Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu ACB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 30 trang )

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 1

MỤC LỤC
I. Tình hình hoạt động của ngành ngân hàng tại Việt Nam trong
năm 2012 2
1. Toàn cảnh ngành nhân hàng 2
2. Hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng 2
a. Hoạt động tín dụng 2
b. Hoạt động huy động vốn 3
c. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng 5
3. Những khó khăn mà hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đang đối mặt 6
II. Phân tích ngân hàng ACB 7
1. Tổng quan về ngân hàng ACB. 7
2. Phân tích báo cáo tài chính ACB 9
3. Phân tích lưu chuyển tiền tệ 16
a. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh 17
b. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư 19
c. Dòng tiền từ hoạt động tài chính 20
4. Phân tích giá trị thị trường của cổ phiếu 21
a. EPS 21
b. Tỷ lệ chi trả cổ tức 21
c. Tỷ số giá thị trường trên thu nhập P/E 22
5. Đo lường rủi ro 23
a. Rủi ro tín dụng 23
b. Rủi ro thanh khoản 26
c. Rủi ro lãi suất 28
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 2




I. Tình hình hoạt động của ngành ngân hàng tại Việt Nam trong năm 2012
1. Toàn cảnh ngành nhân hàng
Bên cạnh những điểm sáng như lãi suất giảm mạnh, tỷ giá ổn định, thanh khoản
của hệ thống được đảm bảo Năm 2012, có thể xem là một năm khá sóng gió đối với
ngành ngân hàng Việt Nam với hàng loạt các vụ bắt bớ, kiện tụng, tăng trưởng tín
dụng thấp kỷ lục, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh…Dưới đây, chúng tôi sẽ phản ánh một số
khía cạnh chính bức tranh toàn cảnh ngành ngân hàng trong năm 2012.

2. Hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng
a. Hoạt động tín dụng
Trong năm 2012, Ngân hàng nhà nước (NHNN) tiến hành thực hiện việc phân bổ
hạn mức tín dụng được ấn định cho các ngân hàng trong hệ thống và có sự phân biệt theo
4 nhóm ngân hàng tùy theo sức khỏe là 17%, 12%; 8% và 0% để tạo mức tăng dư nợ
hợp lý (dự kiến khoảng 15-17 % cả năm), đồng thời không để những ngân hàng quản trị
kém, tài chính không lành mạnh vẫn tăng trưởng bất chấp rủi ro va gây tác động xấu đến
cả hệ thống. Song do dòng vốn tín dụng vẫn chảy vào sản xuất kinh doanh chậm hơn
nhiều so với mong muốn, nên Ngân hàng Nhà nước đã tăng thêm hạn mức tin dụng cho
những ngân hàng có nhu cầu; bỏ các hạn chế cho vay đối với một số lĩnh vực được gọi là
“phi sản xuất”; quy định các biện pháp khuyến khích tín dụng ưu tiên cho một số lĩnh vực
như nông nghiệp nông thôn; xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Dẫu vậy tín dụng năm 2012 tăng rất thấp, 7 tháng đầu năm tăng trưởng tín
dụng của toàn nền kinh tế vẫn gần như bằng 0%, sau 11 tháng tín dụng mới nhích lên
được hơn 4%. Đến ngày 20-12-2012, NHNN cho biết tăng trưởng tín dụng đạt 6.45%
so với cuối năm 2011 và ước cả năm đạt khoảng 7%. Tuy nhiên, ngày 9-1-2013,
NHNN có thông báo về kết quả hoạt động ngân hàng năm 2012 và định hướng 2013,
điểm bất ngờ là tín dụng đã tăng mạnh vào cuối năm 2012, khiến cả năm tăng trưởng
8.91%. Trong đó, tín dụng VNĐ tăng 11.51%, tín dụng ngoại tệ giảm 1.56% so với
cuối năm 2011. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 8%, tín dụng xuất khẩu

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 3

tăng khoảng 14%, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 6.15%. Dư nợ cho
vay các lĩnh vực không khuyến khích giảm và chiếm tỷ trọng khoảng 4.4% so tổng dư
nợ cho vay nền kinh tế.
Hình 1: Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2001 – 2012

Nguồn: PNS
Tín dụng năm 2012 tăng trưởng ở mức thấp kỷ lục, đây là lần đầu tiên kể từ
năm 1992, mức tăng trưởng tín dụng ở một chữ số. Nguyên nhân tín dụng tăng thấp là
cầu yếu, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao nên nhiều doanh
nghiệp không đủ điều kiện vay vốn; các TCTD phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm
ngăn chặn nợ xấu

b. Hoạt động huy động vốn
Từ mức trần 14%, sau 6 lần điều chỉnh giảm liên tiếp trong năm 2012 còn 8%
và dài hạn thì theo cơ chế thả nổi.Lãi suất cơ bản giảm 5% so với cuối năm 2011, từ
mức trần 14%/năm xuống 9%/năm. Song song việc áp trần lãi suất huy động kỳ hạn
ngắn, NHNN đã cho thả nổi lãi suất kỳ hạn 12 tháng trở lên.
Các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh. Lãi suất tái chiết khấu giảm
từ 13%/năm xuống còn 8%/năm trong khi lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống
10%/năm.
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 4

Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3 – 8%/năm. Việc điều chỉnh trên được xem là
động thái tích cực để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp. Hiên nay, lãi suất cho vay cơ

bản đã về quanh mốc 12-15%.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2013: sẽ xem xét bỏ trần lãi suất huy động.
Theo đó, NHNN sẽ điều hành các mức lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
tiền tệ, đặc biệt là diễn biến của lạm phát; Tiếp tục áp dụng trần lãi suất tiền gửi bằng
VND để ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, xem xét bỏ trần lãi suất huy động khi thị
trường tiền tệ ổn định và thanh khoản của hệ thống TCTD cải thiện vững chắc.
Trường hợp lạm phát của năm 2013 được kiểm soát ở mức thấp hơn năm 2012,
NHNN tiếp tục điều hành theo hướng giảm mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến
lạm phát.
Hình 2: Diễn biến lãi suất theo tháng năm 2012 và năm 2013

Nguồn: PNS
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn của toàn hệ thống năm
2012 tăng khoảng 16%. Còn theo báo cáo tài chính của các ngân hàng lớn, ngoại trừ ở
ngân hàng ACB sụt giảm do xảy ra khủng hoảng trong vụ bầu Kiên thì huy động vốn
năm 2012 tăng khá mạnh, có ngân hàng đạt mức tăng trên dưới 100% so với năm
2011. Nguyên nhân là do tiền gửi tiết kiệm được xem là kênh đầu tư hiệu quả nhất
trong bối cảnh thị trường chứng khoán sụt giảm, bất động sản đóng băng, ngoại tệ ít
biến động còn thị trường vàng thì bị siết chặt do NHNN mạnh tay quản lý.

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 5

Hình 3: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng trong năm 2012

Nguồn: Vietstock.biz

c. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng
Với tình hình kinh tế khó khăn cũng như tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp nhất

trong những năm gần đây đã khiến cho lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong năm 2012 sụt giảm khá mạnh. Tổng lợi nhuận toàn ngành ngân hàng năm 2012
là 28,600 tỷ đồng, sụt giảm gần 50% so với năm 2011. Tình hình lợi nhuận ảm đạm
trong 2012 đã chấm dứt những năm tháng hoàng kim lãi khủng của các ngân hàng.
Hầu hết các ngân hàng đều bị sụt giảm lợi nhuận rất mạnh, ngay cả những ngân hàng
lớn như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, cũng không tăng trưởng đáng kể so với
năm trước, dù vẫn đứng đầu toàn ngành về lợi nhuận.
Có thể điểm qua ba nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận giảm trong năm
2012: do tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 khá thấp, lãi suất cho vay hạ nhiệt, chi
phí dự phòng rủi ro tăng mạnh do nợ xấu gia tăng.
Với những con số lãi lên đến cả ngàn tỷ, tuy nhiên nếu so với lượng vốn và tài
sản khủng thì hiệu suất lợi nhuận các ngân hàng dường như chưa xứng tầm với quy
mô. Xét chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), dẫn đầu vẫn là NH Công
Thương và NH Quân Đội với tỷ lệ 19.83% và 20.17%. Tuy nhiên, với tổng tài sản
khổng lồ, lợi nhuận cơ bản trên tài sản của các ngân hàng đều khá thấp dưới 1.5%,
trong đó, tỷ lệ này của SHB chỉ đạt 0.03%. Lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS) cao nhất
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 6

trong số các ngân hàng thuộc về NH Công Thương khi đạt 2,534 đồng, kế tiếp là NH
Quân Đội với 2,433 đồng.

3. Những khó khăn mà hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đang đối mặt
Nợ xấu đang trở thành vấn đề nhức nhối của hệ thống ngân hàng Việt Nam
cũng như nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tỷ lệ nợ xấu trong năm 2012
đã tăng với tốc độ chóng mặt so với các năm trước khi năm 2008 tỷ lệ nợ xấu chỉ là
2,17% thì đến năm 2012 tỷ lệ nợ xấu đã tăng lên 6%.
Hình 4: Tỷ lệ nợ xấu cả ngành ngân hàng từ 2007 tới tháng 2/2013


Điểm qua tình hình nợ xấu của một số ngân hàng thương mại lớn có thể thấy
hầu hết vẫn duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn dưới 3%. Tuy nhiên cũng có một số
ngân hàng có nợ xấu rất cao như Agribank, SHB hay BaoVietbank. Đồng thời nợ xấu
vẫn đang có xu hướng tăng lên nhất là nhóm nợ có khả năng mất vốn.
Có thể thấy nợ xấu chính là trở ngại lớn nhất hiện nay mà các ngân hàng
thương mại đang gặp phải. Xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản
thân các TCTD mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như
hiện nay cũng đã làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu
cực không chỉ với các TCTD mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong nợ
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 7

xấu, các TCTD không có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt
động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt
bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững.
Xử lý nợ xấu cũng là một trong những mục tiêu quan trọng mà NHNN cần phải
xử lý trong năm 2013. Và vào ngày 26/07/2013, công ty quản lý tài sản Việt Nam
(VAMC) đã được chính thức thành lập sau một thời gian dài được nghiên cứu và thảo
luận. Mặc dù hiệu quả mà VAMC mang lại vẫn cần được kiểm chứng nhưng nó đánh
dấu một nỗ lực lớn của NHNN trong việc xử lý nợ xấu, cải thiện hiệu quả của hệ
thống ngân hàng Việt Nam.

II. Phân tích ngân hàng ACB
1. Tổng quan về ngân hàng ACB.
ACB chính thức đi vào hoạt động từ năm 1993, ACB được xem là ngân hàng
tiên phong trong việc triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại như phát hành các loại
thể tín dụng quốc tế từ những năm thập niên 90 cũng như ứng dụng công nghệ thông
tin hiện đại rất sớm vào các dịch vụ ngân hàng. Đến nay, sau 20 năm hình thành và

phát triển thì ACB đã trở thành ngân hàng có thương hiệu cũng như qui mô lớn trong
hệ thống ngân hàng Việt Nam.
ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (nay là Sở giao
dịch Chứng khoán Hà Nội) theo Quyết định số 21/QĐ-TTGDHN ngày 31/10/2006.
Cổ phiếu ACB bắt đầu giao dịch vào ngày 21/11/2006.
Trong năm 2007, ACB tiếp tục chiến lược đa dạng hóa hoạt động, thành lập
Công ty Cho thuê tài chính ACB; cũng như tăng cường hợp tác với các đối tác như
Công ty Open Solutions (OSI) – Thiên Nam để nâng cấp hệ ngân hàng cốt lõi với
Microsoft về áp dụng công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý; với Ngân hàng
Standard Chartered về phát hành trái phiếu; và trong năm 2008, với Tổ chức
American Express về séc du lịch; với Tổ chức JCB về dịch vụ chấp nhận thanh toán
thẻ JCB. ACB phát hành 10 triệu cổ phiếu mệnh giá 100 tỷ đồng, với số tiền thu được
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 8

là hơn 1.800 tỷ đồng (2007); và tăng vốn điều lệ lên 6,355 tỷ đồng (2008). Đến năm
2010 tăng lên 176,307 tỷ đồng.
Hình 5: Vốn và tài sản của ACB và một số ngân hàng tiêu biểu

Nguồn: (tổng hợp từ BCTC của Acb)
Năm 2012 là một năm đầy sóng gió của ACB với sự kiện ông Nguyễn Đức
Kiên (bầu Kiên), cùng một số nhân vật khác trong ban lãnh đạo ACB bị truy tố hồi
cuối tháng 8/2012.
Sự kiện rúng động mang tên bầu Kiên đã qua đi, dù muốn hay không cũng đã
gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường chứng khoán, ngân hàng trong nước và
những hệ lụy không tránh khỏi với chính ACB.







176,307
179,934
175,610
170,156
151,282
149,206
116,538
503,530
414,475
484,784
-
100,000
200,000
300,000
400,000
500,000
600,000
Vốn điều lệ Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 9

2. Phân tích báo cáo tài chính ACB
Hình 6: Một số chỉ tiêu khái quát của ACB
Năm
2012
2011

2010
2009
2008
Tăng trưởng Tổng tài
sản
-37%
37%
22%
59%
23%
Tăng trưởng vốn chủ
sở hữu
5.56%
5.12%
12.57%
30.13%
24.11%
Tăng trưởng vốn điều
lệ
0%
0%
20.00%
22.94%
141.66%
Tăng trưởng dư nợ
0.01%
17.91%
39.83%
79.02%
9.50%

Tăng trưởng huy động
vốn
-11.94%
32.99%
23.03%
35.35%
16.16%
LDR (tỷ lệ cấp tín
dụng trên huy động
vốn)
82.10%
72.29%
81.54%
71.74%
54.24%
NIM (tỷ lệ thu nhập lãi
cận biên)
3.71%
3.40%
2.72%
2.56%
3.60%
NNIM (tỷ lệ thu nhập
ngoài lãi cận biên)
-0.56%
0.53%
0.87%
1.95%
1.99%
Tỷ trọng thu nhập lãi

thuần/tổng thu nhập
117.76%
86.41%
75.85%
56.75%
64.35%
Tăng trưởng thu nhập
lãi thuần
3.99%
58.69%
48.68%

2.65%

108.09%

Tăng trưởng thu nhập
ngoài lãi thuần
-199.73%
-21.64%
-37.88%
41.25%
-11.61%
Tăng trưởng thu nhập
thuần từ dịch vụ
-14.90%
-0.11%
-4.97%
43.38%
123.63%

Tỷ lệ nợ xấu (NPL)
2.50%
0.89%
0.34%
0.41%
0.89%
Tăng trưởng nợ xấu
180%
214%
15%
-18%
1800%
Tăng trưởng chi phí
DPRRTD
81.5%
20.6%
43.5%
2.6%
357.3%
Tăng trưởng lợi nhuận
trước thuế
-75.19%
35.47%
9.31%
10.84%
20.40%
Tăng trưởng lợi nhuận
sau thuế
-75.6%
37.4%

6.1%
-0.4%
25.6%
ROA
0.4%
1.1%
1.1%
1.3%
2.1%
ROE
6.2%
26.8%
20.5%
21.8%
28.5%
Nguồn: (Tổng hợp từ BCTC của ACB)
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 10

Năm 2012, tổng tài sản của ACB đã giảm 104.000 tỷ đồng (tương đương 37%)
so với cuối năm 2011. Nguyên nhân giảm tài sản đầu tiên là do chủ trương ngừng huy
động và cho vay bằng vàng của Ngân hàng Nhà nước. Trong nửa cuối năm 2012, ACB
đã thanh toán hơn 32.000 tỷ chứng chỉ tiền gửi vàng cho người gửi, nhưng tới cuối năm
số dư khoản mục này vẫn còn 15.500 tỷ (chủ yếu là loại kỳ hạn dưới 12 tháng). Tính
tổng cộng, số dư chứng chỉ tiền gửi vàng giảm 28.000 tỷ trong năm 2012. Cuối tháng
1/2013, ACB đã đóng trạng thái và dứt hoàn toàn nghiệp vụ huy động vàng. Cũng liên
quan tới vàng, ACB đã cắt giảm toàn bộ hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ qua tài
khoản ký quỹ. Bằng chứng là nếu như cuối năm 2011, ngân hàng này vẫn còn số
dư “phải trả khác” hơn 25.000 tỷ, bao gồm hơn 11.000 tỷ vàng đang giữ hộ khách hàng

và 12.500 tỷ phải trả đối tác nước ngoài liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng tài
khoản, thì tới cuối năm chỉ còn gần 2.700 tỷ, tức giảm gần 22.000 tỷ.
Vốn điều lệ của ACB tăng mạnh từ năm 2008 đến năm 2010. Trong vòng 2
năm, vốn điều lệ tăng 48% tương ứng 3,021,152 triệu đồng. Điều đó phù hợp với
chính sách phát triển của ACB cũng như chính sách của NHNN trên lộ trình tăng vốn
điều lệ các NHTM (Để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn theo thông lệ Basel II, NHNN
đã yêu cầu các NHTMCP tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng bắt đầu
thực hiện từ năm 2007 và hạn chót là hết năm 2011).
Vốn tự có tăng mạnh vào năm 2009 (30% so với năm 2008); năm 2010 (13%
so với 2009) chủ yếu do tăng vốn điều lệ, nhờ có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi
nhuận tăng trưởng cao trong giai đoạn này đã kéo theo quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
và lợi nhuận giữ lại tăng lên. Tỷ trọng của các quỹ và lợi nhuận giữ lại trong vốn tự có
dao động từ 18% đến 23% qua các năm.






Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 11

Hình 7: Số liệu nguồn vốn của ACB giai đoạn 2008 - 2012

Nguồn: (tổng hợp từ BCTC)
Một vấn đề đáng lưu ý, tiền gửi khách hàng giảm gần 17.000 tỷ đồng (tương
đương 11.94%) so với năm trước, còn 125.233,6 tỷ đồng. Trong khi đó, dư nợ cho vay
gần như không thay đổi. Qua đó ta thấy cả mức huy động và cho vay đều giảm, chứng
tỏ tình hình hoạt động của ACB trong năm qua không khả quan. Do mức vốn huy

động giảm cao hơn so với mức cho vay nên tỷ lệ cho vay trên tiền gởi năm 2012 tăng
lên, cụ thể tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gởi (LDR) năm 2011 ở mức 72% so với năm
2012 tăng lên 81%.









VỐN TỰ CÓ Đơn vị
2012 2011 2010 2009 2008
1. Vốn điều lệ Triệu đồng 9,376,965 9,376,965 9,376,965 7,814,138 6,355,813
Triệu đồng năm sau vs năm trước - - 1,562,827 1,458,325
% năm sau vs năm trước 0% 0% 20% 23%
Index 148 148 148 123 100
2. Các quỹ Triệu đồng 2,582,364 1,753,237 1,209,552 952,949 713,555
% năm sau vs năm trước 47% 45% 27% 34%
Index 362 246 170 134 100
3. Lợi nhuận chưa phân phối Triệu đồng 665,123 828,890 790,240 1,339,200 697,100
% năm sau vs năm trước -20% 5% -41% 92%
Index 95 119 113 192 100
TỔNG VỐN VÀ CÁC QUỸ Triệu đồng 12,624,452 11,959,092 11,376,757 10,106,287 7,766,468
Triệu đồng năm sau vs năm trước 665,360 582,335 1,270,470 2,339,819
% năm sau vs năm trước 6% 5% 13% 30%
Index 163 154 146 130 100
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB


GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 12

Hình 8: Tình hình huy động vốn và cho vay của ACB

Nguồn: (tổng hợp từ BCTC)
Mặc dù dư nợ cho vay gần như không thay đổi, song nợ xấu lại tăng đáng kể,
nhất là nợ có khả năng mất vốn. Cụ thể, nợ dưới tiêu chuẩn tăng gấp 2,7 lần lên
747,22 tỷ đồng, nợ nghi ngờ tăng gần gấp đôi lên 673,36 tỷ đồng và nợ có khả năng
mất vốn tăng gần gấp 4 lần năm 2011 lên 1.150,39 tỷ đồng, chiếm gần 45% tổng nợ
xấu. Tổng nợ xấu của ACB tính đến cuối năm 2012 ở mức 2.570,97 tỷ đồng, tăng gấp
2,7 lần so năm 2011 và chiếm 2,5% tổng dư nợ. Năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của ACB chỉ
là 0,89%. Dẫn đến việc gia tăng các khoảng chi phí dự phòng rủi ro tài chính (tăng
81.5%) so với năm 2011.
9.5%
79.0%
39.8%
17.9%
0.0%
16.2%
35.4%
23.0%
33.0%
-11.9%
54.2%
71.7%
81.5%
72.3%
82.1%
-20%
0%

20%
40%
60%
80%
100%
2008 2009 2010 2011 2012
Tăng trưởng dư
nợ
Tăng trưởng huy
động vốn
LDR (tỷ lệ cấp tín
dụng trên huy
động vốn)
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 13


(Nguồn: dantri.com.vn)
Trong thuyết minh BCTC năm 2011, cơ quan kiểm toán từng chú thích số dư
tiền gửi khách hàng của ACB bao gồm hơn 23.000 tỷ tiền ký quỹ hoặc phong tỏa để
đảm bảo các khoản phải thu liên quan đến vàng. Không thấy thuyết minh nào về
khoản mục kể trên trong BCTC mới nhất. Một chấm hỏi lớn đang được đặt ra ở khoản
mục này.
ACB cũng gây nhiều sự chú ý khi lợi nhuận sau thuế năm 2012 chưa đến ngàn
tỷ (928 tỷ đồng), giảm 71% so với năm trước. Ngân hàng này đã ngậm phải “quả
đắng” từ lĩnh vực kinh doanh vàng và ngoại hối với khoản lỗ ghi nhận đến 1,864 tỷ
đồng, đầu tư chứng khoán cũng góp phần lỗ hơn 200 tỷ đồng trong khi dự phòng rủi
ro tín dụng cao hơn gấp đôi ở mức gần 490 tỷ đồng. Với kết quả trên, ACB mới chỉ
thực hiện 22% kế hoạch lợi nhuận trước thuế.

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 14


Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng lỗ nặng 612,4 tỷ đồng, trong khi cùng
kỳ năm trước đó gặt lãi thuần 26,2 tỷ đồng. Trong năm 2012, riêng mảng kinh doanh
này của ACB lỗ thuần tới 1.863,64 tỷ đồng, tăng mạnh so con số lỗ năm trước trên
160 tỷ. Phần lớn do chính việc lỗ trong kinh doanh ngoại hối và vàng này đã làm cho
lợi nhuận trước và sau thuế giảm đáng kể tương đương 75%. Khoản lỗ này cũng làm
cho ROA và ROE thấp hơn rất nhiều so với các năm trước. Cụ thề năm 2012, ROA
chỉ đạt 0.4% so với ROA trong khoản thời gian 2008-2012 đều đạt trên 1%; ROE chỉ
cán mốc 6.2% so với ROE các năm trước (2008-2012) đều ở mức trên 20%. Tỷ số
ROE của ACB nằm trong top các ngân hàng có ROE thấp nhấp so với các ngân hàng
khác.






Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 15

Hình 9: Chỉ số ROE của một số ngân hàng tiêu biểu và trung bình ngành

Nguồn: saga.vn
Theo báo cáo tài chính bán niên năm 2013 của ACB vừa công bố báo cáo tài
chính hợp nhất, thì tình hình kinh doanh vẫn chưa được cải thiện, thu nhập lãi thuần 6

tháng giảm 36,81% và lợi nhuận sau thuế hợp nhất giảm tới 55,46% so với cùng kỳ
năm 2012. Bên cạnh đó nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) của các ngân hàng này
đã tăng đến 55% trong sáu tháng đầu năm.
Trong đó, lãi thuần từ hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư đạt 128 tỷ đồng,
trong khi cùng kỳ khoản này lỗ hơn 6,4 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ACB đã có lãi 30,3 tỷ
đồng từ hoạt động kinh doanh vàng và ngoại hối trong khi cùng kỳ 2012 lỗ gần 174 tỷ
đồng, tuy nhiên lũy kế 6 tháng đầu năm 2013 vẫn lỗ 53,6 tỷ đồng, giảm 49,7 so với
mức lỗ 106,7 tỷ đồng của cùng kỳ. Trong khi đó, công ty chỉ đạt được 14,6 tỷ đồng từ
hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh, giảm 84,66% so với quý II/2012.





Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 16

Hình 10: So sánh lợi nhuận nửa đầu năm 2013 và 2012

Nguồn: saga.vn
3. Phân tích lưu chuyển tiền tệ
Hình 11: Khái quát lưu chuyển tiền tệ của ACB qua các năm
(đvt: triệu đồng)

2012
2011
2010
2009
2008

I. Lưu chuyển
tiền từ hoạt
động kinh
doanh
(39,583,701)
19,468,310
1,440,787
14,981,215
2,248,409
II. Lưu chuyển
tiền thuần từ
hoạt động đầu

96,744
(778,527)
(2,275,468)
372,877
(654,713)
III. Lưu chuyển
tiền từ hoạt
động tài chính
(1,875,393)
(656,387)
(937,697)
(1,131,335)
527,027
Nguồn: (Tổng hợp từ BCTC của ACB)

Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB


GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 17

Hình 12: Cơ cấu dòng tiền của ACB

Nguồn: (Tổng hợp từ BCTC của ACB)

a. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Trong năm 2012, các nhà đầu tư chứng kiến một sự sụt giảm vô cùng lớn từ dòng
tiền hoạt độnh kinh doanh của ACB từ 19,468 tỷ đồng năm 2011 xuống còn – 39,583 tỷ
đồng năm 2012. Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng cũng như của các tổ chức tín
dụng khác rút tiền ra khỏi ACB. Các TCTD khác đã rút khỏi ACB hơn 24.000 tỷ, nhưng
có lẽ phần nhiều là do thanh khoản trên thị trường khó khăn nên các ngân hàng khác rút
tiền về phòng thủ. Bằng chứng là hầu hết tiền đều rút về trong Quý I và Quý IV/2012,
riêng với Quý III (thời điểm xảy ra vụ bầu Kiên), số dư này còn tăng.
Bản thân ACB năm vừa rồi cũng rút gần 60.000 tỷ khỏi các TCTD khác trong
đó có 25.000 tỷ được rút ra ngay trong Quý I/2012. Trong 6 tháng cuối năm, ngân
hàng này lại rút tiếp 36.000 tỷ, có lẽ phần nhiều là để phục vụ mục đích mua vàng trả
cho người gửi.
Động thái thận trọng kể trên của ACB có lẽ còn là do thị trường liên ngân hàng
2012 đã chứng kiến một số vụ “nợ xấu”, thậm chí là lừa đảo như vụ Huyền Như. Khả
(40,000,000)
(30,000,000)
(20,000,000)
(10,000,000)
-
10,000,000
20,000,000
2008 2009 2010 2011 2012
I. Lưu chuyển tiền từ hoạt
động kinh doanh

II. Lưu chuyển tiền thuần từ
hoạt động đầu tư
III. Lưu chuyển tiền từ hoạt
động tài chính
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 18

năng thu hồi 718 tỷ của ACB trong vụ này“tùy thuộc vào quyết định của Tòa án”,
như chú thích trong BCTC Quý IV/2012 của ACB.
Quý III là giai đoạn xảy ra nhiều “biến cố” tại ACB, khi nguyên phó chủ tịch
Hội đồng sáng lập Nguyễn Đức Kiên và nguyên Tổng giám đốc Lý Xuân Hải bị bắt
giữ, tiếp đó là đến nguyên chủ tịch HĐQT Trần Xuân Giá cùng với hai nguyên phó
chủ tịch Trịnh Kim Quang và Lê Vũ Kỳ bị khởi tố điều tra về tội cố ý làm trái gây hậu
quả kinh tế nghiêm trọng.
Những thông tin xấu đến với ACB khiến cho lượng khách hàng đến ngân hàng
này rút tiền, vàng và ngoại tệ tăng mạnh. Sau đó nhà băng đã phải đưa ra một loạt các
chính sách ưu đãi nhằm hút khách trở lại nhưng vẫn chưa thể bù đắp.
Không những thế tình hình ở ACB trở nên khó khăn hơn khi đây là một trong
những ngân hàng có hoạt động kinh doanh vàng và ngoại hối lớn nhất. Thông tư 12
của NHNN quy định việc phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của TCTD phải
chấm dứt vào ngày 25/11/2012 đã khiến cho ngân hàng này phải tăng cường mua
vàng ở ngoài thị trường để cân bằng trạng thái.
Nhiều ý kiến cho rằng, không loại trừ khả năng trước đây, khi giá vàng đi
ngang trong một thời gian dài ở quanh vùng 41 – 42 triệu đồng/lượng, nhiều ngân
hàng trong đó có ACB đã chuyển vàng sang tiền mặt để có lãi cao hơn. Đến nay, khi
hạn 25/11 tới gần và NHNN không có ý định gia hạn lần thứ 4 cho hoạt động huy
động vàng của các TCTD, cũng là lúc giá vàng tăng cao, ngân hàng lại không được
nhập khẩu để bù đắp phần thiếu hụt, buộc ACB phải mua vàng với giá cao hơn thế
giới tới 3 triệu đồng/lượng để kịp tất toán đúng hạn.

Ông Đỗ Minh Toàn, Tổng giám đốc ACB cho biết, tổng dư nợ liên quan đến
ông Kiên, nguyên Chủ tịch Hội đồng đầu tư của ACB tại Ngân hàng là 9.400 tỷ đồng,
với tài sản đảm bảo bao gồm số dư tiền gửi, cổ phiếu, bất động sản và vàng. Trong đó,
ACB đã thu hồi được 2.400 tỷ đồng. Đối với khoản nợ của CTCP Thủy sản Bình An,
ACB đã xử lý toàn bộ, bán nợ và thu hồi toàn bộ. Còn khoản vay của Vinalines đang
giảm dần xuống còn 700 tỷ đồng, có tài sản đảm bảo, hiện Vinalines vẫn trả một phần
lãi cho ACB.
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 19

Đối với khoản tiền gửi hơn 700 tỷ đồng tại Vietinbank, ACB nhận định, có khả
năng thu hồi đầy đủ. Theo ông Toàn, đến thời điểm này,. Riêng khoản đầu tư tại
VietBank, ACB sở hữu chưa đến 5% và ACB sẽ thoái hết vốn tại VietBank.
Lãi thuần từ mua bán chứng khoán kinh doanh cũng giảm mạnh, mất tới 82%
so cùng kỳ và chỉ còn 19,4 tỷ đồng trong quý IV/2012. Tuy nhiên, kết quả cả năm vẫn
đạt 256 tỷ đồng lãi thuần, gấp 3,6 lần năm 2011.
Mua bán chứng khoán đầu tư quý vừa rồi lỗ thuần 211 tỷ đồng, thiệt hại nặng
hơn gấp 15 lần so quý IV/2011, khiến cả năm, mảng này lỗ thuần 213 tỷ đồng so mức
lãi thuần đạt được năm 2011 là 82,5 tỷ đồng.
Trong quý vừa rồi, ACB hoàn nhập dự phòng gần 90 tỷ đồng, tăng gấp hơn 10
lần so cùng kỳ, song lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước dự phòng rủi ro
tín dụng vẫn bị âm 305,2 tỷ đồng; cùng kỳ lãi 1.629,2 tỷ đồng.

b. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Hiện nay, ACB đã chuyển nhượng sở hữu ở các ngân hàng Eximbank (EIB), Đại
Á (DaiABank), Kiên Long (KienLongBank) và đang thương thảo số cổ phần nắm giữ
ở Vietbank (Ngân hàng Việt Nam Thương Tín). Hầu hết những khoản đầu tư trên đều có
lời ở mức độ khác nhau và việc thoái vốn củng cố tiềm lực tài chính của ngân hàng.
Dòng tiền đầu tư của từ năm 2008 -2012 CTCK Ngân hàng Á châu (ACBS)

công bố thông tin đã bán 9,75 triệu cổ phiếu EIB vào ngày 6/11/2012, chỉ còn nắm giữ
khoảng 48,5 triệu đơn vị (chiếm 3,93% vốn điều lệ). Như vậy từ nay ACBS không
còn là cổ đông lớn và các giao dịch tiếp theo nếu không làm tăng sở hữu EIB lên 5%
thì ACBS không cần phải công bố thông tin.
Đối với khoản tiền gửi hơn 700 tỷ đồng tại Vietinbank, ACB nhận định, có khả
năng thu hồi đầy đủ. Riêng khoản đầu tư tại VietBank, ACB sở hữu chưa đến 5% và
ACB sẽ thoái hết vốn tại VietBank.


Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 20

c. Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Những năm trước đây, ACB vẫn là một trong những ngân hàng trả cổ tức đều
đặn và với tỷ lệ cao trong ngành ngân hàng. Năm 2010, ACB chi trả cổ tức với tỷ lệ
20% bằng tiền mặt. Dẫn đến việc dòng tiền tài chính năm 2012 của ACB dùng để chi
trả cổ tức 2011 đã tăng khá nhiều so với các năm trước đó. Vậy đâu là nguyên nhân
dẫn đến việc chi trả cổ tức cao ACB trong thời gian gần đây? Những lý do khá phổ
biến để giải thích cho tình huống trên là:
(1) Khả năng hoạt động kinh doanh tăng trưởng thấp. Vì vậy, công ty chỉ
sử dụng một tỷ lệ lợi nhuận giữ lại rất nhỏ để tái đầu tư, còn lại trả cổ tức
cho cổ đông. Năm 2012 được đánh giá là năm khó khăn cho hoạt động của
các doanh nghiệp. Việc mở rộng kinh doanh xem ra khó đem lại lợi nhuận
như mong muốn, và nhiều công ty đành làm hài lòng cổ đông bằng cách
chia cổ tức tiền mặt.
(2) Thuế thu nhập cá nhân: mức thuế 5% đối với cổ tức theo quy định luật
thuế hiện hành cũng rất nhỏ so với thuế áp dụng đối với các khoản mục thu
nhập (thường xuyên) khác.
(3) Cố gắng làm hài lòng cổ đông trong bối cảnh khó khăn. Thị trường

chứng khoán liên tục sụt giảm, hầu hết các nhà đầu tư đều thua lỗ nặng.
Việc ACB chi trả cổ tức cao trong thời điểm khó khăn cũng phần nào giảm
bớt khó khăn về tiền mặt cho cổ đông.








Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 21

4. Phân tích giá trị thị trường của cổ phiếu
a. EPS
Hình 14: Số liệu EPS qua các năm
Năm
2012
2011
2010
2009
2008
EPS
666
3,280
2,861
3,042
3,563

Nguồn: stockbiz
Năm 2012, EPS của ACB có mức giảm đáng kể từ 3,280 đồng/cổ phiếu năm
2011 xuống còn 666 đồng/cổ phiếu năm 2012 (tương đương mức giảm 79.69%). Đây
cũng chính là một phần hệ quả của việc kinh doanh ngoại hối và vàng bị thua lỗ nhận
trong năm 2012 đã làm cho thu nhập trước và sau thuế của ACB giảm mạnh ảnh
hưởng đến chỉ số EPS của ngân hàng. Cụ thể năm 2012, Ngân hàng ACB đạt mức lợi
nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước chi phí dự phòng rủi ro tín dụng là 1.480
tỷ đồng, giảm mạnh so với 4.455 tỷ đồng của năm 2011. Chi phí dự phòng rủi ro tăng
hơn 80% và chi phí hoạt động tăng 38%. Lợi nhuận trước thuế chỉ đạt 963 tỷ đồng,
giảm mạnh so với 4.174,6 tỷ của năm 2011.

b. Tỷ lệ chi trả cổ tức
Hình 15: Tỷ lệ chi trả cổ tức qua các năm
Năm
2012
2011
2010
2009
2008
Tỷ lệ chi trả cổ tức
6.85%
20%
15%
17.8%
25%
Nguồn: stockbiz
Qua các năm ta thấy tỷ lệ chi trả cổ tức của ACB khá ổn định. Tuy nhiên đến
năm 2012 do ảnh hưởng chung của nền kinh tế nói chung đang rơi vào tình trạng khó
khăn cùng với việc kinh doanh ngoại hối và vàng thua lỗ khá nhiều như đã được đề
cập ở các phần trên cùng với các quy định về vấn đề thắt chặt việc chi trả cổ tức được

đưa ra trong phiên thảo luận Quốc hội sáng ngày 31/10/2012, Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Nguyễn Văn Bình khẳng định "Đến cuối năm nay, ngân hàng nào không
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 22

trích lập đủ dự phòng rủi ro thì không được chia cổ tức. Ngân hàng nhà nước sẽ có
biện pháp thanh tra giám sát cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng trước tiên
để giải quyết nợ xấu".đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ chi trả cổ tức. Chịu
sự ảnh hưởng không nhỏ từ các vấn đề trên đã làm cho tỷ lệ chi trà cổ tức của ACB
giảm đáng kề chỉ còn 6,85% so với năm 2011 là 20%. Như vậy với gần 940 triệu cổ
phiếu đang lưu hành và mức chi trả cổ tức năm 2012 ở tỷ lệ 6,85%, ngân hàng Á Châu
dự kiến chi trên 640 tỷ đồng cho cổ đông.

c. Tỷ số giá thị trường trên thu nhập P/E
Hình 16: Số liệu P/E qua các năm
Năm
2012
2011
2010
2009
2008
P/E
24.77
6.58
8.94
12.19
8.56
Nguồn: stockbiz
Nhìn chung tỷ số P/E của ACB không có sự biến động nhiều từ năm 2008 –

2011.Đến năm 2012, giới đầu tư đã chứng kiến hàng loạt biến động của ngành ngân
hàng. Sự kiện “bầu Kiên” bị bắt khiến thị trường chứng khoán chao đảo. Chỉ trong
vòng 3 ngày, thị trường đã bốc hơi hơn 3,1 tỷ USD, nhà đầu tư hoảng loạn, lệnh bán
tháo ồ ạt. Bất chấp sự trấn an của lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thị trường
vẫn tiếp tục đi xuống. Cổ phiếu của các ngân hàng như EIB, ACB, STB bị bán mạnh
và giảm sàn trong nhiều phiên liên tiếp. Cổ phiếu ACB là một trong những mã chịu
tác động mạnh mẽ nhất từ sự kiện trên. Trong vòng 5 ngày mã này giảm gần 24%.
Những tin đồn liên quan tới các đại gia ngân hàng trong thời gian sau đó cũng kéo các
cổ phiếu ngân hàng tiếp tục chìm sâu. Mặc dù EPS cũng nhứ giá cổ phiếu của ACB
đều giảm nhưng mức giảm của EPS nhiều hơn so với mức giảm của giá cổ phiếu đã
góp phần làm cho tỷ số P/E đã tăng khá cao so với năm 2011.



Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 23

5. Đo lường rủi ro
a. Rủi ro tín dụng
Hiện nay, nợ xấu đang trở thành vấn đề nhức nhối của hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng như nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Sau khi trải qua giai
đoạn phát triển nóng của nền kinh tế với việc tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao thì
khi khủng hoảng kinh tế xảy ra tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam với sự suy
giảm xuất khẩu, dẫn đến tình trạng ngừng hoạt động, giải thể, phá sản doanh nghiệp
(DN) và các khó khăn khác đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN thuộc
mọi thành phần kinh tế và mọi ngành hàng. Khủng hoảng kinh tế cũng đã tác động
làm vỡ khối bong bong tài sản trên thị trường bất động sản. Các nhân tố này đã góp
phần làm cho tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng khá mạnh.


Hình 16: Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ

Nguồn: (tổng hợp từ BCTC)
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của ACB tương đối thấp so với các ngân hàng
khác trong giai đoạn 2008 – 2011. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tăng mạng vào năm 2012,
nguyên nhân cũng là do hàng loạt các biến cố mà ACB phải đối mặt trong năm 2012
này. Các biến cố này khiến cho khách hàng lũ lượt đến ngân hàng để rút tiền, ngoại tệ
và vàng như đã đề cập ở các phần trên. Một trong những cách để giảm bớt rủi ro là
Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 24

ACB đã tăng mức dự phòng rủi ro năm 2012 lên gấp 4 lần so với năm 2011 (từ 21.5%
lên 81.5%).
Hình 17: Tỷ lệ dự phòng RRTD/Tổng dư nợ

Nguồn: (tổng hợp từ BCTC)
Mặc dù năm 2012 ACB có tỷ lệ nợ xấu tương đối thấp hơn so với các ngân
hàng hàng khách nhưng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/ Tổng dư nợ của ACB trong
thời gian này vẫn ở mức cao, cho thấy dự phòng của ngân hàng vẫn đủ khả năng bù
đắp cho nợ xấu. Tính đến thời điểm hiện tại, ACB đã sẵn sàng bán khoảng 1.500 tỷ
đồng nợ xấu cho Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC). Lý do chủ yếu là để
giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn để quay vòng cho hoạt động kinh doanh.
Tỷ lệ nợ xấu của ACB đã tăng từ mức 2,5% năm 2012 lên gần 2,9% vào quý
II/2013. Cụ thể, con số nợ xấu vào khoảng 3.090 tỷ đồng. Nghĩa là ACB mong muốn
bán được khoảng một nửa số nợ xấu hiện tại.
ACB cũng là ngân hàng đầu tiên lên tiếng về việc bán nợ xấu cho VAMC, mặc
dù mức nợ xấu dưới 3%, nghĩa là không thuộc diện bắt buộc phải bán nợ.




Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Á Châu - ACB

GVPT: TS Trương Quang Thông Nhóm 7 – Lớp TCDN ngày – K22 25

Hinh 18: So sánh nợ xấu giữa ACB và một số ngân hàng khác

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu và dự phòng rủi ro tín dụng trong tổng vốn chủ sở hữu
khá lớn, qua đó ta thấy, năm 2012, ngân hàng này phải đối diện với rủi ro tín dụng
rất cao. Tính đến 6 tháng đầu năm 2013 thì tín dụng của ACB tăng 7,4% so với hồi
đầu năm, nhưng nợ xấu của Ngân hàng lại có tốc độ tăng nhanh hơn. Theo thuyết
minh báo cáo tài chính giữa niên độ hợp nhất của ACB, cuối quý II, Ngân hàng có tới
3.302 tỷ đồng nợ xấu, tăng 28,5% so với 2.570 tỷ đồng của cùng kỳ năm ngoái và
chiếm 2,99% trên tổng dư nợ. Đáng chú ý là nợ nhóm 4 và nhóm 5 (nhóm có khả
năng mất vốn) tăng mạnh, với 946 tỷ đồng nợ nghi ngờ và 1.782 tỷ đồng nợ có khả
năng mất vốn đến thời điểm 30/6, tăng lần lượt 40,6% và 55% so với cuối năm 2012.







×