Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận luật hợp đồng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.32 KB, 29 trang )

Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



1






Tiểu luận
Luật hợp đồng thương mại quốc tế

Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



2

DẪN NHẬP
Như chúng ta đã biết thì hợp đồng là một công cụ vừa chia sẻ lợi ích, vừa là công
cụ chia sẻ rủi ro, tại thời điểm giao kết hợp đồng lợi ích của hai bên là ngang bằng nhau
vì họ đã tự nguyện thỏa thuận, đôi bên cùng có lợi. Theo đó, yêu cầu các bên trong hợp
đồng không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm đến lợi ích của đối tác để
cả hai cùng có lợi và bình đẳng ở góc độ nào đó. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức
các bên tham gia sẽ chỉ ký hợp đồng nếu có lợi, và vì vậy nếu một bên không những
không được lợi mà còn thiệt hại thì sẽ chẳng cần tham gia. Trong hơp đồng nếu không
quy định quyền thương lượng lại, thì dựa trên nguyên tắc thiện chí, các bên vẫn có thể
thương lượng lại hợp đồng để cân bằng lợi ích khi một bên bị thiệt hại lớn do sự thay đổi
của bối cảnh. Do vậy, việc ghi nhận quyền thương lượng lại không phải là vô nghĩa và


hoàn toàn không trái với bản chất của hợp đồng - một sự thỏa thuận có lợi cho các bên
tham gia.
Trong thực tế, để hiện thực hóa nguyên tắc này, các bên thường đưa quyền thương
lượng lại vào hợp đồng bằng một điều khoản đặc biệt, điều khoản hoàn cảnh khó khăn
(hay điều khoản hardship), cho phép một bên có quyền thương lượng lại hợp đồng khi
bối cảnh thay đổi khiến bên đó bị bất lợi đáng kể nếu tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng đã
ký kết. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, do điều kiện hoàn cảnh luôn thay đổi
trong các thời điểm khác nhau vì thế cán cân lợi ích của hợp đồng sẽ luôn thay đổi và
không còn ngang bằng nhau nữa. Như vậy thì pháp luật có cần can thiệp để làm cho lợi
ích của các bên được đảm bảo hay không cần can thiệp vì nếu can thiệp nó sẽ trái với
nguyên tắc “pacta sunt servanda”. Từ bao đời nay ai cũng biết rằng xã hội muốn phát
triển cần có sự ổn định, sự cân bằng giữa các lực lượng và có sự tương quan với nhau. Do
đó pháp luật cần can thiệp để phù hợp cho sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên
theo thời gian có nhiều trường hợp trên thực tế cho thấy nguyên tắc “pacta sunt servanda”
không còn phù hợp ở một số trường hợp nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc
này khi có điều kiện hoàn cảnh thay đổi gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên liên quan
trong hợp đồng, gây mất cân bằng kinh tế giữa quyền và lợi ích của các bên liên quan
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



3

trong hợp đồng. Vì vậy nguyên tắc “rebus sunt stantibus” được hình thành như một cơ
chế để các bên liên quan viện dẫn để thay đổi nội dung cho phù hợp với sự thay đổi của
hoàn cảnh, điều kiện của xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.


























Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



4

1. Khái niệm Hardship.
Hardship - hiểu nôm na là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp đồng có
quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh

tế, tới mức gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm mất đi cân bằng
kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn
kém. Theo đó, điều khoản hardship quy định những cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực
hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án điều chỉnh hoặc nếu không điều chỉnh
được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong
hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế.

2. Điều khoản Hardship.
Hợp đồng dưa trên sự thỏa thuận,thống nhất ý chí của các bên. Như vậy nền tảng
của mọi hợp đồng chính là sự cân bằng lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng đó.
Nhưng có những trường hợp sự cân bằng trên bị phá vỡ và để bảo vệ cho quyền lợi của
bên bị thiệt hại thì xuất hiện những điều khoản cho phép thỏa thuận lại hợp đồng. Đó
chính là đặc điểm quan trọng của điều khoản hardship. Khi có những thay đổi xảy ra như
có biến động về giá cả thị trường dẫn đến việc môt bên găp khó khăn có thể dẫn đến phá
sản thì không bên nào muốn chịu thiệt hại và vì thế họ tiến hành điều chỉnh hợp
đồng.Vẫn có khả năng hợp đồng bị hủy bỏ nhưng việc điều chỉnh có nhiều ưu điểm như
không cần tốn thêm chi phí để thỏa thuận lại hợp đồng mới, bên mua vẫn mua được thứ
mà mình cần, không mất đi các mối quan hệ trong làm ăn kinh doanh…. Khái niệm về
hardship trên thực tế đã xuất hiện từ lâu nhưng có vẻ còn mới mẻ trong thực tiễn thực
hiện hợp đồng thương mại quốc tế. Nguyên nhân như sau:
 Điều khoản hardship không được quy định cụ thể trong pháp luật quốc gia để dẫn
chiếu vào hợp đồng.Trong thực tiễn thương mại quốc tế thuật ngữ “hardship”
được sử dụng trong bảng tiếng Pháp của Bộ nguyên tắc UNIDROIT và trong bộ
nguyên tắc luật hợp đồng chung châu âu đã được chấp nhận rộng rãi
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



5


 Điều khoản hardship có hiệu lực khi các bên thỏa thuận nó trong hợp đồng.Trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận nhưng nếu chọn luật quốc gia thành viên
của tổ chức quốc tế như Unidroit thì hardship vẫn được áp dụng.
 Việc phân định luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế không hề dễ dàng
,và việc xem xét tình huống nào áp dụng hardship cũng phức tạp.
Các trường hợp áp dụng điều khoản hardship theo quy định tai điều 6.2.1;6.2.2;6.2.3
của UNIDROIT trong Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế 2004 như sau:
“Hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân
bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do
giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống, và:
(i) Các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp
đồng
(ii) Bên bị bất lợi đã không thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết
hợp đồng
(iii) Các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi
(iv) Rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu
(v) Khó khăn trở ngại chỉ được chấp nhận cho những nghĩa vụ chưa được thực hiện
 Các trường hợp được ghi nhận như sau:
2.1. Các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao
kết hợp đồng
Nếu một bên trong hợp đồng đã biết hoặc nghĩa vụ phải biết các sự kiện đó khi giao
kết hợp đồng thì bên đó phải tính đến các sự kiện đó. Do vậy, sau này khi xẩy ra sự kiện,
bên đó không thể viện dẫn đây là trường hợp khó khăn trở ngại
Vụ việc:
Hợp đồng mua bán thép giữa Cty Pháp ( Scafom International BV)- người bán và Cty Hà
Lan (Lorraine Tubes S.A.S)- người mua. Tranh chấp phát sinh khi giá thép trên thị
trường tăng 70% khiến hai bên bất đồng về việc điều chỉnh giá trong hợp đồng. Tranh
chấp được giải quyết tại Tòa phá án (Cour de Cassation) của Bỉ, số C.07.0289.N, ngày
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn




6

19/6/2009. Hợp đồng được điều chỉnh bởi Công ước Vienna năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế (CISG) và Bộ Nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế.
Tranh chấp về giá:
Người mua Hà Lan đã ký một số hợp đồng với người bán Pháp về việc giao ống thép.
Sau đó, giá thép bất ngờ tăng 70%. Hợp đồng không bao gồm điều khoản điều chỉnh giá.
Người bán cho rằng gặp khó khăn do giá thép tăng và yêu cầu đàm phán lại giá hợp đồng.
Tuy nhiên, người mua không chấp nhận và muốn người bán giao hàng theo giá hợp đồng
vì hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá.
Phiên tòa đầu tiên thừa nhận rằng sự tăng giá không lường trước được đã dẫn đến một sự
mất cân bằng nghiêm trọng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng với giá hợp đồng sẽ làm
người bán thiệt hại, trừ khi người bán có quyền đàm phán lại giá. Công ước Vienna
không có quy định cụ thể cách xử lý trong trường hợp khó khăn làm mất cân bằng
nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng. Tuy vậy, Toà phá án của Bỉ chỉ ra rằng thực tế là điều
79 (1) Công ước Vienna quy định rõ ràng về bất khả kháng như một sự kiện miễn trách
không có nghĩa là nó hoàn toàn tuyệt đối loại trừ những khó khăn xác đáng và khả năng
đàm phán lại giá như trường hợp đang giải quyết. Thứ nhất, theo quan điểm của toà án,
một sự thay đổi không lường trước được như trường hợp đang giải quyết có thể tạo thành
một sự kiện miễn trách theo điều 79 (1) Công ước Vienna. Thứ hai, toà án nhắc lại rằng
theo điều 7 (1) và 7 (2) Công ước Vienna, công ước được bổ sung bởi những nguyên tắc
chung mà từ đó công ước được hình thành, đồng thời cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc
thiện chí trong thực hiện hợp đồng.
Toà án đã quyết định áp dụng Bộ Nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương
mại quốc tế để bổ sung cho Công ước Vienna. Theo điều 6.2.2 của Bộ Nguyên tắc này,
một bên có thể yêu cầu bên kia đàm phán lại nếu có những sự kiện xảy ra làm thay đổi cơ
bản sự cân bằng của hợp đồng (những trường hợp như vậy được gọi là hardship - tạm

dịch là hoàn cảnh khó khăn). Hơn nữa, nguyên tắc thiện chí trong kinh doanh quốc tế
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



7

cũng yêu cầu các bên phải hợp tác để cùng khắc phục những khó khăn trong quá trình
thực hiện hợp đồng.
Với những lập luận trên, Tòa phá án Bỉ cho rằng người bán có quyền yêu cầu đàm
phán lại giá và bác bỏ khiếu kiện của người mua.

2.2. Bên bị bất lợi đã không thể tính đến các sự kiện đó một cách hợp lý khi
kí kết hợp đồng.
Trường hợp này,các sự kiện phải mang tính khách quan mà các bên phải không thể
biết và lường trước được khi kí kết hợp đồng. Tức phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây
 Tính khách quan của sự kiện: Sự kiện diễn ra không phải là do ý muốn chủ quan
của con người.
Ví dụ : Trong một hợp đồng mua bán hàng hóa giữa A và B, giá trị của hợp đồng
được các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng là đồng tiền của nước C, sau một thời
gian thực hiện hợp đồng, khủng hoảng chính trị đã xảy ra tại nước C và đã làm cho
đồng tiền của nước này mất giá hơn 80% so với giá trị của nó trước khi A và B kí
hợp đồng. Trừ khi hoàn cảnh cho phép xác định khác, việc mất giá này được coi là
trường hợp khó khăn trở ngại vì sự mất giá đột biến của đồng tiền nước C được
xem là sự kiện khách quan.
 Sự kiện mà các bên trong hợp đồng không thể biết và không thể lường trước được
khi kí kết hợp đồng. Điều này có nghĩa là các bên không thể dự báo trước được
khó khăn xảy ra, sự kiện khách quan lúc này vượt ngoài khả năng lường trước của
các bên trong hợp đồng.
Chẳng hạn như trường hợp: Bên A và Công ty B có một hợp đồng mua bán xe ô

tô tải.Tới thời hạn thực hiện hợp đồng, công ty B mời A đến nhận xe nhưng đòi
tăng giá xe lên thêm 30 triệu đồng so với ban đầu, với lý do: ” công ty có cam kết
không tăng giá xe nhưng đến thời điểm giao xe thì nhà nước áp dụng quản lý khí
thải xe theo quy chuẩn nên mới buộc phải điều chỉnh giá xe. Nếu bà A không chịu
nhận xe giá cao hơn vì chất lượng tốt hơn,công ty sẵn sàng trả lại tiền cọc cộng lãi
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



8

suất ngân hàng đối với số tiền mà bà A đã nộp cho cty”. Theo tôi, lý do côn ty B
nêu ra trên đây chỉ là những vướng mắc của công ty, không phải là sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan để cty được quyền giao xe chậm và tăng giá xe.
Như vậy, chúng ta cần phân biệt đâu là sự kiện khách quan không thể lường trước
được của các bên chủ thể trong hợp đồng.

2.3. Các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi.
Nằm ngoài sự kiểm soát của các bên thường được hiểu là sự tác động khách quan
không do ý muốn chủ quan của các bên trong hợp đồng. Do vậy, trong một trường
hợp cụ thể, các sự kiện và hoàn cảnh xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi
trên thực tế,không do lỗi của bên bị bất lợi.Vì vậy, bên gặp bất lợi có quyền yêu cầu
đàm phán lại điều khoản khó khăn như là một hình thức thiết lập lại tính công bằng vì
quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng.
Ví dụ: Người mua Hà Lan đã kí hợp đồng với người bán Pháp về việc giao ống
thép.Sau đó giá thép bất ngờ tăng 70% .Hợp đồng không bao gồm điều khoản về điều
chỉnh giá.Người bán cho rằng gặp khó khăn do giá thép tăng và yêu cầu đàm phán lại
hợp đồng.Tuy nhiên,người mua không chấp nhận và muốn người bán giao hàng theo
giá hợp đồng vì hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá.
Phiên tòa đầu tiên thừa nhận rằng sự tăng giá không lường trước được đã dẫn đến một

sự mất cần bằng nghiêm trọng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng với giá hợp đồng sẽ
làm người bán bị thiệt hại,trừ khi người bán có quyền đàm phán lại giá.tòa đã áp dụng
bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế để bổ sung cho công ước
Viên.Theo điều 6.2.2 của bộ nguyên tắc này,một bên có thể yêu cầu bên kia đàm phán
lại nếu có những sự kiện làm thay đổi sự cân bằng cơ bản của hợp đồng.Hơn nữa
nguyên tắc thiện chí trong kinh doanh quốc tế cũng yêu cầu rằng các bên phải hợp tác
để cùng khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Với những lập luận trên,tòa án Bỉ cho rằng người bán có quyền yêu cầu đàm phán lại
giá và bác bỏ khiếu kiện của người mua.
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



9

2.4. Rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu.
Về nguyên tắc,sẽ không có “ khó khăn trở ngại” nếu bên bị bất lợi phải gánh chịu
rủi ro về sự thay đổi của hoàn cảnh theo thỏa thuận trong hợp đồng.sự gánh chịu rủi
ro được hiểu hoặc có thể được suy ra từ tính chất của hợp đồng mà các bên giao
kết.Ví dụ: trong hợp đồng về bảo hiểm thì bên bảo hiểm đã tính đến một rủi ro nhất
định ngay khi các bên giao kết hợp đồng.Do vậy,họ phải bồi thường khi có rủi ro xảy
ra cho bên mua bảo hiểm,hoặc một người khi mua vé số thì được xem là đã gánh chịu
một rủi ro nhất định( không trúng số) khi mua vé số.

2.5. Khó khăn trở ngại chỉ được chấp nhận cho những nghĩa vụ chưa được
thực hiện
Nếu một bên đã thực hiện nghĩa vụ thì những nghĩa vụ đã được thực hiện đó
không thể được xem là khó khăn trở ngại. Như vậy, nếu có sự thay đổi cơ bản sự cân
bằng giữa các nghĩa vụ của hợp đồng xảy ra khi nghĩa vụ của hợp đồng mới chỉ được
thực hiện một phần thì khó khăn trở ngại chỉ được xác lập đối với phần nghĩa vụ còn

lại phải thực hiện.
Ví dụ: A kí với B là công ty chuyên xử lý chất thải ( có trụ sở tại nước C) một hợp
đồng về xử lý chất thải.Trong hợp đồng các bên thỏa thuận quy định thời hạn thực
hiện là 4 năm cho giá cố định mỗi tấn rác thải.Hai năm sau khi kí hợp đồng,hoạt động
môi trường tại nước C và chính phủ nước này quy định phí dịch vụ lưu trữ chất thải
cao gấp 10 lần mức phí cũ.Trong hợp đồng tuy có điều khoản về khó khăn trở ngại
nhưng chỉ có thể viện dẫn hoàn cảnh khó khăn trở ngại đối với giá thanh toán cho chi
phí cho hai năm cuối của hợp đồng.

3. Hệ quả của Hardship
Hậu quả của sự khó khăn
(i) Bên bị bất lợi có quyền đề nghị đàm phán lại. Lời đề nghị phải được đưa ra đúng
lúc và đầy đủ cơ sở.
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



10

(ii) Bên bị khó khăn không đương nhiên được ngừng việc thực hiện nghĩa vụ khi đưa
ra đề nghị đàm phán lại.
(iii) Nếu hai bên không đạt được sự thoả thuận nào khác, mỗi bên đều có quyền
yêu cầu toà án giải quyết.
a. Nếu xét thấy hợp lý toà án có thể xác định là có hoàn cảnh bất lợi và:
b. Tuyên bố chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm và theo các điều kiện được tòa án
quyết định; hoặc
c. Sửa đổi nội dung hợp đồng nhằm phục hồi sự công bằng cho các bên.
 Các trường hợp được ghi nhận như sau:
3.1. Bên bị khó khăn có quyền yêu cầu đàm phán lại.
Do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến sự thay đổi cơ bản về sự quân bình của hợp đồng,

cho phép bên bị khó khăn yêu cầu đối tác đàm phánlại các điều khoản ban đầu của hợp
đồng, với mục đích sửa đổi những điều khoản này đểphù hợp với hoàn cảnh đã thay đổi.
Ví dụ:
A, một công ty xây dựng tại nước X, giao kết hợp đồng chọn gói với B, một cơ
quan chính phủ để xây dựng nhà xưởng tại nước Y. Phần lớn các máy móc tinh vi đều
phảinhập khẩu từ nước ngoài. Do sự mất giá không lường trước được về đồng tiền của
nước Y,đồng LIA (được dùng làm đơn vị thanh toán trong hợp đồng), giá thành của các
máy móc này tăng lên hơn 50%. A có quyền yêu cầu B thương lượng lại điều khoản về
giá cả ban đầuđể phù hợp với hoàn cảnh thay đổi.
Yêu cầu về các cuộc thương lượng lại không thể được chấp nhận, khi hợp đồng có
quy định điều khoản trượt giá (ví dụ điều khoản quy định về chỉ số biến động của giá
cả,nếu xảy ra các sự kiện nhất định).

3.2. Việc yêu cầu thương lượng lại phải được thực hiện trong thời gian hợp lý.
Yêu cầu về các cuộc thương lượng lại, phải được thực hiện ngay khi có thể được, sau
thời điểm hoàn cảnh khó khăn xảy ra .Thời diểm chính xác cho việc yêu cầu thương
lượng lại phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng trường hợp; ví dụ nó có thể kéo dài hơn khi
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



11

sự thay đổi hoàn cảnh xảy ra từ từ . Bên bị khó khăn không mất quyền của họ trong việc
yêu cầu các cuộc thương lượng lại nếu họ không yêu cầu thương lượng lại ngay. Tuy
nhiên, sự trì hoãn trong việc yêu cầu thương lượng lại sẽ gây khó khăn cho bên bị khó
khăn trong việc chứng minh hoàn cảnh khó khăn có thực sự xảy ra hay không, và nếu có
thì hậu quả của nó đối với hợp đồng là gì.
Đây là điều kiện cần đối với bên bị bất lợi ,bởi thời hạn yêu cầu đàm phán lại hợp
đồng có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại thực sự của hoàn cảnh khó khăn trên thực tế và hơn

nữa về nguyên tắc bên kia có quyền suy đoán ,nếu bên bị bất lợi không đưa ra lời yêu cầu
đàm phán lại ngay lập tức thì có thể hiểu bên đó đã không gặp phải khó khăn trở ngại
hoặc bên đó gặp khó khăn trở ngại nhưng có thể khắc phục được khó khăn trở ngại đó .
đây là điều kiện mà các bên trong hợp đồng cần chú ý.

3.3. Cơ sở để yêu cầu thương lượng lại
Khoản (1) của Điều 6.2.3 của PICC cũng bắt buộc bên bị khó khăn có nghĩa vụ nêu
rõ các yêu cầu trong các cuộc thương lượng để bên kia đánh giá tốt hơn, và xem xét yêu
cầu thương lượng lại đó có thoả đáng hay không. Yêu cầu không hoàn chỉnh được coi là
yêu cầu đó không được đưa ra kịp thời, trừ khi các yếu tố của hoàn cảnh khó khăn được
thể hiện quá rõ ràng đến nỗi chúng không cần phải được giải thích rõ ràng trong thư yêu
cầu thương lượng lại.
Nếu không trình bày nguyên nhân việc yêu cầu thương lượng lại, yêu cầu này sẽ được
xem như một yêu cầu chậm trễ và việc giải quyết tương tự.

3.4. Yêu cầu thương lượng lại và ngừng thực hiện nghĩa vụ.
Khoản (2 ) của Điều 6.2.3 của PICC qui định rằng yêu cầu thương lượng lại tự thân
nó không cho phép bên bị khó khăn ngừng thực hiện nghĩa vụ nhằm tránh các bên lạm
dụng điều khoản này. Việc ngừng thực hiện chỉ có thể được xem xét trong một số trường
hợp ngoại lệ.
Ví dụ:
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



12

A giao kết hợp đồng với B trong việc xây dựng một nhà máy tại nước X. Sau khi
hợp đồng dược ký kết, chính phủ nước X ban hành một số quy định mới về an toàn, vệ
sinh lao động. Qui định mới này yêu cầu phải có các thiết bị bổ sung và do đó dự thay đổi

về cơ bản trong sự cân bằng của hợp đồng của A gặp nhiều khó khăn. A có quyền yêu
cầu thương lượng lại, và có thể thực hiện với mục đích xin thêm một thời gian cần thiết
để thực hiện các qui định về an toàn, nhưng A cũng có thể ngừng việc giao các thiết bị bổ
sung trong trường hợp yêu cầu sửa đổi của A không được chấp nhận

3.5. Thương lượng lại trên tinh thần thiện chí
Việc yêu cầu thương lượng lại của bên bị khó khăn và hành vi của cả hai bên trong
quá trình thương lượng lại phải tuân theo nguyên tắc chung về thiện chí và trung thực và
nghĩa vụ hợp tác. Do vậy, bên bị khó khăn chỉ áp dụng điều khoản này khi hoàn cảnh khó
khăn thực sự tồn tại và không được lạm dụng để yêu cầu thương lượng lại như là một thủ
đoạn khôn khéo đơn thuần. Tương tự, một khi yêu cầu được đưa ra, cả hai bên đều phải
tiến hành các cuộc thương lượng lại trên tinh thần xây dựng, đặc biệt kiềm chế bất kỳ
hình thức gây khó khăn nào và không được từ chối cung cấp các thông tin cần thiết.

3.6. Yêu cầu toà án can thiệp khi các bên không đạt đến thoả thuận mong
muốn.
Nếu các bên không đạt được thoả thuận về việc sửa đổi hợp đồng đối với hoàn cảnh
khó khăn bị thay đổi trong một thời hạn hợp lý. Khoản (3) Điều 6.2.3 của PICC cho phép
một trong hai bên khởi kiện đến toà. Trường hợp như thế có thể phát sinh do bên không
bị khó khăn không chấp nhận yêu cầu thương lượng lại hoặc do các cuộc thương lượng
lại, mặc dù được hai bên tiến hành trên tinh thần thiện chí đã không đạt đến một kết quả
tích cực.
Tuỳ theo mức độ phức tạp của vấn đề cần giải quyết và hoàn cảnh cụ thể mà thời gian
chờ đợi của các bên trước khi vụ việc được đưa ra toà là nhanh chóng hay lâu dài.

Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



13


4. Các biện pháp của toà áp dụng trong hoàn cảnh khó khăn.
Theo Khoản (4) của Điều 6.2.3 của PICC Toà án nếu xác nhận có hoàn cảnh khó
khăn, có thể xử lý bằng nhiều cách khác nhau.
Khả năng trước tiên là chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, vì việc chấm dứt hợp đồng khi này
không phải là do sự vi phạm của một bên, vì tính chất của nó khác với những qui định về
việc chấm dứt hợp đồng nói chung (Điều 7.3.1 et seq) của PICC . Nên Khoản (4) (a) của
PICC qui định rằng việc chấm dứt sẽ xảy ra " vào ngày và theo các điều kiện được toà án
xác định".
Một khả năng khác là tòa có thể sửa đổi hợp đồng nhằm lập lại sự cân bằng của nó
Để làm như vậy, toà sẽ tìm cách phân chia công bằng về các khoản lỗ giữa bị hai bên.
Điều này còn phụ thuộc vào bản chất của hoàn cảnh khó khăn, có liên quan đến cả việc
sửa đổi giá cả. Tuy nhiên, nếu có thể, việc sửa đổi sẽ không cần thiết phải phản ánh đầy
đủ các khoản lỗ phát sinh bởi sự thay đổi hoàn cảnh, vì toà sẽ phải xem xét giới hạn rủi ro
mà mỗi bên phải gánh chịu và giới hạn hợp lý để bên có quyền hưởng được lợi ích từ
việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia.
Khoản (4) của Điều 6.2.3 của PICC qui định rõ ràng tòa có thể chấm dứt hoặc sửa đổi
hợp đồng chỉ khi điều này là hợp lý. Cũng có trường hợp việc sửa đổi hay chấm dứt hợp
đồng đều không thích hợp với thực tế khi đó. Toà án sẽ tuyên các bên tiếp tục thực hiện
hợp đồng, hay tiến hành thêm các cuộc đàm phán để thương lượng lại các điều khoản của
hợp đồng.
PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng quy định về sự thay đổi hoàn cảnh, như quy
định tại Điều 6:111, khoản 3: “Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong khoảng thời
gian hợp lý, toà án có thể: (a) chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện do
toà án xác định; hoặc (b) sửa đổi hợp đồng nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh
do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo một cách thức công bằng và bình đẳng.
Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc bên từ chối thỏa thuận hoặc vi
phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi thường thiệt hại mà
bên kia phải gánh chịu”
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn




14

Như vậy, mặc dù trong PECL, điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi
được sử dụng với tên gọi khác với PICC, nhưng vấn đề được quy định trong hai văn kiện
này tương đối đồng nhất về khái niệm, phạm vi áp dụng, cũng như xử lý hệ quả của nó.
So với PICC, quy định trong PECL có phần đầy đủ và hợp lý hơn vì khoản 3 Điều 6: 111
quy định trách nhiệm các bên phải điều chỉnh hợp đồng trước, và chỉ khi các bên không
điều chỉnh thì tòa án “cho chấm dứt” hoặc “sửa đổi hợp đồng theo một các thức công
bằng”.

5. Viện dẫn hardship khi giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp nếu bên bị ảnh hưởng viện dẫn sự kiện là “ bất
khả kháng ” thì khi này mục đích của bên đó là nhằm lý giải việc không thực hiện nghĩa
vụ của mình là không thuộc lỗi chủ quan của bên bị ảnh hưởng và nếu được chấp nhận
thì bên đó được miễn trừ trách nhiệm do việc không thưc hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.
Trong thục tiễn đàm phán, ký kết hợp đồng các bên có thể tham khảo và đưa vào hợp
đồng các điều khoản mẫu về “ bất khả kháng ” ví dụ như:
Điều khoản mẫu về “ bất khả kháng ” trong ấn phẩm số 421 của ICC.
 Các lý do để miễn giảm trách nhiệm.
a. Một bên đương sự không chịu trách nhiệm vì không thực hiện nghĩa vụ của mình
nếu bên đó chứng minh được:
 Việc không thực hiện là do một khó khăn trở ngại xảy ra ngoài sự kiểm soát của
mình
 Họ đã không thể trù liệu được trở ngại và tác động của nó đối với khả năng thực
hiện hợp đồng một cách hợp lý vào lúc ký kết.
 Họ đã không thể né tránh hoặc khắc phục nó hay ít nhất tác động của nó một cách
hợp lý.

b. Trở ngại nêu ở đoạn (a) nói trên có thể nảy sinh từ những sự kiện sau đây gây ra:
 Chiến tranh mặc dù có tuyên bố hay không, nội chiến, nổi loạn và cách mạng,
hành động cướp bóc, hành động phá hoại
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



15

 Thiên tai như bão tố dữ dội, gió lốc, động đất, sóng thần, huỷ diệt bởỉ sét đánh
 Nổ, cháy, huỷ diệt máy móc, nhà xưởng và bất cứ loại thiết bị nào
 Mọi hình thức tẩy chay, đình công, chiếm giữ nhà xưởng và cơ sở ngưng việc
trong xí nghiệp của người đang mong tìm miễn giảm.
 Hành động hợp pháp hay phi pháp của người cầm quyền từ những hành động mà
bên đương sự mong tìm miễn giảm phải gánh chịu rủi ro theo các điều khoản khác
của hợp đồng và trừ những vụ việc nêu ở đoạn (c) dưới đây.
c. Nhằm vào mục đích của đoạn (a) nói trên và trừ khi có quy định khác đi trong hợp
đồng, trở ngại không bao gồm: thiếu được cấp phép, thiếu chứng chỉ, thiếu giấy do
nhập hay cư trú hoặc thiếu chấp thuận cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng và
được cấp bởi nhà chức trách của bất cứ loại nào ở tại nước của bên đương sự
mong muốn miễn giảm.
 Nhiệm vụ thông báo.
a. Sau khi biết được trở ngại và tác động của nó đối với khả năng thực hiện hợp đồng
của mình, bên đương sự mong tìm miễn trách thông báo cho bên đương sự kia
càng sớm càng thiết thực về trở ngại như vậy và tác động của nó đối với khả năng
thực hiện của mình. Thông báo cũng sẽ được gửi đi nếu lý do miễn trách không
còn nữa.
b. Lý do miễn trách phát sinh hiệu quả từ thời điểm xảy ra trở ngại hoặc nếu giấy báo
không được gửi đi kịp thời thì sẽ tính từ thời điểm thông báo. Việc không thông
báo làm cho bên đương sự không thực hiện hợp đồng phải chịu trách nhiệm gánh

vác những tổn thất do những mất mát đáng lẽ ra có thể tránh được, nếu khác đi.
 Tác động của lý do miễn trách nhiệm.
a. Lý do miễn trách thuộc điều khoản này giải miễn trách nhiệm do bên không thực
hiện hợp đồng khỏi những thiệt hại, tiền phạt và những trừng phạt khác của hợp
đồng ngoại trừ trách nhiệm phải trả lãi nợ kéo dài và theo mứcđộ mà lý do miễn
trách tồn tại.
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



16

b. Hơn thế nữa, nó còn đình hoãn thời gian thực hiện đến một hạn kỳ có thể coi là
hợp lý và bằng cách ấy, nó gạt bỏ quyền chấm dứt hoặc huỷ bỏ hợp đồng của bên
đương sự kia (nếu có). Khi xác định thế nào là một hạn kỳ hợp lý, sẽ phải chú ý
đến khả năng tiếp tục thực hiện của bên đương sự không thực hiện và chiếu cố đến
lợi ích của bên đương sự kia khi chấp nhận việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mặc
dù chậm trễ. Trong khi chờ đợi bên đương sự không thực hiện tiếp tục việc thực
hiện hợp đồng, bên đương sự kia có thể đình chỉ việc thực hiện của mình. Nếu lý
do miễn trách tồn tại lâu
c. hơn hạn kỳ mà các bên đương sự quy định (hạn kỳ được áp dụng ở đây do bên
đương sự quy định) hoặc khi không có một quy định như vậy thì bất cứ bên đương
sự nào đều sẽ có quyền chấm dứt hợp đồng bằng cách ra thông báo. Mỗi bên
đương sự có thể giữ lại cho
d. mình những gì đã tiếp nhận từ việc thực hiện hợp đồng trước khi nó kết thúc. Mỗi
bên phải thanh toán cho bên kia phần lợi lộc không công bằng thu được từ việc
thực hiện hợp đồng. Việc thanh toán theo cân đối tài chính cuối cùng sẽ được tiến
hành không chậm trễ
Điều khoản “bất khả kháng” trong công ước viên 1980
a. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào

đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại
nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý
rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay
khăc phục hậu quả của nó.
b. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ do người thứ ba mà họ nhowfthuwcj hiện
toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ
được miễn trách nhiệm trong trường hợp chiếu theo quy định của khoản trên và
nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn nếu các quy định của khoản trên đươc áp
dụng cho họ
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



17

c. Sự miễn trách nhiệm được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn
tại trở ngại đó.
d. Bên nào không thực hiên nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về
trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ.Nếu thông báo
không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa
vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về
những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.
a. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng mọi quyền
khác ngoài quyền được bồi thường thiệt hại theo công ước này
Điều khoản bất khả kháng trong tập quán UCP 600 của ICC.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm đối với các hậu quả phát sinh từ sự gián đoạn hoạt
động kinh doanh của mình do thiên tai, bạo động, dân biến, chiến tranh, hành động khủng
bố hoặc do bất cứ các cuộc đình công hoặc bế xưởng hoặc bất cứ các nguyên nhân nào
khác vượt ra ngoài sự kiểm soát của họ. ngân hàng không phải thanh toán hoặc thương
lượng thanh toán cho các tín dụng đã hết hạn trong thời gian gián đoạn kinh doanh của

ngân hàng.
Điều khoản Hardship của UNIDROIT trong bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc
tế 2004
Nếu bên bị ảnh hưởng viện dẫn sự kiện là khó khăn trở ngại với mục đích là nhằm thiết
lập lại tính cân bằng về nghĩa vụ của hợp đồng bằng cách đàm phán lại các điều khoản
của hợp đồng và nếu được chấp nhận thì giữa các bên vẫn tồn tại một hợp đồng với các
điều khoản đươc sửa đổi. khó khăn trở ngại là điều kiện bên bị ảnh hưởng có quyền yêu
cầu đám phán lại hợp đồng. nhưng đó chỉ là lý thuyết, quan trọng nhất vẫn là nghệ thuật
chứng minh để chỉ ra khác biệt hoặc giống nhau giữa hai vấn đề vào từng hoàn cảnh để
bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất.
Trong thực tiễn đàm phán, ký kết hợp đồng các bên có thể tham khảo và đưa vào hợp
đồng: điều khoản mẫu về khó khăn trở ngại của UNIDROIT trong bộ nguyên tắc hợp
đồng thương mại quốc tế ấn bản 2004.
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



18

Điều khoản Hardship của UNIDROIT trong bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc
tế 2004
Điều 6.2.1. Tuân thủ hợp đồng: các bên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình,
ngay cả khi chi phí thực hiện nghĩa vụ đó tăng lên, với điều kiện là tuân thủ các quy định
về khó khăn trở ngại.
Điều 6.2.2. Định nghĩa khó khăn trở ngại: khó khăn trở ngại là một sự kiện khi xẩy ra
làm thay đổi một cách cơ bản tính cân bằng của hợp đồng được thỏa thuận trước đó, do
chi phí thực hiện hợp đồng của một bên tăng lên hoặc do giá trị một bên thu được từ việc
thực hiện hợp đồng bị giảm đi và:
 Các sự kiện này xẩy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp
đồng

 Bên bị bất lợi đã không thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết
hợp đồng
 Các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi
 Rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu
Điều 6.2.3. Tác động khó khăn trở ngại: trong trường hợp gặp khó khăn trở ngại, bên gặp
khó khăn có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng và yêu cầu này phải được đưa ra
không chậm trễ và phải có căn cứ
a. Đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng không cho phép bên gặp khó khăn có
quyền không thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng.
b. Nếu các bên không thỏa thuận được trong một thời hạn hợp lý thì mỗi bên có
quyền yêu cầu tòa án giải quyết.
Nếu tòa án thấy đúng là có khó khăn trở ngại và nếu hợp lý, tòa án coa thể:
 Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện tòa án quyết định
 Sửa đổi lại hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng
6. Điểm khác biệt giữa điều khoản khó khăn trở ngại và trường hợp bất khả
kháng
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



19

Hiện nay thì sự kiện bất khả kháng có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra
như lũ lụt, bảo, động đất, song thần…Việc coi các hiện tượng thiên tai tự nhiên là sự kiện
bất khả kháng được áp dụng khá thống nhất trong pháp luật và thực tiễn các nước trên thế
giới. Về nguyên tắc, bất khả kháng là một trường hợp khi xảy ra phải đầy đủ các điều
kiện như: (1) mang tính khách quan, (2) các bên trrong hợp đồng không thể lường trước
được, (3) khi xảy ra sự kiện các bên đã hết sức khắc phục nhưng không thể khắc phục
được. Từ những ý trên, tuy Hardship là những điều khoản do các bên thỏa thuận khi điều
kiên hoàn cảnh thay đổi còn sự kiện bất khả kháng là do pháp luật quy định nhưng đều

giống nhau ở chỗ: đều là sự kiện khách quan xẩy ra sau khi kí hợp đồng và không do lỗi
của các bên trong hợp đồng.
Khi “ khó khăn trở ngại” hoặc sự kiện bất khả kháng xảy ra thì hệ quả của chúng
cũng có những diểm giống và khác nhau. Điểm giống nhau cơ bản nhất là thủ tục thông
báo khi “ khó khăn trở ngại” hoặc sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên bị bất lợi phải gửi
thông báo cho bên kia trong khoản thời gian hợp lí. Tuy nhiên thông thường các bên quy
định rõ thời hạn thông báo và hậu quả của việc thông báo. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận cụ thể về việc thông báo thì phải tuân theo luật áp dụng để giải
quyết.
có khó khăn trở ngại xảy ra thì bên bị bất lợi có quyền yêu cầu đàm phán lại và không
được quyền tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình. Khác với “ khó khăn trở ngại” thì
khi bất khả kháng xảy ra thì bên bị ảnh hưởng được miễn trách nhiệm nếu nghĩa vụ
không được thực hiện, không được thực hiện đầy đủ hoặc không được thực hiện đúng do
sự kiện bất khả kháng gây ra; được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực
hiện hợp đồng bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng; ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng
kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi
cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc thực hiện hợp đồng. Như vậy, ta có thể thấy
được rằng hậu quả của “ khó khăn trở ngại” tương đối “nặng nề” so với bất khả kháng khi
vì bên bị bất lợi do hoàn cảnh thay đổi phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình và đặt
nặng việc đàm phán lại của các bên. Thật ra chúng ta có thể thấy sự ưu ái đối với sự kiện
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



20

bất khả kháng là được miễn trách nhiệm khi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là hoàn
toàn có cơ sở vì “ khó khăn trở ngại chỉ là chuyện nhỏ, các bên có thể đàm phán lại cho
phù hợp với sự thay đổi rồi tiếp tục thực hiện hợp đồng vì lợi ích chung; còn đồi với bất
khả kháng đàm phán lại thì khó có khả thi vì bên chịu sự ảnh hưởng đã không có khả

năng thực hiện nghĩa vụ của mình được nữa nếu mà pháp luật bắt phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ thì rõ ràng là “gặp người gãy tay trái thì đánh luôn cho gãy tay phải”. Chúng ta
có thể xem ví dụ điển hình như 1 công ty Việt Nam( bên A) ký hợp đồng mua 500 chiếc
xe ô tô với công ty Nhật Bản ( bên B) vào ngày 10/3/2011 và thời hạn giao hàng là
15/3/2010 nhưng ngày 11/3/2011 trụ sở cùng với nơi sản xuất xe của công ty B bị động
đất và song thần tàn phá không thể khôi phục sản xuất trong 1 thời gian ngắn, do đó công
ty B được miễn thực hiện nghĩa vụ với công ty A do bất khả kháng.
Hiện nay, việc quy định hệ quả của Hardship và bất khả kháng cũng có diểm tương đồng
như theo quy định về điều khoản hardship, ngoài việc buộc các bên phải đàm phán lại
hợp đồng, quy định này còn cho phép các bên yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt hợp
đồng. Như vậy đã làm cho điều khoản hardship trở nên không còn khác biệt gì so với
điều khoản bất khả kháng.
Trên thực tiễn áp dụng pháp luật hiên nay vì do pháp luật mỗi nước quy định chưa có
tương đồng về sự kiện bất khả kháng nên có rất nhiều trường hợp người ta đánh đồng
giữa bất khả kháng và hardship làm cho ranh giới giữa hai sự kiện này ngày càng bị thu
hẹp. Do đó, các bên kí kết hợp đồng cần phải soạn ra những điều khoản rõ ràng về hai sự
kiện này để hạn chế xảy ra tranh chấp và nhận phần thua thiệt về bản thân mình.

7. Điều khoản hardship trong thực tiễn pháp luật Việt Nam
Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành chưa quy định cơ chế hardship trong việc
việc đàm phán lại để điều chỉnh, sưa đổi nội dung của hợp đồng khi điều kiện hoàn cảnh
cơ bản của hợp đồng thay đổi, hoặc có sự kiện làm mất cân bằng kinh tế giữa các bên
trong hợp đồng, sự kiện này làm cho một trong các bên có thể bị thiệt hại nặng nề nếu
tiếp tục thực hiện hợp đồng với những điều khoản đã ký kết. Mặc dù chưa chấp nhận cơ
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



21


chế hardship trong một văn bản cụ thể nhưng hiện nay chúng ta vấn bắt gặp sự cho phép
sửa đổi hợp đồng trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các chính sách
điều hành của Chính phủ với một mức độ có thể nói là hạn chế, khiêm tốn. Có thể kể đến
một số quy định cụ thể, như quy định cho phép điều chỉnh phí bảo hiểm khi xảy ra những
biến cố làm tăng mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo
hiểm 2000 (Điều 20); quy định cho phép các bên thỏa thuận thay đổi giá bán trong hợp
đồng khi có những thay đổi của Nhà nước về chính sách tiền lương, chính sách giá các
mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá trong Luật Đấu thầu 2005 khoản 2 Điều 50 và Điều
57; Trong Bộ luật lao động cũng có đề cập đến việc sửa đổi hợp đồng lao động tại Điều
33, Bộ luật dân sự tại Điều 423 cũng đề cập đến việc sửa đổi hợp đồng khi các bên thỏa
thuận thông qua… Những quy định về việc sửa đổi hợp đồng khi điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể, căn bản làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc thực hiện hợp đồng trong các văn bản
chuyên ngành để giải quyết các vấn đề của một hợp đồng chuyên biệt không thể là cơ sở
cho việc áp dụng các quy định đó trong các hợp đồng thuộc lĩnh vực khác, những quy
định này không được viện dẫn như một căn cứ chung để giải quyết các hợp đồng khác.
Bộ luật cũng có quy định về việc sửa đổi hợp đồng nhưng đây không phải là cơ sở cho
các bên vận dụng như cơ chế hardship mà chỉ là một chế định nhằm giúp các bên có cơ
sở để ngồi lại đàm phán nhằm sửa đổi hợp đồng cho phù hợp với ý chí của các bên.
Trong thực tiễn pháp lý Việt Nam không hẳn không có những trường hợp làm đau đầu
thẩm phán, và các bên của hợp đồng. Thứ nhất do pháp luật nước ta còn thiếu sót các chế
định nhằm bảo vệ lợi ích cho kẻ yếu, kẻ có thể gặp phải rủi ro nhiều hơn. Thứ hai, pháp
luật nước ta còn quá lạc hậu khi không có các quy định mà pháp luật các nước đã phổ
biến, đơn cử là cơ chế để áp dụng hardship. Thứ ba, pháp luật nước ta còn chồng chéo,
phức tạp nhiều trường hợp có nhiều mâu thuẫn trong các văn bản khác nhau. Đã có rất
nhiều những hợp đồng xảy ra tranh chấp mà cơ sở pháp lý của nước ta không thể giải
quyết một cách thỏa đáng.
Vụ thứ nhất: Tháng 11/2007, bà Trương Thị H. (Đồng Nai) ký hợp đồng mua một
ôtô tải của Công ty T., với giá gần 120 triệu đồng. Theo thỏa thuận, bà H phải đặt cọc số
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn




22

tiền 20 triệu đồng (số tròn), và công ty sẽ giao xe vào cuối tháng 4/2008. Đến hạn, công
ty mời bà H đến nhận xe nhưng đòi tăng giá xe lên thêm hơn 30 triệu đồng so với giá ban
đầu. Bà H. không chấp nhận và đã khởi kiện công ty ra tòa để đòi công ty giao xe theo
đúng giá ghi trong hợp đồng. Theo người đại diện công ty: “Công ty có cam kết không
tăng giá xe nhưng đến thời điểm giao xe thì Nhà nước áp dụng quản lý khí thải xe theo
quy chuẩn mới nên công ty buộc phải điều chỉnh giá xe. Nếu bà H không chịu nhận xe
giá cao hơn vì chất lượng tốt hơn, công ty sẵn sàng trả lại tiền cọc cộng lãi suất ngân
hàng đối với số tiền mà bà H đã nộp cho công ty”. Theo Luật sư Nguyễn Văn H., công ty
có trách nhiệm bán xe cho bà H. theo đúng giá đã thỏa thuận trong hợp đồng. Những lý
do nêu ra như nguồn xe của công ty bị cắt, Nhà nước quản lý khí thải xe theo quy chuẩn
mới tại thời điểm giao xe… chỉ là những vướng mắc của công ty, không phải là trường
hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để công ty được quyền giao xe chậm và tăng
giá xe. Như vậy, quan điểm của bên bán là khi Nhà nước đưa ra quy định mới về tiêu
chuẩn khí thải dẫn đến việc thay đổi làm giá thành của xe tăng lên thì bên mua phải chịu
khoản chi phí tăng lên này. Còn bên bên mua và luật sư đều cho rằng, đây không phải là
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên bên bán phải trách nhiệm thực hiện
đúng hợp đồng.
Nhận thấy trong vụ kiện trên có nhiều tình huống phức tạp với hai luồng ý kiến về
tình tiết của vụ án. Nhóm xin có một vài bình luận về vụ kiện trên. Theo ý kiến của Luật
sư Nguyễn Văn H cho rằng những lí do như nguồn xe bị cắt, Nhà nước quản lý khí thải
xe theo quy chuẩn mới tại thời điểm giao xe không phải là trở ngại khách quan hay
trường hợp bất khả kháng để Công ty viện dẫn nhằm trốn tránh trách nhiệm thực hiện
đúng hợp đồng. Nhóm cũng có phần đồng ý về ý kiến này. Thứ nhất, nếu trong trường
hợp nguồn xe bị cắt, công ty hoàn toàn có thể thông báo trước cho bà H để tiến hành đàm
phán, sửa đổi lại hợp đồng. Tuy nhiên, công ty lại không có một hành động cụ thể nào
nhằm thông báo cho bà H vướng mắc trên, và vi phạm nghĩa vụ giao hàng đúng thời hạn

ghi trong hợp đồng. Thứ hai, việc Nhà nước quản lý khí thải xe theo quy chuẩn mới nên
công ty buộc phải điều chính giá xe hoàn toàn không phải là lí do chính đáng, nếu như
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



23

theo người đại diện cho công ty cho rằng sự điều chỉnh giá xe này là vì chất lượng xe đã
được cải tiến thì hợp đồng ban đầu mua xe gì, chất lượng ra sao, mẫu mã, kiểu dáng hoàn
toàn chưa được đề cập hay như thế nào mà sự thay đổi của Nhà nước về khái thải xe lại
ảnh hưởng đến chất lượng xe. Như vậy, chất lượng xe đã được cải tiến theo lời của người
đại diện công ty, tức là số xe này không còn là số xe đã được ký kết, nếu có sự thay đổi
về đối tượng hợp đồng (điều khoản bắt buộc) là điều khoản cơ bản của hợp đồng thì hai
bên hợp đồng cần phải thông báo cho nhau để tiến hành đàm phán, sửa đổi hợp đồng.
Trong trường hợp này công ty hoàn toàn không có sự thông báo cho bà H cho đến khi
đến hạn thực hiện hợp đồng mới đưa ra yêu cầu tăng giá xe. Tuy nhiên, nếu xét đến sự
thay đổi hoàn cảnh trong lí do trên thì chúng ta có thể ghi nhận. Sự kiện Nhà nước điều
chỉnh mức quản lý khí thải xe dẫn đến việc điều chỉnh kết cấu xe có thể xem là “sự kiện
xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi ký hợp đồng”, và điều khoản về đối
tượng hợp đồng là điều khoản cơ bản hay chính là điều kiện cơ bản của hợp đồng thay
đổi.
Vụ thứ hai: liên quan đến việc thực hiện hợp đồng thi công nạo vét luồng lạch được
ký kết giữa Tổng Công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco – gọi là bên B) kiện đòi Công
ty Liên doanh Xi măng Holcim Việt Nam (MSC – gọi là bên A) bồi thường gần 5, 5 triệu
USD, do Tòa Phúc thẩm – Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chsi Minh đã xét xử
ngày 17/01/2007. Vụ kiện đã kéo dài gần 10 năm. Năm 1995, bên A thuê bên B đào một
luồng tàu và một vũng quay tàu tại dự án xây dựng Nhà máy xi măng Sao Mai ở Hòn
Chông, Kiên Giang. Hai bên còn lập hai bản phụ lục, quy định rõ “trong khi thi công nếu
thiết bị của DI (nhà thầu phụ của B) gặp phải sỏi đá và san hô/đất sét cứng gây thiệt hại

máy móc, tăng phí tổn thì DI được trả thêm chi phí căn cứ vào kết luận giám định của
Giám định viên độc lập”. Thực tế khi thực hiện hợp đồng, thì “hệ thống nạo vét luồng
gặp sự trở ngại, hao mòn nặng cho máy móc và đường ống dẫn cũng như giảm năng suất
thi công”. Theo B và DI, sự cố này thuộc trường hợp được nêu trong phụ lục nói trên, nên
bên B đã phải thuê và mua sắm thêm các thiết bị mới, chuyên dụng hơn để tiếp tực thực
hiện hợp đồng, nên đã làm phát sinh chi phí thêm so với cam kết ban đầu trong hợp đồng,
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



24

với số tiền được bên B nêu ra là 2.866.650 USD. Văn kiện thỏa thuận tăng giá thành giữa
B với nhà thầu phụ DI được đại diện của A xác nhận. Sau khi thực hiện xong hợp đồng,
bên B yêu cầu bên A thanh toán chi phí phát sinh này, nhưng bên A từ chối. B khởi kiện
A ra tòa, nhưng yêu cầu này của B đều đã bị cả tòa sơ thẩm và phúc thẩm bác bỏ. Lý do:
cách thức chứng minh trở ngại khách quan của B là không có căn cứ và giá trị tăng thêm
nếu có phải do bên B chịu, chứ bên A không có nghĩa vụ phải thanh toán thêm vì trong
hợp đồng không cam kết, cũng như theo pháp luật thì bên A không phải chịu trách nhiệm
về những chi phí này.
Sự thay đổi hoàn cảnh trên thực tế ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện hợp đồng,
đặc biệt việc hoàn cảnh thay đổi làm tăng chi phí thực hiện hợp đồng hay giá cả của đối
tượng trong hợp đồng có biến động mạnh là những tình huống thường gặp trong thực tiễn
ở nước ta. Chúng ta cũng nhận thấy rõ ràng rằng pháp luật Việt Nam hiện nay còn lạc hậu
so với pháp luật các nước, ngoài ra còn có quá nhiều thiếu sót khi không có những chế
định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên khi gặp rủi ro hay điều kiện hoàn cảnh thay dổi
khi thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nếu có nhứng tranh chấp vì những lí do trên thì pháp luật
không có cơ chế giải quyết thỏa đáng.

8. Sự cần thiết điều chỉnh, sửa đổi hợp đồng khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi

Khi đàm phán, ký kết hợp đồng, chúng ta ít nghĩ đến việc điều kiện, hoàn cảnh thực
hiện hợp đồng sẽ thay đổi. Nhưng thực tế đã chứng minh, cần phải nghĩ, buộc phải nghĩ,
phải biết rằng có thể trong quá trình thực hiện hợp đồng sẽ có những sự kiện làm ảnh
hưởng tới điều kiện hoàn cảnh thực hiện hợp đồng, và cần phải có cơ chế hay quy định
những điều khoản để thay đổi, sửa đổi hợp đồng khi gặp các sự kiện đó.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam về điều khoản hardship
bước đầu được thể hiện trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Nhưng đó chỉ là cơ
chế riêng lẻ cho các hợp đồng chuyên biệt, các loại hợp đồng khác không thể tìm thấy
phao cứu sinh khi gặp trường hợp bất khả kháng hay gặp hoàn cảnh khó khăn Pháp luật
sơ hở, thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết giải quyết các vấn đề trên khiến cho các bên
Tiểu luận - môn: Luật hợp đồng thương mại quốc tế GVHD.T.S Dương Anh Sơn



25

liên quan và cơ quan tư pháp không khỏi không có những mâu thuẫn trong lập luận,
những lúng túng khi giải quyết, và những kết luận mang nhiều tranh cãi. Thực tiễn xét xử
ở nước ta, hardship chưa được đề cập như cơ chế giúp giải quyết những vướng mắc khi
điều kiện hoàn cảnh của hợp đồng thay đổi làm ảnh hưởng lợi ích của các bên liên quan
trong hợp đồng, chính vì vậy khi giải quyết các trường hợp này mỗi Tòa án lại có những
quyết định khác nhau, không thống nhất.
Hợp đồng cần thiết phải được sửa đổi khi có điều kiện, hoàn cảnh thay đổi vì nhiều
lý do. Trước tiên nhìn nhận vào quy định về điều khoản hardship của UNIDROIT trong
Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế 2004 chúng ta nhận thấy, đây là điều khoản
dành cho bên bị bất lợi. Nghĩa là, nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng như đã ký kết khi điều
kiện, hoàn cảnh thay đổi (có khó khăn trở ngại) thì một trong các bên liên quan trong hợp
đồng sẽ gặp phải rủi ro hay bất lợi. Ví dụ, hợp đồng được kí kết giữa công ty A mua và
thương nhân B bán, đối tượng hợp đồng thép xây dựng, giá thành 180 USD/tấn, số lượng
200 thép, ngày ký 01/03/2011, ngày giao hàng 10/3/201. Nhưng đến ngày 05/03/2011 thì

giá thép có sự biến động mạnh “tăng đột biến” từ 180 USD/tấn thành 250 USD/ tấn. Việc
tăng giá thép này có thể được xem là sự kiện thỏa mãn hardship, do việc tăng giá này
vượt quá dự liệu của các bên trong hợp đồng, giá thép đã tăng khoảng 35,37% hơn so với
ban đầu. Nếu như thực hiện hợp đồng với giá ban đầu thì thương nhân B sẽ phải chịu
thiệt hại khá nặng nề. Chính vì vậy, cần phải sửa đổi hợp đồng để bảo đảm quyền lợi cho
bên bị bất lợi.
Sau đó, chúng ta cũng nhận thấy việc sửa đổi hợp đồng khi điều kiện hoàn cảnh thay
đổi cần thiết, vì cơ chế này đảm bảo được công bằng xã hội, ổn định trật tự kinh tế. Các
sự kiện và hoàn cảnh nằm ngoài sự kiểm soát của các bên tham gia quan hệ hợp đồng gây
ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng. Bên bất lợi trong trường hợp này hoàn toàn
không có lỗi, vì sự kiện, hoàn cảnh khó khăn là sự kiện mang tính khách quan, không phụ
thuộc vào ý chí của các chủ thể. Nên, cần thiết phải có cơ chế để bên bị bất lợi có quyền
yêu cầu đàm phán, sửa đổi hợp đồng như một hình thức nhằm thiết lập lại tính cân bằng
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Ở đây, tính cân bằng này chính là công

×