Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận Đầu tư tài chính NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC TRONG NỀN KINH TẾ NHỎ MỞ: BẰNG CHỨNG TỪ CANADA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.45 KB, 24 trang )

NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC TRONG NỀN
KINH TẾ NHỎ MỞ: BẰNG CHỨNG TỪ CANADA
Amir Kia
Khoa Tài chính và Kinh tế, Đại học Utah Valley, UT 84058-5999, USA
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu phát triển một mô hình lý thuyết tiền tệ về tỷ giá hối đoái thực và
chỉ ra rằng về lâu dài tỷ giá hối đoái thực là một hàm của cung tiền thực, tỷ giá
quốc tế trong và ngoài nước, GDP thực, chi tiêu chính phủ thực, thâm hụt trên
GDP, dư nợ trong và ngoài nước trên GDP, nợ được tài trợ bên trong và ngoài
nước trên GDP và giá cả hàng hóa. Mô hình sử dụng dữ liệu ở Canadia (thời kì từ
quý 1 năm 1972 đến quý 3 năm 2010). Nghiên cứu chỉ ra rằng tất cả các biến, trừ
cung tiền thực, lãi suất trong và ngoài nước và nợ được tài trợ trong nước, các biến
khác đều có ý nghĩa thống kê tác động đến tỷ giá hối đoái thực ở Canada. Tuy
nhiên, những biến tài chính trong nước không có ý nghĩa đối với tỷ giá hối đoái
thực trong ngắn hạn. Sự thay đổi trong lãi suất, sự tăng trưởng trong cung tiền, giá
cả hàng hóa và nợ công của Mỹ (US) trên GDP có tác động tiêu cực đối với sự gia
tăng tỷ giá hối đoái thực trong ngắn hạn.
1.Giới thiệu
Tỷ giá hối đoái thực, là một chỉ tiêu đo lường mức độ cạnh tranh giá cả-chi phí, có
thể làm mất đi tác động đáng kể của nó trong việc giải thích dòng chảy thương mại
(trade flows) nếu những yếu tố quyết định cơ bản của nó không được biết tới. Các
biến vĩ mô cơ bản là những yếu tố quyết định tỷ giá hối đoái theo các mô hình tỷ
giá hối đoái chuẩn. Nếu các ngân hàng trung ương tuân theo các quy tắc Taylor
(Mark, 2009), điều này chỉ ra rằng các yếu tố cơ bản quyết định tỷ giá hối đoái có
thể bao gồm khoảng cách lạm phát kì vọng tương ứng và khoảng cách đầu ra tương
ứng. Theo Mark (2009), các biến cơ bản và các kì vọng hợp lý giải thích khá yếu
cho tỷ giá hối đoái thực trong tổng quan nghiên cứu gần đây.
Theo kết quả nghiên cứu của Devereux (1997), dưới tác động của giá kết dính
ngắn hạn (short-run sticky prices) và tính linh hoạt vốn cao (Các mô hình dạng
Mundell-Fleming-Dornbusch), sự biến động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ
chuyển dịch theo tỷ lệ 1:1 sang tỷ giá hối đoái thực. Trong những mô hình như thế,


tỷ giá hối đoái danh nghĩa thì dễ thay đổi hơn so với gốc cơ sở của nó trong ngắn
hạn, nhưng vì giá cả thực hiện điều chỉnh trong dài hạn tỷ giá hối đoái thực hội tụ
về mức cân bằng dài hạn theo cùng tỷ lệ. Hơn nữa, trong dài hạn, tỷ giá hối đoái
thực hội tụ về ngang giá sức mua (PPP) ám chỉ rằng các biến vĩ mô cơ bản không
có bất kì tác động nào tới tỷ giá hối đoái thực.
Một quan điểm khác cho rằng giá cả hoàn toàn linh hoạt và tỷ giá hối đoái thực
điều chỉnh đối với nhiễu thực (real disturbances) và chính sách tài khóa. Chính
sách tiền tệ không thể ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái thực, theo như trong quan điểm
cân bằng này thì cả giá và tỷ giá hối đoái danh nghĩa điều chỉnh theo cùng tỷ lệ đối
với bất kì cú sốc tiền tệ nào, Devereux (1997). Tuy nhiên, có khả năng là giá cả
của tất cả hàng hóa được thiết lập theo tiền tệ trong nước và chỉ được điều chỉnh
theo thời gian. Trong trường hợp này chúng ta có thể có hai loại độ cứng nhắc của
giá cả: Đầu tiên, sự thiết lập giá cả so le, khi mà giá cả được thiết lập trước cho
một số thời kì tương lại định sẵn; thứ hai, cơ chế thiết lập giá cả được điều chỉnh
theo từng phần, được giải thích bởi Calvo (1983), được thể hiện trong mẫu,
Kollman (1997) người cung cấp những bằng chứng về tính biến động tỷ giá hối
đoái thực từ những nước G7.
Với việc không có các rào cản thương mại và các kì vọng hợp lý, chúng tôi sẽ kì
vọng ngang giá sức mua PPP được giữ trong dài hạn mà không kể đến sự kết dính
hay linh hoạt của giá cả trong ngắn hạn. Husted và MacDonald (1998), sử dụng dữ
liệu bảng, cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái song phương của đồng
Đô la Mỹ, Mác Đức và Yên Nhật. Sideris (2008), sử dụng dữ liệu của 6 nước
Trung và Đông Âu, cho thấy PPP duy trì khi có sự can thiệp chính thức trong thị
trường hối đoái được kếp hợp (incorporated). Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng
tỷ giá hối đoái thực không ổn định trong 5 trong số các nước này. Narayan (2008),
sử dụng dữ liệu bảng đối với 16 nước OECD, các bằng chứng về sự tồn tại của
PPP khi breaks được xem xét. Salehizadeh và Taylor (1999) chỉ ra PPP được duy
trì trong dài hạn đối với 14 trong tổng số 27 quốc gia mới nổi.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng không có bằng chứng thực nghiệm đủ mạnh nào
để hỗ trợ cho PPP trong dài hạn, ví dụ như theo Devereux (1997) và trong phần

tổng quan được trích dẫn. Một lời giải thích hợp lý cho sự chệch từ PPP như thế đó
là tỷ giá hối đoái danh nghĩa và giá cả phản ứng đối với các yếu tố vĩ mô cơ bản
theo những tỷ lệ khác nhau để tạo ra những biến động trong các biến vĩ mô, đặc
biệt các biến tiền tệ và tài khóa, từ đó dẫn tới những biến động trong tỷ giá hối đoái
thực, một cách cụ thể trong dài hạn. Mục tiêu của nghiên cứu này là để phát triển
và kiểm định một mô hình của tỷ giá hối đoái thực mà nó được sử dụng để kiểm
chứng cho sự giải thích này.
Theo một số nghiên cứu học thuật, sự biến động của tỷ giá hối đoái thực bắt nguồn
hầu hết từ các nhân tố bên ngoài hay sự khác biệt giữa các nhân tố bên ngoài và
bên trong ( ví dụ theo Calvo và cộng sự, 1993; Del Negro và Obiols-Hums, 2001;
Kanas, 2005; Kandil và cộng sự 2007; Hamori và Hamori, 2011). Một số nghiên
cứu sử dụng một hay một số biến tài khóa cũng như là các biến vĩ mô để xác định
tỷ giá hối đoái thực (Ví dự như theo Edwards, 1988; MacDonald, 1998;
Canzoneri và cộng sự, 2003; Égert và cộng sự, 2006; Candelonet và cộng sự,
2007; Kim and Roubini, 2008; Müller, 2008; Galstyan and Lane, 2009;
Cayen và cộng sự, 2010; EttaNkwelle và cộng sự, 2010; Chowdhury, 2012).
Hơn nữa, một số nghiên cứu bỏ qua hầu như hoàn toàn các biến vĩ mô cơ bản, đặc
biệt là các biến tài khóa (ví dụ như Schlagenhauf và Wrase, 1995; Devereux,
1997; Kim, 2007; Morales-Zumaquero, 2006; Uz và Ketenci, 2010).
Trong bài nghiên cứu này, tôi xây dựng một mô hình tỷ giá hối đoái thực mà nó có
thể chứng minh sự ảnh hưởng vửa cả biến tài khóa lẫn tiền tệ, gồm tất cả các biến
vĩ mô cơ bản có liên quan. Theo như hiểu biết của tôi, tôi chưa từng thấy mô hình
nào như vậy trong tổng quan nghiên cứu hiện nay. Đó là đóng góp đầu tiên của
nghiên cứu này.
Chúng ta cũng nên đề cấp đến việc ước lượng các mối quan hệ đồng liên kết dài
hạn mà không có nghiên cứu trước đây nào tính đến yếu tố động dynamics ngắn
hạn của hệ thống để điều chỉnh cho các nhận tố (cụ thể là khủng hoảng tài
chính/kinh tế, những thay đổi hệ thống chính sách và những thay đổi ngoại sinh)
mà có thể ảnh hưởng đến các yếu tố động dynamics ngắn hạn của hệ thống. Kia
(2996b) cho thấy rằng các kế quả sẽ bị chệch nếu chúng ta bỏ qua yếu tố này.

Mô hình được ước lượng với dữ liệu ở Canada, khi đó tôi cho phép các yếu tố
động dynamics ngắn hạn của hệ thống kết hợp với sự thi hành lạm phát mục tiêu
của ngân hàng Canada và Bộ tài chính , hiệp định mâu dịch tư do và Nafta cũng
như cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ gần đây. Nó chỉ ra rằng, trái ngược với tổng
quan nghiên cứu trước đây (ví dụ như Mark, 2009), các biến cơ bản thể hiện rất tốt
trong dài hạn. Đây là đóng góp khác của bài nghiên cứu này. Hơn thế nữa, theo
như ghi nhận về Canada, theo bảng 1, có mức độ mở cửa cao nhất trong số các
quốc gia G7. Vì vậy, bộ dữ liệu về Canada là những quan sát tốt để kiểm định mô
hình.
Phần tiếp theo mô tả mô hình và theo sau đó là phần dữ liệu và các các kết quả ước
lượng dài hạn. Phần 4 ghi nhận các mô hình động ngắn hạn. Phần 5 phân tích các
phản ứng của tỷ giá hối đoái thực đối với các cú sốc và cuối cùng là kết luận rút ra.
2. Mô hình
Giả định mẫu đại diện trong nền kinh tế có những sở thích được cho bởi:

(1)
Trong đó U(Ct, Ct*, gt, ktmt, kt*mt*) = (1-α)-1 (Ct.α1Ct* α2gt α3)1- α + ξ *(1-η)-
1[(mt/kt)η1 (mt*/kt*)η2]1-η.
Hơn nữa, α1, α2, α3, α, η1, η2, η và ξ là các thông số dương và 0.5 < α < 1 và 0.5
< η <1. Giả định sau cùng (0.5 < α < 1 và 0.5 < η <1) thì được cần để đảm bảo mức
cầu chuẩn của tiền. Vì không có bất kì kết quả dưới đây nhạy cảm với độ lớn của
α1, α2, α3, α, η1 và η2, để cho đơn giản, chúng tôi giả định những thông số này tất
cả bằng từ 0 cho tới 1. Ở đây ct và ct* tương ứng là hàng hóa thực tiêu dùng đơn
lẻ, không tích trữ được, trong nước và ngoài nước . mt và mt* tương ứng là sự nắm
giữ cán cân tiền mặt thực trong nước (M/p) và ngoài nước (M*/p*). E là toán tử kì
vọng, và là nhân tố chiết khấu thỏa mãn 0 < β < 1. Chi tiêu chính phủ thực đối với
hàng hóa và dịch vụ (g) được giả định là “một điều tốt”. Trong khi xây dựng hàm
thỏa dụng (1), để đơn giản, theo Cox (1983), Drazen và Helpman (1990), Hueng
(1999) và Kia (2006a) và nhiều người khác, chúng tôi giả định rằng nguồn đầu ra
tổng cộng được cho là ngoại sinh. Nói theo cách khác, chúng tôi giả định lao động

được cung ứng một cách không co dãn. Ghi chép cho rằng không có kết quả nảo sẽ
bị tác động nếu chúng ta nới lỏng giả định này. 1
Chi tiêu chính phủ bao nằm trong các sở thích được dưa trên giả định lợi ích các cá
nhân được từ các dịch vụ của chính phủ , ví dụ như đường xá, thức ăn sạch sẽ, an
toàn mà được xem xét kĩ, vân vân… cung cấp một thỏa dụng cao hơn cho người
tiêu dùng. Như một sự lựa chọn, theo tổng quan nghiên cứu, chúng tôi có thể cân
nhắc g như mức cầu chung cho hàng hóa công. Thật ra, sự cho phép sở thích người
tiêu dùng có thể phụ thuộc vào chi tiêu chính phủ thì không mới trong tổng quan
nghiên cứu, có thể thấy đó là Kia (2006a) và các tài liệu tham khảo trong đó,. Theo
Sidrauski (1967), nó được giả định các dịch vụ của tiền được đưa vào trong hàm
thỏa dụng. Ngoài ra, theo Stockman (1980), Lucas (1982), Guidoti (1993), Hueng
(1999) và Kia (2006a), nó được giả định rằng sức mua nội địa và hàng hóa nước
ngoài được tạo ra với những tiền tệ (currency) trong nước và ngoài nước tướng
ứng, và vì vậy, các dịch vụ của cả tiền tệ (currency) trong lẫn ngoài nước được đưa
vào trong hàm thỏa dụng. Cho phép chúng tôi chọn các đơn vị cũng theo cách như
vậy đó là các dịch vụ của tiền trong nước S thì bằng m và các dịch vụ của tiền
nước ngoài S* thì bằng m*. Có một điều chú ý đơn giản chỉ cho biết là không có
bất kì kết quả nào trong nghiên cứu này sẽ thay đổi nếu thay vì các dịch vụ của
Sidrauski về tiền trong hàm thỏa dụng chúng tôi gỉa định là một mô hình shopping
time hoặc cash-in-advance.
Theo Kim (2000) và Kia (2006b), biến kt, là cái mà tổng hợp rủi ro kết hợp với
việc nắm giữ tiền trong nước, cũng được đưa vào. Tuy nhiên, trái với Kim, chúng
tôi giả định biến k là một công thức của các biến tài khóa biết trước trong dài hạn
và hệ thống chính sách và chính trị thay đổi trong ngắn hạn. Hơn thế nữa, chúng tối
giả định k
t
cũng bao gồm rủi ro tiêu cực. Chúng tôi mặc định trong dài hạn:
).log()log(
3210 ttttt
comkfgdpkdebtgdpkdefgdpkk +++=

(2)
Giả định rằng động lực trong ngắn hạn của các biến rủi ro (log(K)) bao gồm một
bộ của các biến giả xen vào cái mà tính toán cho cơn khủng hoảng kinh tế, những
phát kiến như là sự thay đổi chế độ chính sách ảnh hưởng đến cung tiền. Các biến
defgdp, debtgdp, fdgdp, và com tương ứng lần lượt là thâm hụt ngân sách thực trên
GDP, nợ chính phủ chưa được chi trả trên GDP, nợ tài chính nước ngoài của chính
phủ trên GDP, và giá cả hàng hóa. Chúng tôi giả định rằng nợ chính phủ trả cùng
mức lãi suất với tiền gửi tại Ngân hàng. Trong một đại diện môi trường rủi ro thay
thế tính thực tế hoặc là tài sản sinh lãi của tiền tệ. Ví dụ khi đại diện nợ công trên
GDP gia tăng cho thấy sự gia tăng của thuế trong tương lai hoặc gia tăng cung tiền
(lạm phát). Cùng một thời điểm, mối quan hệ giữa nợ chính phủ chưa được chi trả
với quy mô nền kinh tế càng cao thì rủi ro của môi trường cũng càng cao. Các cá
nhân nắm giữ các trái phiếu này để lấp đầy lỗ hổng giữa chi tiêu và thu nhập của
lao động trong tương lai, bao gồm chi phí thuế. Do đó chúng tôi giả định rằng các
hệ số hằng số k0 >0,k1>0. Hơn nữa một sự gia tăng trong nợ của chính phủ được
nắm giữ bởi nhà đầu tư nước ngoài được xem như là một nguyên nhân gây ra sự
phá giá của đồng nội tệ trong tương lai. Đặc biệt, khi một khoản lớn trái phiếu do
chính phủ phát hành được nắm giữ bởi các nhà đầu tư nước ngoài, khi đó luôn luôn
có rủi ro rằng những nhà đầu tư này sẽ phá giá những trái phiếu này. Hành động
này là kết quả của việc gia tăng cung tiền của quốc gia và đó là một sự phá giá tiền
tệ. Do đó, nhu cầu cho tiền tệ trong nước sẽ giảm nếu một phần lớn nợ của chính
phủ được tài trợ từ bên ngoài, nghĩa là k2>0. Cuối cùng, kể từ khi Canada là một
quốc gia định hướng hàng hóa (commodity oriented) , khi giá cả hàng hóa gia tăng
rủi ro có liên hệ với việc nắm giữ đồng Canada, tất cả đều sẽ giảm ngoại trừ các
hằng số, nghĩa là k3<0.
Chúng tôi cũng giả định rằng k* tổng cộng rủi ro liên hệ với việc nắm giữ đồng
ngoại tệ, như là đồng tiền Đôla Mỹ.
log(k∗) = k∗ debtgdp∗t + k∗fdgdp∗t (3)
Các biến debtgdp∗ và fdgdp∗ lần lượt là nợ chưa được chi trả của nước ngoài trên
GDP nước ngoài và nợ được tài trợ bởi các quốc gia nước ngoài trên GDP nước

ngoài (internationally foreign government financed debt per foreign GDP). Một sự
gia tăng của nợ nước ngoài được giả định có sự kết hợp với sự tiền tệ hóa nợ công
trong tương lai và ngoại tệ có giá trị thấp hơn (ví dụ như nhu cầu ngoại tệ thấp
hơn), do đó k*0 > 0. Tương tự với đồng nội tệ, một sự gia tăng trong khoản nợ
công được nắm giữ bởi nhà đầu tư hoặc chính phủ nước ngoài có thể xem như
nguyên nhân gây ra sự phá giá của đồng ngoại tệ trong tương lai, tức là k∗0 > 0.
Tương tự với Eq. (2), chúng ta giả định phương trình (3) được nắm giữ các vấn đề
đến các động lực ngắn hạn của hệ thống. Hơn nữa, giả định rằng các động lực ngắn
hạn của các biến rủi ro có liên hệ với việc nắm giữ ngoại tệ [log(k*)] bao gồm các
biến giả xen vào để tính toán các cuộc khủng hoảng kinh tế, thay đổi chính trị hoặc
thay đổi chế độ chính sách, những yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của ngoại tệ.
Chúng tôi cũng giả định rằng đồng USD đại diện cho ngoại tệ. Các biến g, defgdp,
debtgdp và fdgdp được cho, người tiêu dùng tối đa hóa phương trình (1) hướng đến
những ràng buộc về ngân sách như sau:

Trong đó τ_t là giá trị thực của sự chuyển nhượng 1 lần hoặc thuế khoán được
nhận hoặc chi trả bởi người tiêu dùng, qt là tỷ giá hối đoái thực, được định nghĩa là
Et p_t^*/pt, Et là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (giá trong nước của ngoại tệ), p_t^*
và pt lần lượt là mức giá trong nước và mức giá nước ngoài của hàng hóa nội địa
và hàng hóa nước ngoài. yt là vốn góp (thu nhập) thực hiện tại được nhận bởi các
cá nhân, m_(t-1)^* là số ngoại tệ thực tại thời điểm bắt đầu của thời kỳ, dt là nợ
công nội địa thực trong 1 thời kỳ được trả tỷ lệ R của lợi nhuận, d*t là trái phiếu
ngoại tệ thực 1 thời kỳ được phát hành trả lãi suất risk – free R*t. Giả định tiếp
theo là dt và d*t chỉ là hai tài sản tài chính có thể lưu trữ được.
Tối đa hóa sự ưu tiên đối với m, c, m*, c*, d và d*, và lệ thuộc vào sự giới hạn
ngân sách(4) cho đầu ra được cho và các biến fiscal, will yield:
Như chúng ta đã thấy trong phương trình 6, đối với rủi ro từ nước ngoài có n < 1
liên quan đến việc nắm giữ ngoại tệ sẽ đưa đến sự sụt giảm cầu ngoại tệ. Sử dụng
phương trình (5) và (6), và giả định sự tiêu thụ hàng hoá thực tế trong thị trường
nội địa (Ct) là là một hàm cố định (ω ) của thu nhập nội địa thực tế (yt), giả định ω

= 1, ta có:

Cần lưu ý rằng ảnh hưởng của k và k* là âm, tác động đến cả rủi ro nội địa và rủi
ro từ nước ngoài liên quan đến việc nắm giữ các đồng nội tệ và ngoại tệ làm sụt
giảm cầu của đồng nội tệ. Nguyên nhân của việc này, như được trình bày trong
phương trình (6), cầu của đồng nội tệ (m) có tương quan dương với cầu của đồng
ngoại tệ (m*). Do vậy, khi mà k* tăng trưởng, m* sẽ sụt giảm tương ứng với sự sụt
giảm của m.
Tại điểm cân bằng, chúng ta sẽ có log(mt) = log(mst), ms là biến cung tiền. Thay
thế log(ms) cho log (m) tại phương trình (7) và thay thế phương trình (2) và (3)
cho log(k) và log(k*) trong phương trình (7) và giải quyết cho kết quả log(qt) như
sau:

Phương trình (8) là mối quan hệ dài hạn của tỷ giá thực tế. Chúng tôi đã thêm các
yếu tố rủi ro được giả định là nhiễu trắng – hoàn toàn ngẫu nhiên (to be white
noise). Theo phương trình nay, cung tiền cao hơn và lãi suất cao hơn đưa đến tỷ giá
trao đổi thực thấp hơn trong dài hạn. Một cách giải thích khả thi là cung tiền cao
hơn hay lãi suất cao hơn sẽ gây ra giá cao hơn trong dài hạn thể hiện qua tỷ giá trao
đổi thực tế thấp hơn. Thu nhập thực tế cao hơn đưa đến tỷ giá trao đổi thực tế cao
hơn trong dài hạn. Thu nhập thực tế cao hơn đưa đến sự cầu tiền cao hơn và giá cả
thấp hơn và do đó là tỷ giá cao hơn (Dịch đến đây là điên luôn, đề nghị đọc bài gốc
để biết thêm chi tiết)
Chi tiêu chính phủ cao hơn đưa dến sự một sự cầu tiền thấp hơn, và do đó, nhu cầu
hàng hoá và dịch vụ cao hơn và do đó một mức giá cao hơn và tỷ giá trao đổi thực
tế thấp hơn. Điều này cũng đúng khi áp dụng cho trường hợp thâm hụt, nợ công
cao hơn dự tính và các nguồn tài trợ bên ngoài. Giá của hàng hoá tiện nghi cao hơn
đưa đến nhu cầu cao hơn đối với đồng nội tệ, và do đó, điều này đưa đến việc đồng
tiền Canada tăng giá (tỷ giá trao đổi thực tế thấp hơn). Lãi suất nước ngoài cao hơn
(a higher foreign interest rate) đưa đến cầu tiền thấp hơn và gây ra kết qua là nhu
cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ cao hơn. Mức cầu cuối cùng đưa đến một mức

giá cao hơn, và do đó, tỷ giá trao đổi thực tế thấp hơn. Các yếu tổ ảnh hưởng đến
rủi ro liên quan đến việc nắm giữ tiền tệ, Ví dụ, nợ và nợ nước ngoài tài trợ cho
việc cho vay nợ nước ngoài (debt and foreign debt financing of the foreign debt),
cũng đưa đến việc tỷ giá trao đổi thực tế thấp hơn. Điều này là nguyên nhân của
thực tế rằng các yếu tố đó làm sụt giảm cầu ngoại tệ ($US). Điều này nên được
nhấn mạnh rằng phương trình (8) trong dài hạn cũng có thể được áp dụng cho một
động lực ngắn hạn của một hệ thống bao gồm các biến tĩnh (stationary) đại diện
cho khủng hoảng cũng như sự thay đổi chính sách của một quốc gia và các yếu tố
ngoại sinh khác ảnh hưởng đến cả nội địa và các quốc gia khác.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy rằng mô hình phát triển trong bài nghiên cứu
này khác biệt với các mô hình trước đây, ví dụ, Mundell-Fleming, nhưng nó có thể
kết hợp chặt chẽ cả các biến tiền tệ và biến tài khoá, bao gồm cả sụ thâm hụt, nợ và
quản lý nợ trong dài hạn.
3. Dữ liệu và những kết quả dài hạn
3.1. Dữ liệu
Mô hình nghiên cứu sẽ được ước lượng dựa trên bộ dữ liệu hàng quý của Canada
từ Quý I/1972 đến Quý III/2010. Việc lựa chọn kỳ quan sát này là dựa theo khoảng
thời gian khi Canada đã hoàn toàn thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt và thực tế
thì lịch sử giá hàng hóa chỉ được ghi nhận từ 1972 . Canada được chọn nghiên cứu
bởi vì quốc gia này có độ mở tài chính cao nhất trong số các nước G7 (xem Bảng
1). Hơn vì, vì đối tác thương mại lớn của Canada là Mỹ nên tỷ giá thực giữa
Canada và Mỹ được lựa chọn. Ví dụ, tỷ lệ phần trăm trung bình của tổng xuất khấu
và nhập khẩu của Canada với đối tác Mỹ trên toàn bộ tổng xuất khẩu và nhập khẩu
của Canada trong giai đoạn 1986-2009 là 72.10%. Tỷ lệ này là 72.23% trong năm
1986 và tăng thành 77.48% vào năm 1999 và đã giảm xuống còn 63.01% vào năm
2009. Tổng các đầu tư trực tiếp và các đầu tư khác từ Mỹ cũng như danh mục đầu
tư của Mỹ ở Canada chiếm 57% GDP của Canada năm 2009.
Dữ liệu Canada được lấy từ cơ sở dữ liệu của Hệ thống quản lý thông tin kinh tế xã
hội Canada (CANSIM). Dữ liệu Mỹ được lấy từ cơ sở dữ liệu của Cục dữ trữ liên
bang St. Louis (FRED). Một số dữ liệu bị thiếu đối với cả hai nước được lấy từ

phiên bản trực tuyến Thống kê Tài chính quốc tế (IFS). Vào ngày 22/03/2002, các
đơn vị tiền tệ được điều chỉnh lịch sử nhằm tính đến việc Ngân hàng thương mại
hoàng gia Canada (CIBC) mua lại bộ phận kinh doanh bán lẻ của công ty Merrill
Lynch Canada. Dữ liệu M1 được sử dụng trong bài nghiên cứu là dữ liệu điều
chỉnh 22/03/2002.
Để kiểm tra tính dừng của các biến, tôi sử dụng kiểm định Dickey-Fuller tăng
cường và kiểm định Phillips-Perron phi tham số. Ngoài ra, để tính đến khả năng
gián đoạn trong hệ số chặn và hệ số góc, tôi cũng sử dụng các kiểm định được phát
triển bởi Lee & Strazicich (2003) (kiểm định này được điều chỉnh đối với 4 loại
phá vỡ cấu trúc), Perron (1997) và Zivot & Andrews (1992). Theo các kết quả
kiểm định, tất cả các biến có liên kết bậc 1 (không dừng). Các biến này dừng sai
phân bậc nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý là các thay đổi trong biến nợ/GDP đối với Mỹ
và Canada là dừng chỉ ở mức tin cậy 90% theo kết quả kiểm định của Zivot &
Andrews (1992). Để ngắn gọn, các kết quả này không được trình bày, nhưng vẫn
được sử dụng phân tích. Toàn bộ dữ liệu liên quan được điều chỉnh theo yếu tố
mùa. Các lãi suất Mỹ được điều chỉnh trên cơ sở 365 ngày. Các biến Canada và
Mỹ liên quan tính theo đơn vị là triệu $.
3.2. Phương pháp dài hạn và những kết quả
Vì tất cả các biến trong phương trình 8 đều có nghiệm đơn vị, do đó trước tiên
chúng tôi xác nhận có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa mức độ thay đổi thực và
các yếu tố của nó, theo như lý thuyết bằng mô hình
Bảng 2 báo cáo kết quả kiểm tra hồi quy trên mô hình. Trong mẫu thời kỳ, có một
số thay đổi trong chính sách và/hoặc những thay đổi ngoại sinh mà nó có thể ảnh
hưởng đến những động lực ngắn hạn của hệ thống. Bằng chứng bởi Kia (2006b),
các mô hình bất biến có thời gian thay đổi
3 Sau khi ấn định một tỷ giá thả nổi trong những năm 1950, Canada đã quay sang
chế độ tỷ giá cố định trong năm 1962. Sau đó đã quyết định trở lại tỷ giá thả nổi
vào tháng 6 năm 1970.
4 Baum et al. (1999) sử dụng cách tiếp cận khác nhau và một mẫu thời kỳ, nhận
thấy tỷ giá thực của Canada là không đứng im. Hơn nữa, McMillan (2009) và

Kilic(2009) cho thấy rằng tỷ giá thực của Canada không đứng im khi kiểm tra sự
tuyến tính nghiệm đơn vị và một loạt các mô hình phi tuyến tính, và có một sự
chuyển tiếp đối xứng dựa trên mô hình phi tuyến tính được sử dụng

Mẫu thời kỳ từ Quý 1-1972 đến quý 3-2010.lq là log của tỷ giá thực, ở đó q được
định nghĩa như Eq*/p, E là tỷ giá danh nghĩa (giá nội tệ của đồng đô la Mỹ), P* và
p là mức giá Mỹ và Canada (CPI), tương ứng lrm1 là log của M1 thực và I là
log[R /(1 + R )], trong đó R là tỷ lệ 3 tháng tại những điểm thập phân, ly là log
của GDP thực, lrg là log của chi tiêu thực chính phủ vào hàng hóa và dịch vụ,
defgdp và debtgdp là thâm hụt ngân sách và nợ/GDP, tương ứng fdgdp là số dư nợ
nước ngoài/GDP, và lcom là hàm log của giá cả hàng hóa. i* = log[R */(1 + R
*)] trong đó R* là tỷ lệ 3 tháng tại các điểm thập phân. debtgdp* là số dư nợ số dư
nợ Mỹ/ GDP, fdgdp* là số dư nợ/GDP, fdgdp* là dư nợ /GDP, fdgdp* là số dư nợ
nước ngoài Mỹ/GDP và Con là điều kiện cố định.
a a= chập nhận không có giá trị tại r = 1
b Bằng cách sử dụng sự điều chỉnh Barlett thống kê kiểm tra Trace đúng với lỗi
mẫu nhỏ, xem Johansen (2000, 2002)
C Bởi vì bao gồm nhiều biến giả trong mô hình động ngắn hạn, giới hạn phân phối
của thống kê thứ hạng nên được mô phỏng. Vì vậy, CATS 2 trong phần mềm máy
tính RATS được sử dụng. Số lần lặp lại là 2500 với một chiều dài của bước đi ngẫu
nhiên là 400
d xấp xỉ p-value sử dụng thống kê kiểm tra sự hiệu chỉnh. LM(1) và LM(2) là một
và hai lệnh kiểm tra Lagrangian Multiplier tương tự nhau.

Fig 1. Kiểm tra tỷ lệ đệ quy
*X(t) = sự mất cân bằng thực tế như là một hàm của tất cả các động lực ngắn hạn
và những biến giả.
R1(t) = sự mất cân bằng “sạch” đưa ra những hiệu chỉnh cho những hiệu ứng ngắn
hạn
Những hệ số cần có một độ sâu sắc hơn về những thông số đặc trưng cho việc xử

lý dữ liệu. Đặc biệt sự tồn tại bất biến có thể phụ thuộc vào những hệ số thô hoặc
những thông số cơ bản được đánh giá. Kia (2006b) cũng cho thấy rằng mối quan
hệ dài hạn ước tính có thể bị sai lệch khi mà có sự thay đổi trong chế độ chính sách
phù hợp và/hoặc những cú sốc ngoài dự tính không được đưa vào mô hình động
ngắn hạn. Không có những nghiên cứu về tỷ giá thực cho đến nay, với, với tất cả
hiểu biết của tôi, đã kết hợp chặt chẽ những yếu tố quan trọng này.
Nhằm mục đích giải thích cho những thay đổi chính sách liên tục và những yếu tố
ngoại sinh khác mà nó có thể ảnh hưởng đến hệ thống động lực ngắn hạn, sau đây
những biến giả đã được xây dựng. Inftartt ( = 1 cho năm 1991 , quý đầu tiên và sau
đó, khác không )5 , Freet ( = 1 từ năm 1991, quý I và khác không)6, Nafta ( = 1 từ
năm 1994 , quý I và không khác )7 , và cuộc khủng hoảng ( = 1 kể từ năm 2007,
quý 4, sau đó và khác không)8. Nhiều hơn 3 biến giả đầu tiên xem Kia (2006b)9.
Thực sự, các biến giả này, ngoại trừ biến giả Free, đều có ý nghĩa thống kê quan
trọng trong các động lực ngắn hạn của tỷ giá hối đoái thực .
Phương trình 8 được ước tính bằng cách cho phép đánh giá những đông lực ngắn
hạn của phương trình mà bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi liên tục trong chính sách
được thể hiện bằng biến giả trên. Trong việc xác định chiều dài độ trễ, nên kiểm
tra xem chiều dài của độ trễ là đủ chưa để có thể nhận những phần dư nhiễu ngẫu
nhiên. Điều này được giới thiệu bởi Hansen và Juselius (1995, p. 26), đặt p = r
(mô hình không giới hạn) trong phương trình (8) và việc kiểm tra sự tự hồi quy và
heteroskedasticity. Trong trường hợp này những phần dư là ước tính OLS từ mô
hình (8). Kiểm tra LM sẽ được sử dụng để xác nhận việc lựa chọn chiều dài độ trễ.
Lệnh hồi quy (r) sẽ được xem xét bằng việc sử dụng kiểm tra Trace nó được phát
triển bởi Johansen và Juselius (1991). Vì thế chúng tôi cho phép hệ thống động
ngắn hạn chịu ảnh hưởng bởi những biến giả nhằm giải thích cho sự thay đổi liên
tục trong chính sách và khủng hoảng tài chính hiện tại chúng tôi cần phải mô
phỏng những giá trị quan trọng cũng như
5 Biến giả này giải thích cho việc giới thiệu về tỷ lệ lạm phát mục tiêu bởi phòng
tài chính ngân hàng Canada trong tháng 1/1991. Rõ ràng, việc giảm lạm phát sự
không chắc chắn việc gia tăng dịch vụ tiền

6 Biến giả này giải thích cho việc thực hiện hiệp định tự do thương mại giữa
Canada và Mỹ trong tháng 1/1991
7 . Biến giả này giải thích cho việc thực hiện tư do giao dịch bắc Mỹ (NAFTA)
giữa Canada, Mỹ, Mexico trong 1/1994. Cả giao dịch tự do và hiệp định NAFTA
có thể cải tiến những dịch vụ tiền bằng việc cho phép người nắm giữ dollar Canada
mua hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bên ngoài Canada tại mức giá giống nhau,
bao gồm chi phí vận chuyển, đã được tính phí vào nơi sản xuất
8 Biến giả này giải thích khủng hoảng tài chính hiện tại mà nó đã bắt đầu vào quý
trước của năm 2007.
9 Lưu ý rằng phương trình (8) là mối quan hệ hợp lý nếu như PPP giữa Canada và
Mỹ không có giá trị. Tôi đã kiểm tra PPP bằng việc nghiên cứu mối quan hệ hồi
quy dài hạn giữa Et, Pt* và pt hiện tại. Đặc biệt, tôi đã kiểm tra về tình trạng của
một Vector hồi quy trong log(pt) = Log(pt*) + log(Et) môi quan hệ trong đó cho
phép hệ thống động lực ngắn hạn điều chỉnh bằng những thay đổi liên tục trong
chính sách và những cú sốc ngoại sinh khác mà có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ
qua biến động ngắn hạn. Tôi đã thất bại trong việc tìm kiếm mọi mối quan hệ dài
hạn, việc đưa ra gợi ý PPP không có giá trị trong dài hạn giữa Canada và Mỹ. Kết
quả, phương trình (8) nên giữ. Vì lợi ích ngắn ngủi, do đó kết quả kiểm tra không
được báo cáo, nhưng luôn có sẵn theo yêu cầu.

sự kết hợp P-values của chúng cho thứ hạng kiểm tra. CATS trong gói phần mềm
máy tính RATS (phiên bản 2, xem Dennis, 2006) đã từng được sử dụng để mô
phỏng những giá trị quan trọng. Số lần lặp lại là 2500 và độ dài của bước ngẫu
nhiên là 400. Những nhân tố điều chỉnh Bartlett của hạng thống kê nguồn gốc từ
Johansen (2000. 2002) đã từng được sử dụng để điều chỉnh cho một sai lệch tiềm
ẩn có thể được tạo ra bởi lỗi mẫu nhỏ. Độ dài của độ trễ 4 là một sự cần thiết để
chắc chắn rằng sai số là ngẫu nhiên.
Chỉ không đồng dư thức là không bình thường. Tuy nhiên, như đã đề cập bởi
Johansen (1995), một xuất phát điểm từ sự bình thường không quan trọng trong
những kiểm tra sự hồi quy. Theo kết quả bảng 2, kiểm tra Trace từ chối r = 0 tại

mức 95% trong khi đó chúng tôi không từ chối r ≤1 , ngụ ý rằng r = 1, Fig 1-3 đồ
thị về những giá trị được tính toán của những thống kê thử nghiệm tính đệ quy cho
mối quan hệ dài hạn. Lưu ý rằng tất cả những kiểm tra tính đệ quy được bình
thường hóa bằng 5% giá trị quan trọng. Vì vậy, những thống kê được tính toán
vượt quá sự đồng nhất, hàm ý về việc từ bỏ những giả thuyết không giá trị và đề
nghị những vector hồi quy không ổn định. Đường cong X(t) trên đồ thị thể hiện sự
mất cân bằng vai trò là một hàm số của những động lực ngắn hạn bao gồm những
biến giả, trong khi đó đường cong R1(t) sự mất cân bằng “sạch” nhằm hiệu chỉnh
theo những ảnh hưởng ngắn hạn. Chúng tôi đưa ra 25 năm đầu tiên cho việc đánh
giá ban đầu. Như những con số đã thể hiện, tất cả những phương trình xuất hiện sự
ổn định trong dài hạn và kiểm tra LR cũng có sự ổn định khi những mô hình được
điều chỉnhtheo những ảnh hưởng ngắn hạn.Việc thiết lập mối quan hệ hồi quy của
chúng tổn định, chúng tôi sẽ phân tích mối quan hệ này.

*X(t) = mất cân bằng thực tế vai trò là một hàm của những động lực ngắn hạn và
những biến giả
R(1) mất cân bằng “sạch” điều chỉnh cho ảnh hưởng của những động lực ngắn
hạn
Fig 3. Thử nghiệm lý thuyết cho thấy rằng bản thử nghiệm của từng kiểu khỏa thời
gian
Dưới bảng 2 đã báo cáo việc ước tính tỷ giá hối đoái thực dài hạn, những hê số
được đánh giá quyết định tỷ giá thực, ngoại trừ thân hụt/GDP, nợ nước ngoài/GDP
và nợ Mỹ/GDP, trong không gian hồi quy là mô hình lý thuyết , Phương trình (8),
chỉ dẫn.
(i) Chính sách tiền tệ: theo mô hình lý thuyết, phương trình (8), chúng tôi mong
đợi cả mức cung tiền và lãi suất không có ảnh hưởng lên tỷ giá thực trong dài hạn.
Dựa trên kết quả đánh giá, cả những biến có tín hiệu điều chỉnh nhưng là thống kê
không đáng kể, nghĩa là chúng có tác động giống nhau lên tỷ giá danh nghĩa và tỷ
giá thực vẫn giữ nguyên. Hệ số ước tính tiêu cực của lãi suất xác nhận Macdonald
(1998) tìm thấy tỷ giá thực Mỹ

(ii) Chính sách tài khóa: Hệ số ước tính dài hạn của log chi tiêu chính phủ thì
tiêu cực, theo như những dự đoán của mô hình chúng tôi và thống kê này có ý
nghĩa. Kết quả này mâu thuẫn với những gì tìm thấy của Chowdhury (2012) đối
với tỷ giá thực tại Úc. Hệ số ước tính dài hạn về thâm hụt ngân sách/GDP trong dài
hạn tích cực và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này mâu thuẫn với mô hình lý thuyết
trong khi MacDonald’s(1998) thừa nhận tìm thấy về tỷ giá tại Mỹ và Nhật Bản.
Một sự giải thích về mức thâm hụt ngân sách/GDP cao và dẫn đến sự mất giá đồng
nội tệ. Hệ số ước tính của nợ chính phủ/GDP có ý nghĩa thống kê và có tín hiệu
tiêu cực như những dự đoán của mô hình. Hệ số của nợ chính phủ bên ngoài/GDP
không có ý nghĩa thống kê trong dài hạn và có dấu hiệu sai. Tuy nhiên hệ số tích
cực củng cố phát hiện của Chowdhury(2012) đối với tỷ giá tại Úc.
(iii) Giá cả hàng hóa: Hệ số ước tính của giá cả hàng hóa thì không có giá trị
(Xác nhận mô hình lý thuyết) và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này củng cố phát
hiện của Macdonald ‘s (1998) về tỷ giả, mặc dù ông ấy chỉ bao hàm giá dầu mỏ
thực, không có một chỉ số về giá cả hàng hóa.
(iv) Nhân tố bên ngoài: Cả hệ số ước tính của lãi suất tại Mỹ và nợ nước ngoài
của Mỹ/GDP có tín hiệu điều chỉnh và có ý nghĩa thống kê, nhưng hệ số ước tính
của Mỹ nổi bật là nợ/GDP, có ý nghĩa thống kê, có dấu hiệu sai. Đặc biệt, sự tác
động tác động tính cực trong dài hạn của nó lên tỷ giá thực tại Canada. Một sự giải
thích có thể đưa ra đó là nợ tăng tại Mỹ, nó sẽ làm gia tăng cung tiền, vì vậy, giá
cao hơn trong tương lai. Điều này có thể dẫn đến tại mức giá tại Mỹ cao hơn hôm
nay và mức cao hơn của tỷ giá thực.
Chú giải:
(1) Nếu chúng ta nới lỏng giả định rằng lao động được cung ứng không co dãn (thu
nhập là ngoại sinh) thì chúng ta cần phải them các điều kiện khác. Ví dụ như –(1-
η3)-1(Nt)1-η3 trong hàm thỏa dụng , trong đó N là số giờ lao động và η3 ≥ 0 cho
biết sự co dãn cung lao động Frisch. Trong trường hợp như vậy, một có thể dễ
dàng chứng mình được rằng không có bất kì kết quả nào sẽ khác nhau.
4 . Mô hình động ngắn hạn
Như đã thiết lập trong phần trước về mối quan hệ dài hạn mô tả tỷ giá thực và các

nhân tố tồn tại của nó, chúng ta cần phải xác định mô hình hiệu chỉnh sai số ECMs
1
ngụ ý bởi vector đồng liên kết. Theo Granger (1986) , chúng ta nên lưu ý rằng nếu
sai số cân bằng nhỏ có thể bỏ qua, trong khi phản ứng đáng kể đối với những sai số
cân bằng lớn, phương trình hiệu chỉnh sai số là phi tuyến tính. Tất cả các loại có
thể có của kỹ thuật phi tuyến tính, là, bình phương, lập phương và mũ bốn hỗ trợ
các sai số cân bằng (với các hệ số có ý nghĩa thống kê) cũng như các sản phẩm của
những sai số cân bằng đáng kể được thu nhận.
Để tránh những kết quả thiên lệch, chúng tôi cho phép cho một độ trễ 8 kỳ. Hơn
nữa, vì có quá nhiều hệ số có thể dẫn đến ước lượng không hiệu quả, chúng tôi
đảm bảo ước lượng chi tiết bằng cách chọn ECMs trên cơ sở cách tiếp cận từ
chung đến cụ thể của Hendry. Giả sử chi tiêu chính phủ và nợ nước ngoài trên
GDP (trong ngắn hạn) cũng như các biến nước ngoài là ngoại sinh, chúng ta sẽ có
bảy biến nội sinh trong hệ thống. Do đó, chúng ta có bảy mô hình hiệu chỉnh sai
số. Để ngắn gọn, tôi chỉ báo cáo chi tiết ECM đối với sự tăng trưởng của tỷ giá
thực. Những kết quả khác sẽ được cung cấp theo yêu cầu. Tuy nhiên, tất cả kết qủa
ước tính của ECMS sẽ được sử dụng để phân tích các cú sốc bất ngờ trong các biến
nội sinh sử dụng các hàm phản ứng đẩy. Bảng 3 báo cáo kết quả chi tiết từ ước
lượng ECM .
1
ECMs kết hợp các sự tác động qua lại ngắn hạn và dài hạn giữa các biến số.
Bảng 3
Mô hình hiệu chỉnh sai số cho sự tăng trưởng của tỷ giá hối đoái thực.
Biến phụ thuộc =∆ Lq.
2
Phương sai Hệ số Độ lệch chuẩn Kiểm tra độ ổn
định Li Hansen
(1992)
(p-value)
−0.15

−0.0
4
−0.27
−0.62
−0.1
0
−0.1
0
−0.93
−1.44
−0.0
2
0.03
0.02
0.07
0.02
0.09
0.19
0.04
0.04
0.28
0.31
0.01
0.01
0.01
0.94
0.3
7
0.5
6

0.2
6
0.3
7
0.7
5
0.2
6
0.0
3
0.3
8
0.3
4
1
Kiểm tra độ ổn định Li Hansen (1992) (p-value) trên phương sai của ECM = 0.00
Phối hợp (Hệ số và sai số phương sai) Kiểm tra độ ổn định Li Hansen (1992)
(p-value) Hansen = 0.04
2
Thời kỳ mẫu là 1972Q1 - 2010Q3. ∆ là chênh lệch giữa hai kỳ liên tiếp, trung bình biến phụ thuộc = -0,0001. EC
là kỳ hiệu chỉnh sai số từ vector đồng liên kết. Định nghĩa của các biến khác xem chú thích Bảng 2. Phương pháp
ước lượng là OLS. R
2
= 0.34, Độ lệch chuẩn = 0,03, DW = 2.03, Godfrey (6) = 0,41 (mức ý nghĩa = 0,97) , White =
74.93 (mức ý nghĩa = 0,55), ARCH (5) = 5.59 (mức ý nghĩa = 0,34), RESET (3) = 1.29 (mức ý nghĩa = 0,28) và
Normality ( X
2
= 2 ) = 0,29 (mức ý nghĩa = 0,86).
Để giảm thiểu những biến động bất thường của thời kỳ mất cân bằng trong vòng
đầu tiên của ước lượng, tôi bao gồm các biến giả được quan sát trong 2008 Q4.

Biến giả này có một giá trị duy nhất trong quý IV năm 2008, và khác không. Hệ số
ước tính của biến giả này không được báo cáo, nhưng có sẵn khi yêu cầu.
Trong bảng này, ∆ biểu thị chênh lệch giữa hai kỳ liên tiếp và EC ,
2
, và DW,
tương ứng, biểu thị điều chỉnh sai số từ phương trình dài hạn cho tỷ giá thực, hệ số
tương quan bình phương điều chỉnh, độ lệch chuẩn và thống kê Durbin-Watson.
Kiểm định White (1980) kiểm định chung cho phương sai sai số thay đổi, kiểm
định ARCH (1982) là kiểm định 5 yếu tố Engle (1982), kiểm định Godfrey (1982)
là kiểm định 5 yếu tố Godfrey (1978), REST (1969) là kiểm tra sai số Ramsey
(1969), Normality là thống kê tiêu chuẩn Bera (1987), Li là kiểm định sự ổn định
của Hansen (1992), với giả thuyết H0 rằng hệ số thứ i dự kiến hoặc phương sai của
sai số là không đổi và Lc là kiểm định sự ổn định Hansen (1992) với giả thuyết H0
rằng các hệ số ước tính cũng như sai số phương sai cũng không đổi.
Theo báo cáo kết quả đo lường trong Bảng 3, không có kiểm định nào có ý nghĩa.
Dựa trên kết quả kiểm định sự ổn định của Hansen, tất cả các hệ số, riêng lẻ hoặc
phối hợp là ổn định. Tuy nhiên, ước tính phương sai là không ổn định. Phương
pháp ước lượng là OLS. Mức độ của biến giả mô tả sự thay đổi chế độ chính sách
và thay đổi ngoại sinh cũng như một xu hướng thời gian tuyến tính được đưa vào
mô hình EC. Đã được đề cập trong phần trước, các biến giả cũng xuất hiện trong
mô hình động ngắn hạn của hệ thống phân tích hồi quy đồng liên kết của chúng tôi.
Như chúng ta có thể thấy biến tài khoá trong nước không có bất kỳ tác động nào
trong ngắn hạn đối với sự tăng trưởng của tỷ giá hối đoái thực. Theo kết quả ước
lượng của chúng tôi được báo cáo trong Bảng 3, các hệ số ước lượng của mô hình
hiệu chỉnh sai số là âm và có ý nghĩa thống kê. Điều thú vị là, tác động của sai số
cân bằng là phi tuyến, điều này ngụ ý rằng các đại diện có thể bỏ qua độ lệch nhỏ
từ sự cân bằng trong trao đổi tiền tệ và / hoặc thị trường hàng hóa, nhưng phản ứng
mạnh đối với một sự mất cân bằng lớn bởi sai lệch từ trạng thái cân bằng vì hệ số
ước lượng của bình phương EC là dương. Tác động của lãi suất đã được dự kiến
bởi mô hình này là âm, nhưng ngược lại hiệu quả lâu dài của nó có ý nghĩa thống

kê. Cụ thể, sự thay đổi trong kết quả lãi suất là việc giảm đi trong sự tăng trưởng
của tỷ giá thực.
Các hệ số ước lượng của sự thay đổi trong các khoản nợ của Mỹ trên GDP là âm
như dự kiến về mặt lý thuyết, ngụ ý rằng, trong ngắn hạn, sự gia tăng trong các
khoản nợ của Mỹ trên GDP, nếu tất cả yếu tố khác là cân bằng, sẽ dẫn đến dòng
vốn vào và sự mất giá của tỷ giá hối đoái (sự đánh giá cao đồng đô la Canada ), do
đó làm giảm tỷ giá thực.
5. Phản ứng của tỷ giá hối đoái thực đối với các cú sốc
Phân tích tác động của những cú sốc của các yếu tố trong nước ảnh hưởng tới tỷ
giá thực tế , tôi sử dụng các hệ số hồi quy của toàn bộ mô hình ECMS bằng cách
xem xét những phản ứng liên quan. Để cho mỗi biến chịu cú sốc một cách độc lập
tôi sử dụng nhân tố Choleski để đơn giản hóa hệ mô hình để đưa ma trận hiệp
phương sai về ma trận đường chéo. Do đó Kết quả có khả năng nhạy cảm với việc
sắp xếp thứ tự các biến (hoặc sự chuẩn hóa) của các biến. Như mong đợi, một phần
của một cú sốc trong gia tăng chi tiêu chính phủ đồng thời cũng tương quan với
một cú sốc trong thâm hụt ngân sách, nợ chưa trả và vay nợ cũng như cung tiền mà
bởi chính nó tương quan với một cú sốc lãi suất trong nước, giá hàng hóa , trong
GDP và trong tỷ giá hối đoái thực. Do đó , chúng ta hãy sắp xếp thứ tự cử các biến
như sau: lrg , defgdp , debtgdp , fdgdp , lrm1 , tôi , lcom , ly và lq.
Bằng cách sắp xếp tỷ giá hối đoái thực tại cuối cùng, một hạn chế là các biến số
khác không đáp ứng tác động đồng thời đến cú sốc tỷ giá thực tế. Sự sắp xếp này là
không quan trọng trong phân tích của chúng ta , với những kiến thức tốt nhất của
tác giả, không có lý thuyết cụ thể hoặc các mâu thuẫn giữa các bằng chứng thực
nghiệm với logic của thức tự các biến được đề xuất .
Mô hình VAR sử dụng các sai số với bốn độ trễ ( độ trể của các phương trình cùng
hồi quy , xem bảng 2) Hàm phản ứng phản ánh các cấp độ phản ứng. Lãi suất của
Mỹ , khoản nợ của Mỹ trên GDP và nợ nước ngoài của Mỹ trên GDP đưa vào như
là biến ngoại sinh . Xác định các biến khác bao gồm các biến giả , dùng để đo
lường thay đổi chế độ chính sách hoặc những cú sốc ngoại sinh khác .
Theo Lütkepohl và Reimers (1992) và giả định một sự tác động lên một biến là tạm

thời nếu kết quả biến thay đổi qua trở theo giá trị cân bằng trước đó sau khi một số
giai đoạn . Nếu nó đưa đến một giá trị cân bằng khác , các hiệu ứng được gọi là
vĩnh viễn. hình 4 cho thấy những phản ứng của tỷ giá hối đoái thực đối với một cú
sốc trong lg , defgdp , debtgdp , fdgdp , lrm1 , i , ly , lcom và lq . Từ đồ thị, chằng
những các hệ số của mô hình VAR mà các phản ứng của các biến trên đối với
những cú sốc được biết một cách chắc chắn , mô phỏng Monte Carlo được sử dụng
với Số lượng Monte Carlo rút là 1000. Để đơn giản hóa , chúng tôi chỉ tập trung
vào các phản ứng của lq đến một cú sốc trên các biến số khác . Như chúng ta có
thể thấy trong hình tất cả các câu trả lời đều được thể hiện ở trên đồ thị.
Có bốn điểm đáng chú ý của các phản ứng. Đầu tiên , tất cả các phản ứng , ngoại
trừ cung tiền và thu nhập thực tế , là vĩnh viễn. Đặc biệt, theo biểu đồ E , một cú
sốc trong cung tiền thật ( bằng 0,02 đơn vị ) gây ra một sự gia tăng tức thời
( 0,0046 đơn vị ) trong tỷ giá hối đoái thực tế và tiếp tục 0,0052 trong quý thứ 10
trước khi giảm về độ lớn cho đến khi đặt đến 0,0036 đơn vị vào quý 24 , do đó , sự
tác động là tạm thời . Hơn nữa, một cú sốc tác động đến GDP thực tế gây ra một
(biểu đồ G ) sự giảm tạm thời trong tỷ giá hối đoái thực ( 0.003 đơn vị ) nhưng sự
suy giảm làm giảm độ lớn đến 0,0005 trong 24 quý . Thứ hai , một cú sốc chính
sách tiền tệ , bằng cách thay đổi lãi suất , kết quả là một sự tăng giá của đồng đô la
Canada thực sự vĩnh viễn (biểu đồ F) . Thứ ba , đối với các biến tài chính , một
trong những cú sốc đối với chi tiêu chính phủ thực và nợ tài trợ từ bên ngoài làm
giảm vĩnh viễn tỷ giá thực , nhưng những cú sốc tương tự trong thâm hụt ngân sách
và nợ trên GDP sẽ tăng vĩnh viễn tỷ giá thực tế ( biểu đồ A- D ) . Cuối cùng, một
cú sốc giá hàng hóa kết quả làm tăng vĩnh viễn của đồng đô la Canada thực , tức là
giảm vĩnh viễn trong tỷ giá thực (biểu đồ H ) .
Để đánh giá liệu tài chính , tiền tệ và các cú sốc đã đóng nhiều vai trò trong việc đo
lường các biến động trong tỷ giá hối đoái thực , chúng tôi phân tích sự phân tách
cho những kỳ hạn thời gian khác nhau ( xem bảng 4) . Mỗi hàng cho thấy các phần
nhỏ của t – step trước dự báo khoảng biến thiên cho tỷ giá hối đoái thực do những
cú sốc (các biến ở cột) gây ra . Theo kết quả này, cú sốc lãi suất trong nước và tài
khoản chi tiêu thực của chính phủ cho một tỷ lệ không đáng kể của việc dự báo

khoảng biến thiên tỷ giá hối đoái thực ở tất cả các kỳ hạn . Thâm hụt ngân sách
trên GDP , nợ trên GDP , nợ nước ngoài trên GDP và chỉ số giá hàng hóa chiếm
một tỷ lệ ngày càng tăng của việc dự báo khoảng biến thiên tỷ giá hối đoái thực tế
khi gia tăng kỳ hạn. Tuy nhiên , những đóng góp mạnh mẽ hơn để dự báo biến
động tỷ giá thực là nợ trên GDP . Ví dụ , sau một năm chấn động gây ra 9,50 %
biến động tỷ giá hối đoái thực và nó tăng lên đến 20,11 % sau 24 quý . Cuối cùng,
cú sốc cung tiền thực và cú sốc GDP thực gây ra một tỷ lệ phần trăm giảm của tỷ
giá hối đoái thực khi thời gian tăng.
6. Kết luận
Để chúng tôi có thể sử dụng tỷ giá hối đoái như là phương pháp đo lường tính cạnh
tranh của “chi phí giá” chúng tôi cần biết các nhân tố chính. Trong mô hình này
Chúng tôi phát triển một mô hình tiền tệ của tỷ giá hối đoái và chỉ ra rằng các nhân
tố dài hạn đó của tỷ giá hối đoái là một chức năng của cung tiền thực, lãi suất trong
nước và nước ngoài, GDP thực, nợ trong nước và bên ngoài trên GDP, và giá cả
hàng hóa. Mô hình của chúng tôi kiểm tra số liệu ở Canada trong giai đoạn 1972
đến 2010. Canada là nước có độ mở cửa lớn nhất trong bảy nước G7, vì thế cung
cấp một nền tảng tốt cho việc kiểm định mô hình.
Thật vậy, chúng tôi đã tìm thấy mô hình trong dài hạn, có một mối quan hệ đồng
liên kết trong không gian. Chúng tôi tìm thấy các hệ số ước tính dài hạn trong dài
hạn của tất cả các biến, ngoại trừ khoản thâm hụt trên GDP, nợ nước ngoài trên
GDP, nợ nước Mỹ trên GDP, Trong dài hạn tỷ giá hối đoái có dấu đúng theo dấu
của Eq dài hạn (8). Hơn nữa, những hệ số này đều có ý nghĩa thống kê quan trọng.,
ngoại trừ lãi suất trong nước, nợ nước ngoài trên GDP, và lãi suất Mỹ . Tuy nhiên
Chúng tôi còn thấy rằng trong thời kỳ ngắn hạn, không một yếu tố tài chính nội địa
nào có ý nghĩa thống kê tác động đến sự phát triển của tỷ giá hối đoái.
Các biến tiền tệ như sự thay đổi lãi suất và tốc độ tăng trưởng của cung tiền có sự
tác động ngược chiều lên sự phát triển của tỷ giá hối đoái theo đúng như lý thuyết
đã được trình bày. Quan trọng, các đại diện bỏ qua độ lệch nhỏ của sự cân bằng
của thị trường hối đoái trong khi lại phản ứng mạnh mẽ đối với các độ chênh lệch

lớn.
Thêm vào đó, sự thúc đẩy của tỷ giá hối đoái lên tất cả các cú sốc thì lâu dài ngoại
trừ cung tiền và thu nhập thực. Tỷ giá hối đoái thực đánh giá cao một cú sốc đến
lãi suất, ngân sách, nợ trên GDP, giá cả hàng hóa trong khi đánh giá thấp chi tiêu
chính phủ thực, nợ nước ngoài trên GDP. Các cú sốc về ngân sách, nợ và nợ nước
ngoài trên GDP, chỉ số giá hàng hóa tính cho phần trăm gia tăng của tỷ giá hối đoái
dự báo sai lệch trung bình khi thời gian càng dài. Tuy nhiên yếu tố đóng góp mạnh
mẽ cho dự báo sai lệch trung bình là chỉ số giá hàng hóa.

×