lần này không khác gì Luật Thuế thu nhập

cá nhân trước đó, về thực chất chỉ là “bản sao” mà thôi.
Ngoài ra, sửa đổi lần này chỉ giảm từ 7 bậc thuế xuống còn 6 bậc (bỏ bậc thuế
35%), sự thay đổi này không có tác động nhiều. Hiện nay số người phải nộp thuế vẫn
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 22
nằm chủ yếu ở mức từ bậc 1 đến 6 mà nhiều nhất là bậc 1 và 2. Việc biểu thuế suất quá
dày gây tâm lý đối với người dân. Theo kì hạn tăng lương thì chỉ cần nhích lên một chút
(mặc dù mức lương tăng lên không nhiều so với trước đó) nhưng đã “đẩy” họ vào một
mức chịu thuế mới mà khi tính ra thì thu nhập của họ sau khi đã trừ thuế tháng sau
lại….thấp hơn tháng trước. Cho nên, cần hạ mức khỏi điểm chịu thuế 5% xuống như thế
sẽ làm giảm áp lực của người nộp thuế đồng thời bỏ bớt các bậc thuế lẻ. Việc trốn thuế
hiện nay diễn ra với rất nhiều hình thức, thay vì lo tính toán nhiều bậc thuế, tập trung
kiểm soát nguồn thu thì không lo gì nguồn thu từ Thuế thu nhập cá nhân bị giảm khi thay
đổi.
Việc Bộ Tài chính chủ động công bố nội dung sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân
là một động thái được đông đảo dư luận hoan nghênh. Tuy nhiên, các tính toán điều
chỉnh về mức khởi điểm nộp thuế đang khiến nhiều người dân đi từ kì vọng sang thất
vọng. Nếu năm 2007, việc chọn mức giảm trừ 4 triệu đồng/tháng mà không tính theo
GDP, mức tiền lương tối thiểu hay tính theo yếu tố trượt giá,…, chờ khi mức này này
thấp hơn mức thu nhập bình quân đầu người của xã hội thì mới sửa đổi, thì nay, cách tính
toán sửa thuế TNCN có vẻ tiến bộ hơn. Và để đi đến mức khởi điểm chịu thuế được chọn
là 6 triệu đồng, Bộ Tài chính đã dựa trên 4 yếu tố là GDP, CPI, tiền lương tối thiểu và kết
quả điều tra mức sống của người dân do Tổng cục Thống kê thực hiện. Mức 6 triệu được
cho là gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu dự kiến 1,67 triệu đồng vào năm 2014 vốn được
“lấy” ra từ Đề án Cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2013-2020 do Bộ Nội vụ chủ
trì. Căn cứ này rất khoa học bởi nó bám theo các yếu tố tổng hòa tác động tới toàn bộ đời
sống kinh tế xã hội. Rõ ràng, về lý thuyết, các nguyên tắc tính toán đó là hợp lý.
Tuy nhiên thực tế thì việc dự báo sự phát triển của nền kinh tế ở Việt Nam không
được đánh giá cao nếu như không nói là “không đáng tin cậy”, đó là tình trạng luôn có
khoảng cách khá xa giữa các con số dự báo trên giấy, các mục tiêu theo kế hoạch của
Chính phủ với thực tiễn đời sống kinh tế Việt Nam mà bài học về Luật Thuế thu nhập cá

nhân ban hành năm 2007 và áp dụng năm 2009 vẫn còn nguyên giá trị. Chính vì vậy mà
ngoài các thành viên ban soạn thảo ra thì hầu hết người dân và các chuyên gia kinh tế đều
tỏ ra khá “bi quan” với con số 6 triệu áp dụng cho mức khởi điểm chịu thuế vào năm…
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 23
2014 và e ngại về một kịch bản lạc hậu của Luật Thuế thu nhập cá nhân trước đó sẽ tái
diễn trong tương lai.
Chương 4: Kiến nghị
Thuế TNCN cần phần toàn diện và thực tế, phải tính toán trên toàn bộ người dân
nộp thuế, mức thu, đối tượng, thuế suất… phải phù hợp với tình hình thực tại về thu nhập
từ tiền lương, tiền công, của đại bộ phận người dân.
Thuế TNCN cần tính đến lạm phát, sức mua của đồng tiền, giá cả hàng hóa, tỷ lệ
tăng giá hàng năm…
Thuế TNCN nên hướng tới biện pháp hỗ trợ cho người dân có thu nhập thấp, tạo
điều kiện an sinh xã hội, tránh sưu cao thuế nặng gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
người dân.
Thuế TNCN là cần được sử dụng như là công cụ tái phân phối thu nhập giúp giảm
khoảng cách giàu nghèo.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 24
KẾT LUẬN
Thuế TNCN ở nước ta hiện nay chưa phù hợp với tình hình thức tế đối với thu
nhập từ tiền công, tiền lương. Thuế chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền, lạm phát,
chưa phát huy được hiệu quả của công cụ tái phân phối thu nhập, chưa đáp ứng được yêu
cầu giảm khoảng cách giàu nghèo trong đại bộ phận người dân. Thuế TNCN chưa có
chính sách hỗ trợ người nghèo và người có thu nhập thấp, chưa tạo điều kiện cải thiện
mức sống của người dân.
Việc thực thi chính sách còn bất cập, công tác quản lý thu thuế chưa chặt chẽ tạo
ra tiêu cực trong việc thu thuế và đóng thuế.
SVTH: Trần Thị Hồng Loan 25

×