Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

nghiên cứu tỷ lệ và một số yếu tố ảnh hưởng đến vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại huyện ba vì từ tháng 4-2010 đến tháng 9-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.91 KB, 89 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới: Vô sinh là tình trạng mà các cặp
vợ chồng mong muốn có thai, sinh hoạt tình dục đều đặn, không sử dụng bất kỳ
một biện pháp tránh thai nào nhưng không có thai trong vòng 12 tháng trước khi
nghiên cứu. Đối với những phụ nữ lớn tuổi (trên 35 tuổi) thì thời gian này chỉ
còn tính là 6 tháng [11]. Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày càng nhiều các
cặp vợ chồng bị vô sinh, tỷ lệ này tại Việt Nam theo điều tra dân số năm 1982
thì tỷ lệ vô sinh là 13% trong quần thể dân số bình thường [11].
Cũng theo báo cáo của Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình năm 1998
thì có khoảng 13-13,4% các cặp vợ chồng vô sinh ở độ tuổi sinh đẻ. Tính đến
năm 2009 dân số Việt Nam khoảng 85,7 triệu người trong đó có 43.5 triệu
người phụ nữ [21]. Theo thống kê số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ chiếm
khoảng 27%. Với tính toán sơ bộ như vậy thì có hàng triệu cặp vợ chồng cần
phải điều trị vô sinh. Chỉ riêng phòng khám hiếm muộn của Bệnh viện Phụ Sản
Từ Dũ hàng năm đó cú khoảng 20.000 cặp vợ chồng đến khám [5][13]. Còn ở
Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản Bệnh viện Phụ Sản Trung ương năm 2009 có khoảng
1400 lượt chọc noãn, 3600 lượt làm IUI và số ca phẫu thuật vô sinh tại Bệnh
viện là 1719 [2].
Theo số liệu của tổng điều tra Quốc gia về Phát triển gia đình của Hoa
Kỳ cho thấy tỷ lệ Vô sinh ở phụ nữ chưa làm phẫu thuật vô sinh là 13,3% năm
1965, 13,9% năm 1982 và 13,7% năm 1988. Năm 1990, khoảng 1/3 phụ nữ Hoa
Kỳ thông báo là 12 tháng liên tục trong cuộc đời của họ có quan hệ tình dục
không sử dụng biện pháp tránh thai mà không có thai.Ở Pháp khoảng 18% số
cặp vợ chồng ở tuổi sinh đẻ nói rằng họ khó khăn để có thai [35]. Tại hội thảo
nam học (1995) tác giả Anek Aribarg đã công bố tỷ lệ vô sinh ở Thái Lan chiếm
12% các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ[26].
2
Trong những năm gần đây do sự phát triển và hội nhập, mở rộng giao lưu
hợp tác, đào tạo với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền y học
phát triển như Pháp, Mỹ. Vì vậy chẩn đoán, điều trị vô sinh càng có nhiều cơ hội


để cỏc Bác sỹ Viờt Nam trao đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ thuật cũng như trang
thiết bị tiên tiến của thế giới. Tại Việt Nam đã có nhiều Trung tâm hỗ trợ sinh
sản được thành lập, cung cấp các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị tiên tiến như:
IUI, IVF.
Trước tình hình thực tiễn số cặp vợ chồng mắc vô sinh ngày càng nhiều và
những nhu cầu chính đáng của các cặp vợ chồng cần điều trị vô sinh và những
tốn kém của điều trị vô sinh bên cạnh đú cỏc nghiên cứu về tỷ lệ mắc vô sinh tại
cộng đồng là rất ít chỉ có ít một số công trình thống kê tỷ lệ vô sinh tại bệnh
viện. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình trong nghiên cứu này về tình
hình vô sinh tại địa bàn huyện Ba Vì TP Hà Nội để phần nào cung cấp các thông
tin về vô sinh trên địa bàn nhằm giảm tỷ lệ mắc vô sinh của các cặp vợ chồng
trên địa bàn huyện nói riêng và cung cấp tài liệu tham khảo cho các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Như đã biết Ba Vì là vùng khó khăn của Hà Tây
cũ vừa được sát nhập với Thủ đô, là nơi đang có tốc độ phát triển du lịch nhanh
của Thành phố và đồng thời với đó là môi trường sống, các quan hệ không lành
mạnh du nhập, cộng với lối sống cũ của người nông dân :Tập quán sinh hoạt, lối
sống còn lạc hậu, sinh đẻ còn nhiều đặc biệt là số chị em còn tham gia nạo phá
thai do không kế hoạch được ít nhiều có ảnh hưởng đến việc sinh đẻ và có thai
ngoài ý muốn đồng thời với đó là tình trạng vô sinh cũng có thể tăng theo. Chính
vì vậy tôi thực hiện đề tài : “Nghiờn cứu tỷ lệ và một số yếu tố ảnh hưởng đến
vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại huyện Ba Vì từ tháng
4/2010 đến tháng 9/2010” với các mục tiêu sau:
1 - Xác định tỷ lệ và phân bố thực trạng vô sinh của các cặp vợ chồng trong
3
độ tuổi sinh đẻ ở huyện Ba Vì từ tháng 4/2010 đến tháng 9/2010.
2 - Mô tả một số yếu tố ảnh hưởng tới vô sinh ở huyện Ba Vì- TP Hà Nội .
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới: Vô sinh là tình trạng mà các cặp

vợ chồng mong muốn có thai, sinh hoạt tình dục đều đặn, không sử dụng bất kỳ
một biện pháp tránh thai nào nhưng không có thai trong vòng 12 tháng trước khi
nghiên cứu.
Vô sinh nguyờn phỏt (hay còn gọi là vô sinh I): Là vô sinh đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn vô sinh như đã định nghĩa ở trên nhưng thêm vào đó là người
vợ chưa bao giờ có thai kể từ khi lấy chồng ; Vô sinh thứ phát (hay còn gọi là vô
sinh II) là người vợ đã từng có thai hoặc có con nhưng mong muốn có thai hoặc
có thai thêm nhưng không được .
Vô sinh do nữ: Là các trường hợp nguyên nhân vô sinh hoàn toàn do
người vợ, còn vô sinh nam là nguyên nhân vô sinh người chồng. Vô sinh không
rõ nguyên nhân là các trường hợp vô sinh khi thăm khám và làm các xét nghiệm
thăm dò hiện có mà không tìm thấy nguyên nhân nào. Trong thực tế lâm sàng thì
vô sinh do vợ chiếm khoảng 40%, vô sinh nam khoảng 40% và do cả hai vợ
chồng là 20% . Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phần lớn những người
bị vô sinh có thể điều trị được (vô sinh tạm thời) nhưng còn 2-3% không có khả
năng có thai (vô sinh vĩnh viễn) [11 ],[13],[[19].
1.1. Tình hình vô sinh trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình vô sinh trên thế giới:
Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện một nghiên cứu từ năm 1980 đến năm
1986 trên 8500 cặp vợ chồng ở 33 trung tâm thuộc 25 quốc gia khi thống kê
nguyên nhân vô sinh cho thấy: Ở các nước phát triển tỷ lệ vô sinh do chồng là
5
8%, vợ là 37%, do cả hai là 35%[46]. Ở vùng cận Sahara nguyên nhân do chồng
chiếm 22%, do vợ chiếm 31%, do cả hai chiếm 21%[38]. Cũng theo tổ chức
này năm 2000 thì 8-10% số cặp bị mắc vô sinh[46]. Trên bình diện toàn cầu thì
con số này khoảng 50-80 triệu người vô sinh. Tuy nhiên số người mới mắc rất
đa dạng và khác biệt ở cỏc vựng khác nhau trên thế giới. Tỷ lệ mới mắc vô sinh
ở nam và nữ gần bằng nhau. Vô sinh do nguyên nhân do nữ khoảng 30-40%
tổng số các ca bệnh và do chồng khoảng 10-30%. Từ 15-30% nguyên nhân do
cả vợ và chồng. Nguyên nhân gây ra vô sinh không rõ ràng chiếm một con số

không cao khoảng 5-10% các cặp [11].
Một nghiên cứu của tác giả Larsen (2000) [38] tiến hành ở 10 trong số 28
quốc gia châu Phi nhận thấy tỷ lệ vô sinh nguyờn phỏt khoảng hơn 3% trong các
cặp ở độ tuổi sinh đẻ còn tỷ lệ vô sinh thứ phát lại cao hơn rất nhiều. Theo một
thống kê của WHO năm 1985 tỷ lệ vô sinh nguyờn phỏt và thứ phát ở một số
quốc gia như sau[46]:
Quốc gia VSNP VSTP
Châu Phi Benin 31 % 10%
Cameroon
12% 33%
Kenya 4% 7%
Tanzania
5% 25%
Châu Mỹ Brazil 2% 30%
Colombia
4% 4%
Venezuela 2% 7%
Panama
3% 8%
Châu Á- Thái

Bình Dương
Banglades 4% 15%
Ấn Độ
3% 8%
Malaixia 4% 13%
Indonexia
7% 15%
Thái Lan 2% 13%
6

Việt Nam
2% 15%
1.1.2. Tình hình vô sinh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tỷ lệ vô sinh cũng khá cao, theo kết quả điều tra dân số năm
1982 tỷ lệ vô sinh chung là 13% [11]. Nghiên cứu của tác giả Âu Nhật Luân
(1995), tỷ lệ vô sinh ở nước ta vào khoảng 7% đến 10% dân số[12]. Gần đây
hơn, kết quả điều tra của tác giả Phạm Văn Quyền (2000) và Trần Thị Phương
Mai (1999) cho thấy tỷ lệ vô sinh ở nước ta vào khoảng 10% đến 15% [13],[16].
Theo tác giả Âu Nhật Luân (1990), tỷ lệ vô sinh do vợ chiếm 54.5%, do chồng
chiếm 32.1%, do cả hai là 3.5% và không rõ nguyên nhân là 9.9%[12]. Một
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Khắc Liêu và cộng sự trên 1000 bệnh nhân
khám và điều trị vô sinh tại bệnh viện BVBM&TSS từ năm 1993 – 1997, có
đầy đủ các xét nghiệm thăm dò, tỷ lệ vô sinh nữ chiếm 54.5%, vô sinh nam
chiếm 35.6% và vô sinh không rõ nguyên nhân chiếm 9.9% [10].
Về tỷ lệ giữa VSNP và VSTP theo các nghiên cứu tại Việt Nam như sau:
Tác giả Năm VSNP VSTP
Vũ Văn Chức [4] 1990 84,4% 15,6%
BVPS Từ Dũ [22] 1999 16,57% 83,43%
Nguyễn Xuân Bái [1] 2002 62% 38 %
Nguyễn Đức Mạnh [14] 2002 59,4% 40,6%
Về nguyên nhân gây VSTP ở nam, theo Nguyễn Xuõn Bỏi (2002) [1] tỷ lệ
tinh dịch đồ bất thường là 53,7 %, trong đó không có tinh trùng là 1,85%, tỷ lệ
tinh trùng yếu là 26%. Theo Nguyễn Khắc Liêu (1998), tỷ lệ VSTP là 36,2%,
trong đó 75,4% do tắc vòi trứng, 22,9% do khụng phúng noón [10]. Còn theo
Nguyễn Đức Mạnh [14] tỷ lệ VSTP là 40,6%, trong đó 56,7% do tắc vòi trứng.
7
Trong số tắc vũi thỡ 21,18% sau sẩy, 14,77% sau đẻ, 11,82% sau nạo và 2,95%
sau đặt dụng vụ tử cung. Theo Phạm Như Thảo nguyên nhân vô sinh nữ có tỷ lệ
cao hơn vô sinh nam (47,5% so với 30,6%), vô sinh không rõ nguyên nhân
chiếm tỷ lệ 10,9%. VSTP sau sảy nạo hút thai chiếm tỷ lệ cao nhất 68,7%, còn

sau đặt dụng cụ tử cung tránh thai là 8,2%[18]. Theo Nguyễn Linh Thảo vô sinh
thứ phát do nguyên nhân vòi trứng chiếm khoảng 20-25% trong vô sinh nói
chung và 75,4% trong vô sinh nữ núi riờng[17].
Theo báo cáo của Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình năm 1998 tại Hà Nội
có tỷ lệ cặp vợ chồng vô sinh chiếm khoảng 13-13,4% ở độ tuổi sinh đẻ.
1.2. Các nguyên nhân vô sinh:
1.2.1. Các nguyờn nhân vô sinh nữ
1.2.1.1. Vô sinh do rối loạn quá trình trưởng thành và phúng noón
Phúng noãn là kết quả của sự cân bằng, tinh tế và đồng bộ của hệ thống
thần kinh trung ương, vùng dưới đồi, tuyến yên và buồng trứng. Vô sinh do
buồng trứng khụng phúng noón chiếm khoảng 20% nguyên nhân vô sinh nữ. Tổ
chức Y tế thế giới (1976) phân loại vô sinh do buồng trứng khụng phúng noón
thành cỏc nhúm sau đây:
Nhóm 1: Suy dưới đồi - tuyến yên:
Bệnh do nhiều nguyên nhân như U tuyến yên, sau chấn thương vùng đầu,
do hoại tử tuyến yên sau một nhiễm khuẩn nặng hoặc nhiễm khuẩn hậu sản
(Bệnh Simmonds), hoại tử tuyến yên sau sau đẻ do băng huyết mất máu nhiều
(hội chứng Sheehan), do nhiễm khuẩn khác như lao, Abcess , giang mai… do
xâm nhiễm, miễn dịch hoặc vô căn.
Nhóm 2: Rối loạn chức năng dưới đồi - tuyến yên
8
Bệnh nhân có biểu hiện rối loạn phóng noãn, hoặc kém phóng noãn. Chỉ
định điều trị cho các trường hợp này là dùng thuốc kích thích buồng trứng, khi
nang noãn phát triển đủ lớn sẽ kích thích phúng noón và bơm tinh trùng vào
buồng tử cung.
Nhóm 3: Suy buồng trứng
- Suy buồng trứng sớm: Thường xuất hiện ở tuổi dưới 40 với những biểu
hiện như rối loạn kinh nguyệt hay mất kinh trong một thời gian dài. Dấu hiệu sớm
của bệnh giống như một quá trình mãn kinh tự nhiên như, bốc hoả, vã mồ hôi về
đêm, dễ kích động, khả năng tập trung kém chẩn đoán dựa vào dấu hiệu lâm

sàng và kiểm tra nồng độ FSH trong máu. Chỉ định điều trị trong các trường hợp
này là thụ tinh trong ống nghiệm xin noãn hoặc xin phôi.
- Hội chứng buồng trứng kháng: Là một dạng bệnh tự miễn, đây là một
type hiếm gặp của suy buồng trứng sớm. Nguyên nhân do trong mỏu cú kháng
thể ức chế không cho hormon kích thích nang noãn gắn với thụ thể của nó.
Nhóm 4: Tổn thương các cơ quan sinh dục bẩm sinh hoặc mắc phải
Nhóm 5: Vô sinh nữ do tăng prolactin với tổn thương của vùng dưới đồi -
tuyến yên.
Nhóm 6: Vô sinh nữ do tăng prolactin không phát hiện được tổn thương
trên bề mặt của vùng dưới đồi - tuyến yên.
Nhóm 7: Phụ nữ vô kinh có tổn thương vùng dưới đồi - tuyến yên với
mức prolactin bình thường hay thấp.
1.2.1.2. Các bất thường bẩm sinh của TC
Các dị tật tử cung và các dị tật khác thường gây sảy thai, đẻ non, ít ảnh
hưởng đến khả năng có thai. Các dị tật này chia thành 5 nhóm sau
9
- Nhóm không có tử cung điển hình là:
Không có hai bên không hoàn toàn gây ra hội chứng Rokitansky -Kuster
-Houser
- Nhóm nửa tử cung:
Nửa tử cung hai cổ, hai sừng, ứ máu kinh một bên: Thường kèm không có
thận bên ứ máu kinh.
Nửa tử cung hai sừng, hai cổ, thường có vách ngăn dọc âm đạo
Nửa tử cung một cổ: hay gặp nhất trong nhóm này và 25% nhóm này chỉ
có một bên thận và niệu quản.
- Nhóm tử cung có vách ngăn
Đây là dị tật phổ biến nhất, chiếm tới 2 phần 5 số dị dạng tử cung. Có thể
có vách ngăn một phần hay toàn phần.
- Nhóm tử cung thông nhau
Loại dị tật này rất hiếm gặp, xuất hiện trên một tử cung có vách ngăn toàn

phần, tử cung hai sừng - hai cổ thông với âm đạo chột, hoặc trên tử cung hai cổ,
vách ngăn thân
- Nhóm tử cung thiểu sản
Tử cung rất bé ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, thường kèm với hở hoặc
chít hẹp eo tử cung.[7], thường gặp ở Hội chứng Turner, suy dinh dưỡng trầm
trọng.
1.2.1.3. Vô sinh không rõ nguyên nhân:
10
Đó là tình trạng vô sinh mà các thăm khám, thăm dò mà không tìm được
bất kỳ nguyên nhân nào từ vợ hoặc chồng.
1.2.2.Các nguyên nhân vô sinh nam [25]
Nguyên nhân vô sinh nam rất đa dạng nhưng được chia làm hai loại:
- Nguyên nhân do rối loạn sinh tinh.
+ Nguyên nhân trước tinh hoàn
+ Nguyên nhân tại tinh hoàn
- Những rối loạn gây cản trở sự di chuyển tinh trùng và những rối loạn về
chức năng hoạt động tình dục.
1.2.2.1. Nguyên nhân do rối loạn quá trình tạo tinh trùng
1.2.2.1.1.Nguyờn nhân rối loạn nội tiết (trước tinh hoàn)
* Bệnh của tuyến yên
+ Hội chứng Kallmann: đây là bệnh mang tính gia đình do thiểu năng nội
tiết hướng sinh dục gây ra. Rối loạn chức năng và các bất thường về hình thái
của vùng dưới đồi hoặc tuyến yên có thể làm thay đổi quá trình sinh tổng hợp và
chế tiết các hoa non hướng sinh dục làm giảm nồng độ FSH và LH trong máu.
Hậu quả là quá trình sinh tinh bị giảm một phần hoặc hoàn toàn dần đến vô sinh.
Bệnh mang tính di truyền tự nhiên kết hợp với triệu chứng mất khứu giác có thể
hoàn toàn hay một phần. Đây là hội chứng di truyền theo nhiễm sắc thể X, do
đột biến trên đoạn gen KALIG-1 ở nhánh ngắn Trước một bệnh nhân không
phát triển dậy thì cần phải nghĩ đến hội chứng Kallmann.
* Thiếu FSH đơn thuần

Người bệnh vẫn thể hiện tính cách mạnh mẽ của đàn ông và kích thích
tinh hoàn bình thường. Nồng độ LH, Testosteron trong máu bình thường. Do
11
thiếu FSH mà tinh trùng trong tinh dịch đồ rất ít hoặc không có. Điều trị HMG
cho bệnh nhân sẽ cải thiện được quá trình sinh tinh.
* Các hội chứng bẩm sinh khác.
- Hội chứng Prader - Willi: Trên lâm sàng người bệnh béo phì, trương lực
cơ nhẽo, tinh thần kinh chậm chạp, bàn tay và chân nhỏ, thân hình thấp và suy
sinh dục. Bệnh mang tính gia đình do thiếu hụt GnRH làm cho nồng độ LH,
FSH trong máu bệnh nhân thấp. Hội chứng Prader-willi xảy ra khi mất 1 đoạn
gần nhánh dài của NST 15
- Hội chứng Laurence Moon Bandet Biede: Bệnh thể hiện bằng suy sinh
dục do thiểu năng hormon hướng dục, viờm vừng mạng sắc tố, dị tật bàn tay
hoặc bàn chân dạng nhiều ngón, tinh thần trì trệ.
* Bài tiết nội tiết quá mức
+ Sản xuất quá nhiều androgen: Hormon hướng sinh dục bị giảm do nồng
độ androgen trong mỏu quỏ ngưỡng, lượng androgen có nguồn gốc từ nội sinh,
ngoại sinh hoặc do chuyển hóa bất thường hay khối u sản xuất ra Androgen.
+ Vô sinh do bài tiết Estradiol quá mức
Khi nồng độ Estradiol trong máu quá mức sẽ ức chế tuyến yên sản xuất
hormon hướng sinh dục. Suy tinh hoàn thứ phát có thể là nguyên nhân của khối
u tăng tiết Estradiol nằm ở phần vỏ tuyến thượng thận hoặc tinh hoàn. Các khối
u tế bào Sertoli trong tinh hoàn hoặc khối u tế bào mô kẽ có thể sản xuất ra
Estrogen [6].
+ Vô sinh do tăng Prolactin
Prolactin do các tế bào ái toan thùy trước tuyến yên tạo ra. Nó là một
Amin Dopamin sinh học do các neurone dopaminergie vùng lồi phễu chế tiết
trực tiếp vào trong hệ thống mạch cửa của tuyến yên. Do đó tất cả các yếu tố nào
ảnh hưởng đến lượng Propamin trung ương cũng đều có một ảnh hưởng gián
12

tiếp lên sự chế tiết Prolactin của tuyến yên. Các dược chất có hoạt tính kháng
Dopamin sẽ dẫn đến kích thích tiết prolactin như thuốc tâm thần, thuốc kháng
Dopamin, thuốc ức chế thụ thể H
2
, thuốc hạ huyết áp.
Việc tăng Prolactin máu điều trị tùy theo từng nguyên nhân. Nếu có rối
loạn chuyển hóa do suy chức năng tuyến giáp thì phải điều trị thay thế hormon
tuyến giáp thích hợp. Nếu do thuốc thì phải ngừng thuốc tương ứng hoặc đổi
sang dùng thuốc khỏc. Dựng cỏc chất đồng vận Dopamin để điều trị tuyến yên
như Bromocriptin hoặc Metergolin [3].
+ Glucocorticoid máu cao: Lượng Glucocorticoid trong máu cao sẽ ức chế
bài tiết LH, hậu quả là làm giảm nồng độ Androgen trong máu và gây rối loạn
chức năng tinh hoàn. Glucocorticoid máu tăng cao trong bệnh Cushing hoặc do
trị liệu nội tiết này. Hình ảnh mô tinh hoàn trên mẫu sinh thiết thể hiện thiểu
năng sinh tinh và tế bào dòng tinh ngừng trưởng thành.
1.2.2.1.2. Nguyên nhân tại tinh hoàn
Nguyên nhân ở tinh hoàn hay gặp nhất. Các rối loạn bệnh lý tinh hoàn bao
gồm vị trí, số lượng, hình dạng và chức năng của tinh hoàn.
* Không tinh hoàn bẩm sinh
- Không có tinh hoàn ở hai bên là bệnh cảnh lâm sàng hiếm gặp với tần
suất 0,005% . Điều trị khi dự kiến tới tuổi dậy thì thỡ dựng 100mg Testoteron
Enanthat tiêm bắp mỗi 2 - 3 tuần. Tuy nhiên không thể dễ dàng tác động một
cách tích cực lên tình trạng vô sinh của bệnh nhân [3].
- Không có tinh hoàn một bên gặp với tần suất là 0,02%. Khi đó chức
năng của tinh hoàn bị thiến có thể được bù lại bằng sự hoạt động của tinh hoàn
bên kia. Nếu siêu âm không thấy được tinh hoàn thứ hai thỡ cú chỉ định chụp
CT hoặc RMI. Thử nghiệm HCG và định lượng AMH không có giá trị gỡ vỡ cú
hoạt động bù của tinh hoàn bên kia.
13
* Không tinh hoàn mắc phải

Không tinh hoàn mắc phải có thể là một bên hoặc hai bên. Về nguyên
nhân, người ta có thể gặp như chấn thương, phẫu thuật, nhiễm vi khuẩn hoặc
virus, xoắn tinh hoàn được can thiệp quá muộn. Việc phẫu thuật làm hạn chế
cung cấp mỏu nuụi tinh hoàn do đó làm mất tinh hoàn vì vậy việc chỉ định phẫu
thuật vùng bẹn bìu cần được cân nhắc. Ngoài ra các bệnh lý ác tính của tinh
hoàn về nguyên tắc đòi hỏi phải cắt bỏ một hoặc cả hai tinh hoàn. Trong trường
hợp ung thư tiền liệt tuyến phải cắt bỏ cả hai tinh hoàn.
* Bất thường về vị trí tinh hoàn
Bình thường tinh hoàn xuống tới bìu vào cuối quý 3 của thai kỳ. Dọc theo
đường di chuyển từ vùng thắt lưng dưới đến tận bìu tinh hoàn có thể bị dừng lại
ở bất kỳ đoạn nào. Tỉ lệ gặp 2 - 3%/ trẻ sơ sinh nam đủ tháng. Tuy nhiên 60%
sau 3 tháng sau đẻ tinh hoàn xuống tự nhiên. Các dạng rối loạn quá trình đi
xuống của tinh hoàn.
- Tinh hoàn ẩn: Tinh hoàn nằm ở trên ống bẹn, trong ổ bụng hoặc ở sau
phúc mạc và không thể nhìn thấy hay sờ thấy được.
- Tinh hoàn lạc chỗ: Tinh hoàn nằm ngoài đường đi xuống bình thường
của nó. Ví dụ nó nằm ở đùi.
- Tinh hoàn trong ống bẹn: Nằm cố định trong ống bẹn.
- Tinh hoàn trượt: Tinh hoàn nằm không cố định ở lỗ ra của ống bẹn và có
thể thạm thời bị ép (rặn) xuống dưới vào trong bìu, tuy nhiên khi hết rặn nó lại
trượt trở lại về vị trí cũ: “ Tinh hoàn lò xo”
14
- Tinh hoàn không cố định (tinh hoàn đi đi lại lại): Tinh hoàn có vị trí thay đổi,
không cố định, nằm giữa bìu và ống bẹn. Ví dụ khi có phản xạ co cơ da bìu hoặc khi
lạnh, tinh hoàn di chuyển một cách tự do từ chỗ này sang chỗ kia.
* Bất thường nhiễm sắc thể
- Bất thường về số lượng:
+ Hội chứng Klinefelter
Là hình thức hay gặp nhất của nhược năng sinh dục nam tỉ lệ 1/500, có bộ
nhiễm sắc thể 47 XX7.

Bệnh nhân biểu hiện bên ngoài cao lớn, vú to, tinh hoàn nhỏ, thường dưới
3cm
3
một độ chắc. Xét nghiệm không có tinh trùng trong tinh dịch; xét nghiệm
nội tiết nồng độ FSH và LH tăng mạnh trong khi đó testoteron máu giảm, chẩn
đoán xác định nhờ làm nhiễm sắc đồ từ tế bào lympho trong máu.
+ Hội chứng XYY
Hội chứng này có tỉ lệ 2/1000 nam giới. Thường không có bất thường gì
về lâm sàng, các rối loạn về chức năng nội lẫn ngoại tiết của tinh hoàn có biểu
hiện ở mức độ khác nhau. Bệnh nhân có thể sinh sản bình thường hoặc vô sinh.
Bệnh nhân chỉ được phát hiện khi làm nhiễm sắc đồ.
- Bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể: Người ta chia làm 2 loại bất
thường trên NST giới tính và trên NST thường.
+ Mất đoạn trên nhiễm sắc thể Y
Năm 1976, Tiepolo và Zuffardi phát hiện 6 trường hợp không có tinh
trùng bị mất 1 đoạn lớn ở phần xa của nhánh dài nhiễm sắc thể Y qua phân tích
karyotype và đưa ra giả thuyết quan trọng về đoạn AZF. Khi di truyền phân tử
phát triển, nhiều nghiên cứu đã phát hiện được những vi mất đoạn trong AZF
liên quan đến vô tinh hay thiểu tinh mà trước đây thường được cho là không rõ
15
nguyên nhân. ba vựng trờn Y liên quan với sinh tinh trùng là AZFa, AZFb,
AZFc. những vi mất đoạn xảy ra trong 3 vùng này thường dẫn đến những rối
loạn trong quá trình sinh tinh như không sản xuất tinh trùng hay sản xuất tinh
trùng rất ít.
Hiện nay, kỹ thuật chẩn đoán mất đoạn trên nhiễm sắc thể Y đã thực hiện
được ở Việt Nam. Chỉ định của xét nghiệm này là các trường hợp nguy cơ cao
của vi mất đoạn nhiễm sắc thể Y bao gồm: không có tinh trùng hoặc thiểu tinh
nặng (mật độ tinh trùng < 5 triệu/ml). Khảo sát bước đầu tại Bệnh viện Từ Dũ
cho thấy khoảng 10% bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao cho kết quả dương
tính.

+ Mất đoạn trên nhiễm sắc thể thường
Nhờ di truyền phân tử, các nhà khoa học hiểu rõ hơn về mối liên quan
giữa bệnh sơ nang; bệnh gồm những biểu hiện như bệnh lý phổi tắc nghẽn, thiếu
hụt ngoại tiết tuyến tụy, rối loạn dạ dày ruột non và bất sản ống dẫn tinh 2 bên.
Gene CFTR trên được tìm thấy trờn nhỏnh dài của nhiễm sắc thể thứ 7 có thể
gây ra một trong hai rối loạn trên. Do đó nhiều giả thuyết cho rằng bất sản ống
dẫn tinh 2 bên có thể là một dạng triệu chứng nhẹ của bệnh xơ nang hay biểu
hiện bệnh xơ nang không hoàn toàn.
Lâm sàng có rối loạn sinh tinh trùng nặng nề, kết quả xét nghiệm tinh dịch,
xét nghiệm hormon FSH và sinh thiết tinh hoàn lại rất thay đổi. Sự sản xuất
Testosteron không bị ảnh hưởng chẩn đoán xác định nhờ vào nhiễm sắc đồ. Cho
đến nay vẫn chưa điều trị được nguyên nhân này nhưng với kỹ thuật ISCI chúng ta
vẫn có thể làm cho bệnh nhân có con và sinh ra đứa trẻ khỏe mạnh.
* Bất thường về cấu trúc tinh trùng
16
Các bất thường về cấu trúc của tinh trùng được coi là những biến đổi về
hình thái học của tinh trùng.
+ Tinh trùng đầu tròn
Do rối loạn xắp xếp trong quá trình trưởng thành tinh trung dẫn đến cực
đầu tinh trùng tạo bởi bộ máy Golgi không dính gắn với tiền tinh trùng, không
có cực đầu tinh trùng không thể đâm xuyên vào vùng trong suốt của trứng
được.
+ Hội chứng nhung mao bất động
Là bệnh lý di truyền lặn trên NST thường. Làm khả năng di chuyển của
tinh trùng bị hạn chế.
+ Hội chứng 9 + 0
Bình thường đuôi tinh trùng có 9 cặp vi ống phân bố ngoại vi và một cặp
vi ống nằm ở trung tâm. Nếu không có cặp vi ống ở trung tâm thỡ đuụi tinh
trùng không cử động được. Về chẩn đoán: Khi thấy nhưng tinh trùng sống
nhưng lại bất động tuyệt đối thì phải nghĩ đến khiếm khuyết cấu trúc. Không thể

điều trị các nguyên nhân trên. Chỉ nhờ ICSI để có con.
* Giãn tĩnh mạch thừng tinh
Là hiện tượng các tĩnh mạch của đám rối tĩnh mạch hình dây leo trong
bỡu gión rộng và uốn cong ngoằn nghèo. Có 3 mức độ.
Độ 1: Cú gión nhưng chỉ sờ được khi giãn tĩnh mạch lúc làm nghiệm pháp
valsalva (nghiệm pháp làm tăng áp lực).
Độ 2: Sờ được giãn tĩnh mạch rõ ngay khi cả lúc không làm nghiệm pháp
Valsalva.
Độ 3: Thấy được giãn tĩnh mạch nguyên ở tư thế bệnh nhân đứng.
17
Điều trị giãn tĩnh mạch là một kỹ thuật buộc cổ điển ở sâu hoặc tốt hơn là
ở cao buộc qua nội soi hoặc kỹ thuật gây xơ hóa phía trước hoặc ngược dòng tất
cả nhằm gián đoạn sự lưu thông tĩnh mạch.
Việc điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh để có con hiện nay còn đang tranh
cãi [6].
* Hội chứng chỉ có tế bào Sertoli , bất sản tế bào mầm
Biểu mô tinh hoàn không thấy các tế bào mầm. Các tế bào mầm sinh dục
không đi vào trong các ống sinh tinh.
Bệnh nhân thường có tinh hoàn 2 bên teo nhỏ, mật độ mềm, tinh dịch đồ
không có tinh trùng nhưng các đặc tính sinh dục nam phát triển bình thường,
nồng độ FSH không tăng, LH và testoteron bình thường hoặc tăng nhẹ.
Nguyên nhân do di truyền là các mất đoạn nhỏ trên NST giới tính và do
nhiễm virus (ví dụ viêm tinh hoàn do quai bị) và bất thường vị trí tinh hoàn, các
chất độc, tác nhân hóa trị từ bên ngoài đưa vào và tiếp xúc với tia xạ.
Với những hiểu biết hiện nay người ta vẫn chưa thể điều trị được nguyên
nhân các hội chứng chỉ có tế bào Sertoli .
* Ngừng trệ quá trình sinh tinh
Bệnh lý này được xác định bằng giải phẫu bệnh học, sự đình trệ xảy ra ở
các giai đoạn tinh nguyên bào, tinh bào sơ cấp hoặc thứ cấp hoặc ở giai đoạn
tiền tinh trùng.

Về nguyên nhân do bất thường cấu trúc NST, xạ trị, hóa trị kháng sinh
hoặc các bệnh lý toàn thân.
Hiện nay chưa điều trị được nguyên nhân. Chỉ dùng kỹ thuật TESE để
điều trị ICSI.
* Vô sinh do hóa trị và xạ trị
18
Hóa trị hiện nay có thể làm tổn thương đến tế bào mầm, chức năng tinh hoàn
bị tổn thương. Các tế bào mầm đặc biệt mẫn cảm đối với tia xạ, tiếp xúc với bìu càng
cao thì tế bào mầm càng dễ bị tổn thương và khó hồi phục.
* Vô sinh do viêm tinh hoàn
Bệnh quai bị sau tuổi dậy thì gõy viờm tinh hoàn hai bên khoảng 30%.
Teo tinh hoàn có thể xuất hiện ở bệnh nhân bị bệnh vài tháng hoặc vài năm.
Bệnh giang mai có thể ảnh hưởng đến tinh hoàn và mào tinh hoàn gõy viờm lan
tỏa mô kẽ, kết hợp viêm nội mạc hình thành các gom giang mai. Bệnh lậu và bệnh
phong không được điều trị cũng là nguyên nhân gây vô sinh do viêm tinh hoàn.
1.2.2.1.3. Nguyên nhân sau tinh hoàn
* Viêm nhiễm đường dẫn tinh
- Viêm mào tinh hoàn cấp và mãn tính
- Viêm tuyến tiền liệt cấp và mãn tính chia thành:
+ Viêm tiền liệt tuyến cấp do vi khuẩn
+ Viêm tiền liệt tuyến mãn tính do vi khuẩn
+ Viêm tiền liệt tuyến mãn tính không do vi khuẩn
+ Viêm tiền liệt tuyến không triệu chứng
- Viêm túi tinh
Hiếm khi diễn ra đơn độc thường phối hợp với viêm tiền liệt. Điển hình là
tinh dịch có máu.
- Viêm niệu đạo cấp
Có dịch tiết đầu dương vật, cảm giác ngứa hay bỏng rát lúc đi tiểu.
* Tắc nghẽn đường dẫn tinh
Thường được phát hiện khi bệnh nhân đi khám vô sinh xét nghiệm tinh dịch

đồ không thấy có tinh trùng.
19
* Rối loạn về vị trí tích tụ tinh dịch
Các bất thường bẩm sinh hoặc mắc phải ở dương vật, niệu đạo hoặc các
tạng cương của dương vật có thể dẫn đến các rối loạn sự tích tụ tinh dịch và cuối
cùng làm rối loạn chức năng sinh sản.
+ Xuất tinh ngược dòng: Do tinh dịch vẫn được phóng ra khỏi túi tinh
nhưng lại vào bàng quang chứ không ra niệu đạo. Xét nghiệm có tinh trùng
trong nước tiểu sau giao hợp.
+ Xuất tinh chậm
Cuộc giao hợp tiến hành bình thường nhưng bệnh nhân không có cảm
giác phóng tinh được ra ngoài. Sau giao hợp trong khi nghỉ ngơi tinh dịch mới
chảy ra từ từ.
+ Không xuất tinh: Dương vật đủ cương cứng để giao hợp nhưng không
thể xuất tinh được, không thấy có khoái cảm cực độ.
+ Vô sinh do rối loạn cường dương
Do rối loạn cương dương không giao hợp được nờn khụng đưa tinh trùng
của người chồng vào âm đạo của người vợ để thụ thai.
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến vô sinh nam và nữ:
1.3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến vô sinh nữ:
1.3.1.1.Vô sinh do bệnh lý toàn thân và những cơ quan ngoài hệ sinh dục
- Vô sinh do các bệnh toàn thân: Tim, gan, thận
- Vô sinh do các bệnh nội tiết: Đái tháo đường, Basedow, thừa Androgen,
u thượng thận
- Vô sinh do dinh dưỡng: Suy dinh dưỡng , thừa cân , béo phì
1.3.1.2. Vô sinh do viêm nhiễm đường sinh dục dưới
20
Viêm nhiễm đường sinh dục dưới chiếm khoảng 20% số phụ nữ đến khám
phụ khoa với nhiều tác nhân gây bệnh lậu, nấm Candida, Albicans, Chlamydia
Tracomatis, giang mai Viêm làm thay đổi độ PH trong âm đạo và ảnh hưởng

tới khả năng sống sót của tinh trùng trước khi vào được trong buồng tử cung.
Trong một số trường hợp nguyên nhân vô sinh do viêm nhiễm đường sinh dục
dưới, viờm lụ̣ tuyờ́n cụ̉ tử cung nên việc điều trị bằng đặt thuốc âm đạo, đụ́t diợ̀n
lụ̣ tuyờ́n cụ̉ tử cung có thể đã đạt được kết quả có thai.
1.3.1.3. Vô sinh do cổ tử cung
Cổ tử cung chít hẹp, khoột chúp cổ tử cung, có kháng thể kháng tinh trùng
trong chất nhầy cổ tử cung
1.3.1.4. Vô sinh do tắc vòi tử cung
Vô sinh do vòi tử cung chiếm 30-40% nguyên nhân vô sinh nữ và tỷ lệ
này tăng ở phương Tây. Có nhiều cơ chế bệnh sinh của vô sinh vòi nhưng hai cơ
chế chính là tắc vòi và rối loạn chức năng vòi TC do tổn thương cơ hoặc rối loạn
chức năng hoặc giảm khả năng nhu động.
Nguyên nhân hàng đầu là nhiễm trùng tiểu khung. Viêm tiểu khung do
Chlamydia Trichomatis hoặc Neisseria gonorrhoeae ở phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ. Theo Westrom, vô sinh là biến chứng trên 12% các ca viêm phần phụ cấp.
Nếu viêm phần phụ tái phát thì 75% bị vô sinh. Nhiều bệnh nhân bị tắc vòi TC,
không có dấu hiệu lâm sàng song xét nghiệm có nồng độ kháng thể với
Chlamydia cao.
Viêm ruột thừa có thể gây ra ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của vòi tử cung
nhưng tổn thương đến lớp ngoài của vòi có thể ít rõ rệt đến tình trạng bên ngoài
của vòi, của tiểu khung hơn. Dụng cụ tử cung cũng có thể gây ra nhiễm khuẩn
21
một cách "âm thầm", thậm chí là tổn thương lớp ngoài của vòi tử cung gây nên
chít hẹp, thậm trí tắc vòi trứng gây nên tình trạng tắc vòi trứng hoặc GEU.
Một số bệnh sau đây cũng gây tổn thương vòi:
- Chửa ngoài TC
- Phẫu thuật vòi TC, Nội soi tạo hình vòi trứng. . .
- Các can thiệp phẫu thuật khác ở vòi TC, mổ GEU
- Lạc nội mạc TC
1.3.1.5. Vô sinh do tổn thương thực thể ở tử cung

- U xơ tử cung: Thường ít khi gây ra vô sinh mà thường gây sẩy thai hoặc
đẻ non, tuy nhiên một số ít trường hợp có thể gây vô sinh do vậy cần phẫu thuật
bóc nhân xơ qua nội soi hoặc mở bụng.
- Polyp buồng tử cung: Cản trở phôi làm tổ nờn gõy vô sinh, chẩn đoán polype
buồng tử cung bằng phim chụp tử cung vòi trứng hoặc siêu âm bơm nước buồng tử
cung.
- Quá sản NMTC
- Dính BTC từng phần sau các thủ thuật nạo hỳt….
1.3.1.2.Một số yếu tố ảnh hưởng đến vô sinh nam
Thuốc, xạ trị liệu, nhiệt độ cao, ngộ độc, nhiờm trựng, ô nhiễm môi
trường, chế độ ăn uống, xơ gan, suy thận đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp tới khả năng sinh tinh tại tinh hoàn
* Chế độ ăn uống:
Chế độ ăn thiếu một số chất như: một số Acid béo, Acid Amin (đặc biệt là
Arginin) và kẽm có thể ảnh hưởng trực tiếp lên tinh hoàn và gây giảm sinh tinh.
22
Thiếu vitamin B có thể ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh do ảnh hưởng trực tiếp
lên tuyến yên và gián tiếp lên tinh hoàn. Thiếu vitamin A gõy thoỏi hoỏ tinh
trùng, thiếu vitamin E sẽ gây tổn thương tinh trùng, thiếu Vitamin C làm giảm
số lượng và chất lượng tinh trùng.
Gần đây nhiều quan điểm cho rằng các thức ăn hiện đại thường chứa
nhiều gốc hóa học có tính Estrogenic yếu, nếu tích tụ lâu ngày, có thể ức chế
sinh tinh.
Béo phì cũng làm tăng nguy cơ tinh trùng yếu, làm giảm độ đi động tinh
trùng 30%, nếu chỉ quỏ cõn thỡ làm giảm độ di động 20%.
* Tăng nhiệt độ tinh hoàn:
Ở người, nhiệt độ ở bìu thường thấp hơn thân nhiệt khoảng 2
0
C. Trong
trường hợp tinh hoàn không xuống hoặc tinh hoàn ẩn, quá trình sinh tinh sẽ bị

ngưng lại. Trong thực nghiệm, người ta thấy cấu trúc mô học của tinh hoàn sẽ
thay đổi nếu tinh hoàn không xuống. Sốt trên 38,5oC có thể ức chế quá trình
sinh tinh trong thời gian 6 tháng. Ngoài tác dụng ức chế sinh tinh, nhiệt độ cao
có thể gây tổn thương ADN của tinh trùng. Thoneau và CS. (1998) [7] thực
hiện phân tích trên nhiều báo cáo đã ghi nhận tăng nhiệt độ làm giảm sinh tinh
và tăng tỉ lệ tinh trùng dị dạng. Tác giả này cũng cho rằng ở những tài xế lái xe
đường dài, có thể do tư thế ngồi lâu và điều kiện làm việc khiến nhiệt độ bìu
tăng, dẫn đến giảm sinh tinh và vô sinh.
Trong một nghiên cứu khác tại Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, thực hiện trên
400 cặp vợ chồng đến khám vô sinh, nhận thấy nhóm bệnh nhân có nghề nghiệp
là tài xế đường dài có tỉ lệ bất thường về độ di động của tinh trùng cao nhất so
với nhóm nguy cơ khác (2001) [5]. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng tìm thấy chất
23
lượng tinh trùng giảm bớt ở nhóm bệnh nhân làm việc trong môi trường nóng
thuộc những ngành nghề khác như: Đầu bếp, thợ hàn, thợ luyện kim, thợ lò
* Sức nóng:
* Hoá chất:
Nhiễm độc một số kim loại nặng như chì, Cadmium và thủy ngân có thể
gây giảm sinh tinh và gây vô sinh. hút thuốc nhiều và uống rượu cũng có thể ảnh
hưởng trực tiếp là giảm sinh tinh [35 ] [7]. Nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ sản Từ
Dũ cũng cho thấy chất lượng tinh trùng giảm ở những người hút thuốc lá và
uống rượu.
Các thuốc trừ sâu, diệt cỏ có thể gây ảnh hưởng lên quá trình sinh tinh.
Đặc biệt, dioxin cũng được ghi nhận có tác động lên quá trình sinh tinh và có thể
gây vô sinh. Qỳa trỡnh sinh tỡnh trựng rất nhạy cảm với nhiều loại hóa chất có
nguồn gốc công nghiệp và nông nghiệp.
Thuốc trừ sâu và các dung môi hữu cơ đã được nhiều nghiên cứu chứng
minh có tác động xấu đến quỏ tỡnh sinh tinh , làm giảm số lượng và chất lượng
tinh trùng. Các tác động có thể trực tiếp lên quá trình sinh tinh ở tin hoàn, sau
tinh hoàn hoặc lờn cỏc tuyến sinh dục phụ. Một số thuốc trừ sâu đã được ghi

nhận cụ thể gây giảm tinh trùng như Chlordecone, Ethylene Dibromide. Hầu hết
dung môi hữu cơ cú tỏc dụng độc trực tiếp lên tinh hoàn [7] 41 ].
Trong một nghiên cứu tại Việt Nam, kết quả khảo sát cũng cho thấy nhóm
nghề nghiệp có tiếp xúc với thuốc trừ sâu, các thông số về mật độ, độ di động và
hình dạng bình thường đều giảm so với nhóm không tiếp xúc [5 ].
* Ảnh hưởng của phóng xạ:
24
Tinh nguyên bào trong giai đoạn phân chia rất nhạy cảm với phóng xạ,
trong khi tinh nguyên bào gốc, tinh tử và tinh trùng ít bị ảnh hưởng hơn. Tuy
nhiên, nếu tiếp xúc với phóng xạ cường độ cao, tất cả các loại tế bào sinh tinh
đều bị ảnh hưởng có thể dẫn đến vô tinh không hồi phục. Ngoài ra, mặc dù quá
trình sinh tinh có thể hồi phục nhưng phóng xạ có thể gây tổn thương nhiễm sắc
thể và gây bất thường ở thế hệ sau[29]. Do đó, ở những bệnh nhân xạ trị để điều
trị ung thư, người ta có thể trữ lạnh tinh trùng trước khi trị xạ để duy trì khả
năng sinh sản của bệnh nhân.
* Từ trường:
Người ta ghi nhận rằng từ trường với tần số thấp và cường độ cao có thể
gây tổn thương quá trình sinh tinh [29]. Một nghiên cứu khác, năm 2001, cũng
đã ghi nhận từ trường có điện có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến sinh tinh và
gây vô sinh nam [32] [7]. Trong môi trường sống hiện nay, từ trường chủ yếu
được tạo bởi các thiết bị điện gia dụng, thiết bị điện công nghiệp hoặc đường
dẫn truyền điện. Gần đây, người ta cho rằng từ trường do điện thoại di động gây
ra với tần số cao và cường độ trung bình cũng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến
quá trình sinh tinh do tác động lên tuyến yên 29].
* Các thuốc điều trị các bệnh lý nội khoa:
Theo WHO (2000), một số thuốc được ghi nhận có thể ảnh hưởng đến
sinh tinh như: nội tiết tố, Cimetidene, Sulphasalazine, Spironolactone,
Nitrofurantoin, Niridazone, Colchichine [3].
Bảng 1.1. Một số thuốc điều trị nội khoa có tác động làm giảm sinh tinh.
Thuốc Tác động

Nội tiết Các thuốc corticoid hoặc androgens gây ức chế tuyến
25
yên, có thể ức chế sinh tinh và teo tinh hoàn
Cimetidene Ưc chế cạnh tranh với androgen, ức chế sinh tinh
Sulphasalazine Tác dụng độc trực tiếp lên quá trình sinh tinh
Spironolactone Ức chế tác động của androgens
Nitrofurantoin Tác dụng độc trực tiếp lên quá trình sinh tinh
Niridazone Ức chế quá trình sinh tinh
Colchichine Ức chế quá trình sinh tinh
Các thuốc điều trị ung thư thường ức chế mạnh quá trình sinh tinh. Hầu
hết cỏc phỏc đồ hóa chất điều trị ung thư đều ảnh hưởng nhiều đến quá trình
sinh tinh và gây tình trạng vô tinh tạm thời. Trong số đú, cú khoảng 80% trường
hợp có thể hồi phục sau 5 năm[7] [34 ]. Đồng thời, tổn thương nhiễm sắc thể ở
tinh trùng sau điều trị hóa chất cũng được ghi nhận. Đây là những tổn thương có
thể truyền cho con.
* Các bệnh toàn thân:
Các bệnh lý toàn thân đều ít nhiều có ảnh hưởng đến hoạt động của tinh
hoàn, nhưng nhiều khi không được chú ý. Các tình trạng bệnh lý cấp tính nặng
như bỏng, nhồi máu cơ tim, chấn thương, phẫu thuật đều ức chế chức năng
tinh hoàn.
Suy thận mạn tính ,suy gan mạn tính, các bệnh lý về đường tiêu hóa,
huyết học, nội tiết đều được báo cáo có tác dụng giảm quá trình sinh tinh.
* Các yếu tố khác:
- Tuổi: Nam giới khi đến khoảng 40 tuổi nồng độ Testosteron tự do trong
máu giảm dần, trong khi nồng độ SHBG – hormon gắn kết Globulin tăng dần, tỷ

×