Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

văn hoá là một yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.68 KB, 97 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là một yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống xã hội của
tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cấu hoá kinh tế, khi mà
ranh giới giữa các quốc gia về kinh tế, chính trị, tôn giáo… đang dần bị mờ
nhạt thì văn hoá vẫn giữ được tính bền vững của nó và được xem là một yếu
tố then chốt làm nên sự khác biệt giữa các quốc gia, các dân tộc.
Ở Việt Nam, văn hoá được coi là “sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch
sử dân tộc”. Nó làm nên một sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt
Nam vượt qua biết bao sóng gió để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Văn
hoá đã viết nên những trang sử hào hùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn,
khí phách anh hùng trong dựng nước và giữ nước. Văn hoá đã cho con người
Việt Nam một kháng thể trước ách đô hộ và những âm mưu đồng hoá của các
thế lực ngoại bang, để lại một một bản lĩnh Việt Nam mà ngày nay chóng ta
vô cùng tự hào trước cộng đồng quốc tế.
Trong các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam thì văn hoá pháp lý
có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Ngày nay, khi đất nước ta bước
vào con đường đổi mới toàn diện thì vấn đề phát huy những giá trị của bản
sắc văn hoá dân tộc trong đó có văn hoá pháp lý đã và đang được Đảng và
Nhà nước ta hết sức chú trọng. Văn hoá được xác định là môi trường quyết
định sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
Trên con đường phát huy văn hoá dân tộc, việc tìm hiểu dân tộc tính và
truyền thống pháp lý của dân tộc là một yêu cầu khách quan, khi chóng ta đang
phải đương đầu với những thách thức của sự nghiệp đổi mới, của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân cũng đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ những giá trị
1
của văn hoá pháp lý Việt Nam mang tính truyền thống cũng như hiện đại, để
chúng ta chắt lọc, kế thừa và phát triển. Bên cạnh đó, nghiên cứu văn hoá pháp
lý còn có ý nghĩa to lớn đối với việc kết hợp những giá trị văn hoá pháp lý
truyền thống với những kiến thức mới, những kinh nghiệm tốt của các hệ thống


pháp luật trên thế giới và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nuớc và pháp luật trong xây dựng một đời sống pháp luật
vững chắc và phong phú ở Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước trong những năm qua đã đem lại cho
chóng ta những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó mặt trái của cơ chế
thị trường cũng làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong xã hội về đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ và công dân, về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội gia
tăng…. Đó là những biÓu hiện của sự xuống cấp văn hoá pháp lý trong đời
sống xã hội. Do đó, chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá một cách khách
quan, đúng đắn về văn hoá pháp lý, vai trò của nó cũng như thực trạng văn
hoá pháp lý ở nước ta hiện nay để đề xuất những phương hướng và giải pháp
nhằm nâng cao văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội, góp phần vào thắng lợi
chung của công cuộc đổi mới đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hoá pháp
lý và đánh giá thực trạng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay là một yêu cầu
bức thiết đang đặt ra cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với các nhà khoa học
pháp lý Việt Nam. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan đó và với nhận
thức về tầm quan trọng của văn hoá pháp lý, chúng tôi chọn đề tài: Văn hoá
pháp lý và xây dựng văn hoá pháp lý ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các công trình khoa học nghiên cứu về văn hoá và văn hoá Việt
Nam đã xuất hiện khá nhiều trong thời gian gần đây. Đây là một vấn đề
được nhiều học giả, nhiều nhà khoa học quan tâm. Văn hoá nói chung và
văn hoá Việt Nam nói riêng đã được nghiên cứu và tiếp cận từ nhiều góc
2
độ và trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Có thể kể ra một số công trình tiêu
biểu: Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà nội 2004; Văn hoá Việt
Nam tìm tòi, suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc – Tạp chí văn hóa nghệ thuật,
Hà nội 2000; Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb Văn hóa dân tộc – Tạp
chí văn hóa nghệ thuật, Hà nội 1998 của GS. Trần QuốcVượng. Tìm về bản

sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
2001 của VS. Trần Ngọc Thêm. Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà nội 1998 của GS Phan Ngọc; Đến hiện đại từ truyền thống,
Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX- 07 của Trần Đình
Hượu; … Tuy nhiên, văn hoá pháp lý lại là đề tài Ýt được các nhà khoa
học nghiên cứu. Hiện nay, chưa có các công trình khoa học nghiên cứu sâu
về văn hoá pháp lý Việt Nam mà chỉ dừng lại ở một số luận văn Thạc sĩ
luật và một số bài viết có tính chất gợi mở về vấn đề này được đăng trên
các báo và tạp chí, như: Văn hóa pháp luật và phát triển văn hoá pháp luật
ở nước ta hiện nay - Đề tài khoa học cấp trường – Trường Đại học luật
(2004); Nguyễn Thị Lê Thu: Văn hoá pháp luật ở công sở trong điều kiện
cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Trường Đại học luật Hà Nội (2002); Đặng Cảnh Khanh: Văn hóa
luật pháp - truyền thống và bài học hôm nay, Tạp chí Cộng sản số 5, năm
1993; PGS. PTS. Lê Minh Tâm: Vấn đề văn hóa pháp lý ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, Tạp chí Luật học, số 5, năm 1998; TS. Lê Thanh Thập:
Mấy suy nghĩ về văn hóa và văn hóa pháp lý ở nước ta, Tạp chí Luật học,
số 2, năm 1999; Chuyên đề Văn hoá tư pháp – Thông tin nghiên cứu khoa
học pháp lý, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, số tháng 7,
năm 2001.
3. Nhiệm vụ, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu ở trên, đề tài đặt ra nhiệm vụ và
mục đích là: phân tích cơ sở lý luận về văn hóa pháp lý như khái niệm, đặc
điểm, cấu trúc, chức năng của văn hoá pháp lý; phân tích những nhân tố ảnh
3
hưởng đến sự hình thành và phát triển của văn hóa pháp lý và những điều kiện
bảo đảm của văn hóa pháp lý; đề xuất những phương hướng mang tính chất
pháp lý trong xây dựng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Khái niệm văn hoá pháp lý có nội hàm rất rộng, bao hàm cả những giá
trị văn hoá tinh thần và những giá trị văn hoá vật chất. Văn hoá pháp lý có

mối liên hệ, tác động, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố của đời
sống xã hội. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của văn hoá pháp lý nói
chung và vận dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về văn hoá - giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các phương pháp nghiên
cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ
thống hoá, xã hội học, lịch sử.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Về lý luận, tác giả luận văn phân tích để đưa ra khái niệm về văn
hoá pháp lý; phân tích cấu trúc, chức năng của văn hoá pháp lý và các đặc
trưng cơ bản của văn hoá pháp lý Việt Nam.
Về thực tiễn, tác giả luận văn kiến nghị một số giải pháp pháp lý
nhằm nâng cao, phát huy bản sắc văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay, xây dựng văn hóa pháp lý Việt Nam trong điều kiện
đổi mới, phát triển ổn định, bền vững và hội nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sâu sắc thêm lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng, nhằm
4
khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hoá pháp lý trong đời sống xã
hội. Những kiến nghị của luận văn có thể góp phần xây dựng một nền văn hoá
pháp lý tiên tiến ở Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc giảng dạy và học tập trong các trường pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 2 chương, 6 tiết.

5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ PHÁP LÝ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ PHÁP LÝ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của văn hoá pháp lý
1.1.1.1. Khái niệm văn hoá
Theo các nhà nghiên cứu phương Tây, khái niệm văn hóa có nguồn
gốc từ tiếng Latinh là "cultura" nghĩa là sự trồng trọt, dùng để chỉ sự chăm
sóc đÊt đai, canh tác. Ở phương Đông, trong Chu Dịch có nói đến: Quan
hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ” (quan sát dáng vẻ con người để giáo
hóa thiên hạ). Ở đây, văn hóa được giải thích như một phương thức dùng
văn để cải hóa con người.
Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, phức tạp, đa cấp độ, văn
hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận
và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được xem như là tất cả những gì
liên quan đến con người, Ýt nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con
người. Từ đó, có thể hiểu văn hóa là những phương thức và kết quả hoạt
động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị
tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ
thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận. Theo nghĩa này,
văn hóa hàm chứa những quan điểm về mục đích, giá trị và lý tưởng của xã
hội. Văn hóa hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói
đến con người và văn hóa là thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của con
người.
Trên thế giới đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm kiếm và đưa ra những
định nghĩa về văn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay, chóng ta vẫn chưa có một
6
định nghĩa thống nhất về văn hoá nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị của
văn hoá. Ngay từ giữa thế kỷ XX (năm 1952), hai nhà khoa học Hoa Kỳ là
A.Kroeber và C.kluckholn đã thống kê được 150 định nghĩa khác nhau về

văn hoá [34, tr.8]. Ngày nay, số lượng các định nghĩa đó đã tăng lên rất
nhiều (trên 400 định nghĩa).
Ở Việt Nam, văn hóa bắt đầu được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả
nghiên cứu trong những năm gần đây và họ cũng đã cố gắng đưa ra những
định nghĩa về văn hóa. Cách đây hơn 60 năm, học giả Đào Duy Anh đã đặt
viên gạch đầu tiên cho ngành văn hóa học khi cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cương” của ông ra đời (1938). Ông quan niệm “hai tiếng văn hóa chỉ là chung
tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng:
Văn hóa tức là sinh hoạt" [1, tr.13]. Văn hóa theo đó là cách thức, là kiểu sinh
hoạt của con người.
GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Văn hóa là thế ứng xử, năng động
của một cộng đồng (ứng xử tập thể) hay một cá nhân đứng trước thiên
nhiên, xã hội và đứng trước chính mình. Văn hóa là lối sống (mode de vie),
là nếp sống (train de vie) tập thể và cá nhân” [100, tr.87]. Đi sâu vào bản
chất của văn hóa, với cách tư duy thao tác luận, nhà văn hóa học GS. Phan
Ngọc đã coi văn hóa thực chất là một kiểu lựa chọn. Ông quan niệm rằng,
con người có một kiểu lao động riêng, anh ta tạo nên một sản phẩm theo
cái mô hình trong óc anh ta (mô hình này do anh ta tiếp thu từ bên ngoài
hay sáng tạo ra). Từ quan niệm như vậy GS. Phan Ngọc định nghĩa “Văn
hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc mỗi cá nhân hay mỗi
tộc người với cái thế giới thực tại đã bị cá nhân hay tộc người này mô hình
hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng
tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện
7
thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa
chọn của cá nhân hay tộc người khác” [55, tr.17].
Cách hiểu văn hóa là kiểu lựa chọn như vậy cũng tương đồng với cách
hiểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ

thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa.
Văn hóa là tổng hợp những phương thức sinh hoạt và biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn” [49, tr.431].
Với tính phức tạp, đa chiều như vậy thật khó khăn để đưa ra một định
nghĩa hoàn chỉnh, có tính bao quát về văn hóa. Nghiên cứu về văn hóa
chúng tôi hiểu rằng, văn hóa chính là tổng thể những giá trị do con người
sáng tạo ra (văn hóa tức là nhân hóa), đó là các giá trị vật chất, các giá trị
tinh thần và bản thân sự phát triển của con người. Các giá trị này, thực chất
chính là kết quả của sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội. Các giá trị này đều tương tác và gắn bó với nhau.
Trong các giá trị vật chất có các giá trị tinh thần và trong các giá trị tinh
thần đều hàm chứa các giá trị vật chất. Trong hai giá trị đó cũng hàm chứa
sự phát triển của năng lực bản chất của con người.
Dù là văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần cũng đều là sản phẩm trực
tiếp hay gián tiếp của con người. Vì vậy, Mác đã nói rằng, văn hóa là sự thể
hiện các năng lực bản chất của con người, bao gồm khả năng, sức mạnh,
phương thức nhận thức, đánh giá và cải tạo thế giới của con người.
8
Từ cách hiểu như vậy về văn hóa, chúng tôi lựa chọn định nghĩa chính
thức về văn hóa của UNESCO (đây cũng là một định nghĩa văn hóa được
nhiều người chấp nhận) để làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài của mình: “Văn
hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc
sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như
diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống
các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Văn hóa biểu hiện những gì do con người sáng tạo ra nên phạm vi của văn
hóa rất rộng lớn. Nghiên cứu về văn hóa đòi hỏi phải sử dụng những phương

pháp chính xác, khoa học mới có thể chỉ ra được những đặc trưng, vai trò, chức
năng cũng như những mối liên hệ của văn hóa với các hiện tượng khác của đời
sống xã hội. Tiếp cận từ lý thuyết hệ thống, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra
những đặc trưng và những chức năng cơ bản của văn hóa như sau:
Thứ nhất, văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Mọi hiện tượng, sự
kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Nhờ có tính
hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động
của xã hội thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường
xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện
cần thiết để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Thứ hai, văn hóa có tính giá trị. Trong từ văn hóa thì văn (ở phương
Đông đối lập với võ) có nghĩa là “vẻ đẹp” (= giá trị), hóa là trở thành, văn hóa
“trở thành đẹp, trở thành có giá trị”. Văn hóa là thước đo nhân bản của xã hội,
của con người. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện
được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng
9
tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ
để tồn tại và phát triển.
Thứ ba, văn hóa có tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là
sản phẩm hoạt động thực tiễn của con nguời. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập
với tự nhiên, nhưng nó không phải là sản phẩm hư vô mà có nguồn gốc tự
nhiên. Văn hóa là tự nhiên đã được biến đổi dưới sự tác động của con người.
Đặc trưng này cho phép phân biệt loài người sáng tạo với loài vật bản năng.
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa
trở thành công cụ giao tiếp quan trọng và do đó nó có chức năng giao tiếp.
Thứ tư, văn hóa có tính lịch sử. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ
nó bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu và
chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tự phân loại và phân bố

lại các giá trị. Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn
hóa. Truyền thống văn hóa tồn tại được là nhờ giáo dục, do đó, chức năng
giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Văn hóa thực hiện
chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống)
mà còn bằng những giá trị đang hình thành. Các giá trị ổn định và các giá trị
đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới,
nhờ đó mà văn hóa góp phần hình thành nhân cách con người [75, tr.20-24].
Cần phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật
Lâu nay nhiều người thường sử dụng “văn minh” (civilization) như một
từ đồng nghĩa với văn hóa, nhưng thực ra đây là những khái niệm gần gũi,
có liên quan mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Văn minh
là khái niệm chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương
diện giá trị vật chất. Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến tiện nghi
10
vật chất (văn minh chủ yếu liên quan tới kỹ thuật làm chủ thế giới, biến đổi
thế giới để đáp ứng nhu cầu con người). Như vậy, văn hóa và văn minh khác
nhau trước hết ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao trùm cả
các giá trị vật chất và tinh thần thì văn minh chỉ thiên về các giá trị vật chất.
Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa luôn
có bề dày lịch sử thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ cho biết trình
độ phát triển của văn hóa. Nếu văn minh của loài người tiến lên không
ngừng thì văn hóa lại không thế. Một dân tộc có nền văn minh cao nhưng
cũng có thể có một nền văn hóa nghèo nàn và ngược lại một dân tộc lạc hậu
vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú. Ngoài ra, văn hóa và văn minh
còn được phân biệt bởi phạm vi của chúng. Trong khi văn hóa thường có
tính dân tộc, quốc gia thì văn minh có tính khu vực, quốc tế. Nó đặc trưng
cho mét khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi nó chứa giá trị vật chất và
vật chất thì rất dễ phổ biến, lan rộng.
Về mối tương quan giữa văn hóa với văn hiến, văn vật. Văn hiến và
văn vật là những thuật ngữ đặc trưng của văn hóa phương đông. Văn hiến

dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài, đức chuyển tải.
Còn văn vật là là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua một
đội ngũ nhân tài và hiện vật trong lịch sử. Sự khác biệt của văn hóa đối với
các khái niệm này là ở phạm vi. Văn hóa là khái niệm rộng lớn, bao trùm,
trong đó có văn hiến, văn vật.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của văn hoá pháp lý
Như cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do
con người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức
khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật, văn hóa cũng đồng thời là bản thân
phương thức tạo ra các sản phẩm đó. Không chỉ có thế, văn hóa còn hiện diện
11
trong các quan hệ giữa con người với con người, dù đó là quan hệ kinh tế hay
quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn
hóa còn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức,
tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo
Như mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác, lĩnh vực pháp luật hiện nay
cũng đòi hỏi phải tính đến vị trí và vai trò nhân tố văn hóa của nó. Hoạt động
pháp luật với tính cách là bộ phận, một khâu của hoạt động chính trị - xã hội,
tuy không lấy văn hóa làm mục đích trực tiếp, nhưng hoạt động pháp luật lại
là địa bàn, là phương thức để con người thể hiện và hiện thực hóa những năng
lực nhân tính của mình trong lĩnh vực pháp luật. Điều đó đã chứng tỏ rằng,
hoạt động pháp luật cũng hiện diện như phương diện đặc thù của văn hóa – đó
là văn hóa pháp lý.
Văn hóa pháp lý là kết quả của bản thân hoạt động pháp luật của mỗi
một quốc gia, một dân tộc, một cộng đồng người. Vì vậy, cùng với vai trò của
văn hóa trong đời sống xã hội thì văn hóa pháp lý ngày càng trở thành một
vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, bởi vì, có hiểu được văn hóa pháp
lý thì mới có thể xây dựng được một nền văn hóa pháp lý tiên tiến, mới có
được một đời sống pháp luật vững mạnh, góp phần làm nên sự phát triển của
xã hội.

Trên thế giới vào những năm 1990, văn hóa pháp lý đã trở thành một
thuật ngữ được quan tâm nhất trong các nghiên cứu khoa học pháp lý hiện
đại. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã có từ rất lâu. Trong diễn ngôn thời kỳ trước
chiến tranh, nhà sử học pháp luật người Mỹ Lawrence M.Friedman đã trình
bày và so sánh văn hóa pháp lý với văn hóa chính trị vào năm 1969.
Sở dĩ văn hóa pháp lý đã được các luật gia phương Tây quan tâm trong
thời gian vừa qua là vì vào những năm 1990 đã có những sự thay đổi nhanh
12
chóng trong văn hóa pháp lý tại nhiều nước, đặc biệt là các nước Đông Âu và
các nước trung tâm châu Âu. Sự thay đổi này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải
nhận dạng nền văn hóa pháp lý của mỗi nước. Hiện tượng này không chỉ phù
hợp với những quốc gia trong Liên bang Xô Viết trước đây, mà còn trở thành
một phương thức để giải quyết những sự việc xảy ra như đối với sự hợp nhất
văn hóa pháp lý của nước Đức thống nhất ngày nay.
Những năm qua nhiều nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa pháp lý đã
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa pháp lý. Đặc biệt, trong những
năm gần đây đã có một diễn đàn bàn luận về chủ đề này, trong đó tạm thời
chia những nhà nghiên cứu thành hai nhóm.
Nhóm các nhà nghiên cứu xem xét văn hóa pháp lý từ góc độ chức
năng, mà tiêu biểu là Lawrence M.Friedman. Ông đã đưa ra cách nhìn
khách quan về hiện tượng văn hóa pháp lý, theo đó, ông cho rằng văn hóa
pháp lý là thái độ khác nhau của các dân tộc, các nhóm xã hội cũng như
của các thể chế chính trị đối với đời sống pháp luật (về các vụ kiện hoặc tỉ
lệ tội phạm). Thái độ khác nhau đó được hiểu là trạng thái tâm lý pháp luật
và lối sống pháp luật.
Nhóm các nhà nghiên cứu thứ hai tiếp cận văn hóa pháp lý theo một
cách khác, tiêu biểu là nhà nghiên cứu người Đức Rorger Cotterrell. Họ cho
rằng thái độ và trạng thái tâm lý sẽ tương đương nhau nếu chúng được tạo ra
trong những giới hạn của tổ chức luật pháp. Nhóm này chủ trương coi văn
hóa pháp lý chỉ là một hiện tượng cung cấp một cái nhìn khách quan về nghề

luật. Thay vì tìm kiếm mô hình về thái độ và trạng thái tâm lý pháp lý,
Cotterrell đã xem xét văn hóa pháp lý từ việc phân biệt các hệ tư tưởng để từ
đó nghiên cứu các kiến trúc luật pháp được xây dựng trên các hệ tư tưởng đó
[102, tr.16].
13
Ở Việt Nam, như đã đề cập ở trên, văn hóa pháp lý chỉ mới được các
nhà nghiên cứu, các nhà khoa học quan tâm trong một số năm gần đây và
thường được hiểu là văn hóa pháp luật. PGS. TS Lê Minh Tâm cho rằng:
“Nói một cách tổng quát, văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao
gồm hệ thống quy phạm pháp luật trong các thời kỳ lịch sử, những tư
tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn
hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá
trình xây dựng và thực thi pháp luật…” [69, tr.18]. TS. Lê Thanh Thập
viết: “Văn hóa pháp luật là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ
thống pháp luật trong xã hội được thể hiện trong các đạo luật và thiết chế
xã hội. Đồng thời, các giá trị đó còn được thể hiện trong các hoạt động
pháp luật, thẩm thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến
thành nhu cầu thường trực trong ứng xử của họ” [74, tr.26].
Như chóng ta đã biết, khởi nguồn của văn hóa là hoạt động sản xuất
vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Văn
hóa cũng chính là nhu cầu hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội, điều đó
phản ánh khát vọng của con người ngày càng mong muốn trở nên văn minh
hơn, tiến bộ hơn. Sức sống của văn hóa là động lực thúc đẩy xã hội phát
triển tiến bộ. Văn hóa pháp lý là một bộ phận của văn hóa nói chung và tất
nhiên nó cũng là thành quả của quá trình lao động và sáng tạo của con
người. Văn hóa pháp lý cùng có chung mục đích là dẫn dắt đời sống nhân
loại đi tới những giá trị cao cả để đạt được những giá trị chân, thiện, mĩ. Do
vậy, văn hóa pháp lý mang trong mình khả năng hiện thực hoá những năng
lực nhân tính, phát huy vai trò và tăng cường hiệu quả của pháp luật trong

đời sống xã hội. (Ngược lại, hiệu quả của pháp luật trong xã hội cũng chính
là chỉ số, là thước đo trình độ phát triển của văn hóa pháp lý). Văn hóa pháp
14
lý là sự thống nhất hữu cơ những giá trị có được từ hoạt động sống của con
người trong các quan hệ pháp luật (hành vi, lối sống) và những kết quả có
được do hiện thực hoá năng lực bản chất của con người trong lĩnh vực pháp
luật. Do vậy, phát triển văn hóa pháp lý không những góp phần nâng cao
hiệu quả của pháp luật mà còn đảm bảo cho sự phát triển nhân cách của
con người. Biến hoạt động pháp luật với tư cách là lĩnh vực hoạt động xã
hội - chính trị thành lĩnh vực hoạt động sáng tạo "theo quy luật của cái
đẹp" (C. Mác). Những chuẩn mực quy phạm pháp luật chỉ có giá trị khi nó
bảo vệ những lý tưởng xã hội tốt đẹp, hướng con người tới các giá trị chân,
thiện, mỹ. Pháp luật bảo vệ cho những cái sai, thiếu chân thực, khách quan,
bảo vệ và dung túng cho cái ác, cái thấp hèn, ti tiện thì nó không có giá trị
về mặt văn hóa. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu: Văn hóa pháp
lý là sự phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của đời
sống pháp luật (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ
cũng như diễn ra trong hiện tại, nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị,
truyền thống và lối sống pháp luật của một cộng đồng, một quốc gia, dân tộc.
Như vậy xét về bản chất, cũng như văn hóa nói chung, văn hóa pháp lý
có tính xã hội. Bởi vì sự hiện diện của nó là kết quả của những phương thức
hoạt động của con người. Xã hội ở đây được hiểu là một tập đoàn người, một
dân tộc, một quốc gia, mét giai cấp có quan hệ với nhau về mặt pháp luật. Bản
chất xã hội của văn hóa pháp lý được thể hiện rõ trong tính dân tộc, tính giai
cấp và tính nhân loại phổ biến.
- Tính dân tộc của văn hóa pháp lý chính là những truyền thống, nếp
sống, phong tục tập quán, những thói quen trong đời sống pháp luật và đã
được hình thành, lưu giữ và kế tục qua nhiều thế hệ của một dân tộc, một
cộng đồng người. Tính dân tộc, cốt cách dân tộc tô đậm bản chất của mọi
quan hệ văn hóa. Cũng như văn hóa nói chung, văn hóa pháp lý có tính bền

15
vững và lâu dài là do bản sắc dân tộc của nó quy định. Sự khác nhau của mỗi
nền văn hóa do tính dân tộc của nó đại diện và chính nhờ sự khác biệt này mà
văn hóa mới phát triển được.
- Sự phát triển của văn hóa pháp lý là một quá trình đầy mâu thuẫn, trong
đó còn phản ánh một quang phổ rộng lớn của các quan hệ giai cấp với lợi Ých
dân tộc. Tính giai cấp của văn hóa pháp lý là những yếu tố phản ánh quyền
lực và lợi Ých của giai cấp thống trị được thể chế hoá thành luật, được đưa
vào đời sống pháp luật khi những yếu tố đó phù hợp với lợi Ých dân tộc, sự
phát triển và tiến bộ xã hội. Theo Lênin, trong xã hội có đối kháng giai cấp,
mỗi nền văn hóa đều có hai dòng văn hóa. Văn hóa của giai cấp thống trị, bóc
lột và văn hóa của nhân dân lao động tiến bộ xã hội. Văn hóa nói chung xét về
chuẩn mực giai cấp có thể chia thành 3 nhóm: một là, nhóm không thể áp
dụng các chuẩn mực giai cấp như ngôn ngữ, khoa học – kỹ thuật; hai là, nhóm
có nội dung nhân loại nhưng đồng thời ở mức độ nhất định mang dấu Ên các
lợi Ých giai cấp như một số phong tục, tập quán, một số các giá trị đạo đức
phổ quát; ba là, nhóm mà bản chất giai cấp gắn liền với văn hóa, trong đó đặc
biệt là lĩnh vực chính trị – pháp lý. Văn hóa pháp lý là một lĩnh vực đặc thù,
nằm trong nhóm thứ ba và nã mang tính giai cấp sâu sắc. Do đó, để có thể xác
định giá trị văn hóa pháp lý của một quốc gia, một dân tộc, cần xác định tính
giai cấp của những giai cấp suy tàn hay đang lên. Khi giai cấp thống trị đang
là và còn là giai cấp cách mạng, đóng vai trò tích cực trong sự phát triển xã
hội, thì nhu cầu và lợi Ých của giai cấp đó và của nhân dân có sự nhất trí ở
mức độ cao. Giai cấp thống trị chủ động ban hành một số chuẩn mực tiến bộ
trong hiến pháp và pháp luật nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhân dân - khi đó có
sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân loại trong đời sống pháp luật.
Những giá trị văn hóa pháp lý được hình thành chính từ sự thống nhất đó.
16
- Trong một nền văn hóa pháp lý, không có tính giai cấp đơn thuần.
Bản chất xã hội đã gắn liền với tính nhân loại phổ biến của nã. Sự sáng

tạo văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng vốn là sản phẩm của
những xã hội cụ thể, đồng thời nó cũng chứa đựng những cái đẹp, cái mới,
cái tiến bộ. Những giá trị đó là thước đo để mỗi giai cấp hướng sự phát
triển xã hội phù hợp với lợi Ých của mình. Tính nhân loại phổ biến của
văn hóa pháp lý được biểu hiện ở một nền pháp luật có sự đảm bảo các
quyền cơ bản của con người như quyền tự do, công bằng, bình đẳng trước
pháp luật, quyền tự bảo vệ, quyền được đảm bảo các lợi Ých cơ bản của con
người phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Cả tính giai cấp, tính dân tộc của văn
hóa pháp lý đều chứa đựng trong mối quan hệ với tính nhân loại phổ biến.
Tính nhân loại phổ biến của văn hóa pháp lý không nằm ngoài tính giai cấp và
tính dân tộc. Tính giai cấp đang lên trong sự phát triển lịch sử sẽ tạo ra những
sản phẩm văn hóa pháp lý có tính nhân loại. Ví dụ hiến pháp là giá trị văn hóa
pháp lý của cách mạng tư sản, và ngày nay nó đã trở thành một giá trị mang
tính nhân loại. Cũng vậy, tính nhân loại của văn hóa pháp lý cũng không tách
rời tính dân tộc của nó. Những tinh hoa của văn hóa dân tộc sẽ mang tính
nhân loại phổ biến. Những ghi nhận bước đầu về quyền bình đẳng của phụ nữ
trong Bộ luật Hồng Đức sở dĩ được đánh giá cao, trở thành phổ biến nhân loại
là vì đó là những giá trị cao quý của dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Cấu trúc của văn hoá pháp lý
Xét về mặt cấu kết, văn hóa pháp lý là bộ phận cấu thành nền văn hóa
nói chung. Từ phương pháp tiếp cận hệ thống - cấu trúc và tính độc lập tương
đối của văn hóa pháp lý, chóng ta có thể nhận diện được cấu trúc, vai trò và
chức năng của văn hóa pháp lý, cũng như sự tác động qua lại giữa văn hóa
pháp lý với các hiện tượng khác của đời sống xã hội. Muốn nhận thức được
một cách đầy đủ về văn hóa pháp lý, trước tiên phải xác định được cấu trúc
17
của văn hóa pháp lý. Xung quanh vấn đề này còn có những ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng cấu trúc của văn hóa pháp lý là một thể thống nhất của tri
thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi xử sự tích cực đối với
pháp luật. Theo ý kiến khác, văn hóa pháp lý được cấu thành từ ba bộ phận là:

ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các phương tiện pháp luật và khả
năng, trình độ sử dụng pháp luật để xử lý các quan hệ xã hội [69, tr.18].
Đa sè ý kiến đều thừa nhận rằng: văn hóa phản ánh và thể hiện một
cách tổng quát, sống động mọi mặt trong cuộc sống của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng đã diễn ra trong quá khứ và đang diễn ra trong hiện tại, nó cấu
thành một hệ thống các giá trị truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó, từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình. Theo cách hiểu đó, văn
hóa là một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc được thể hiện
qua ba yếu tố cốt lõi: các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố ý thức);
các giá trị vật chất kỹ thuật do con người lao động, sáng tạo ra trong lĩnh vực
đó (hiện thực hóa yếu tố ý thức), và cuối cùng là năng lực, cách thức sử dụng
các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần
của con người (yếu tố hành vi, lối sống). Các yếu tố này được giữ gìn, lưu
truyền qua nhiều thế hệ, phản ánh bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng
lĩnh vực hoạt động. Theo các căn cứ nêu trên, có thể nói rằng: văn hóa pháp lý
được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật; hệ thống pháp luật và và cuối
cùng là hành vi theo pháp luật và lối sống theo pháp luật.
- Ý thức pháp luật. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức
pháp luật là yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa pháp lý. Căn cứ vào đặc
điểm, tính chất và phương thức phản ảnh, ý thức pháp luật gồm có hai bộ
phận là tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
18
+ Tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm
có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật. Tư tưởng pháp luật phản ánh
trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề có tính chất bản chất
của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Hạt nhân cốt lõi của tư tưởng pháp
luật là tri thức khoa học về pháp luật.
+ Tâm lý pháp luật là những tình cảm, tâm trạng, cảm xúc, thái độ,
cách đánh giá của cá nhân và các nhóm xã hội về pháp luật cũng như các
hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu

hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật
truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nói cách khác
là ở cấp độ này, ý thức pháp luật mới chỉ thể hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu
và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó: điều hay lẽ phải, việc nên làm,
điều cần tránh theo tình cảm hướng thiện.
Sự thống nhất hài hòa giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật trong ý
thức pháp luật thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, sự đánh giá
về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng
như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Với
tư cách là yếu tố cơ bản và quan trọng của văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật tích
cực và tiến bộ là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội và
bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật.
- Hệ thống pháp luật. Đây chính là một trong những kết quả đã được
hiện thực hóa từ năng lực hoạt động pháp luật của con người. Khi nói đến
văn hóa pháp lý của một quốc gia, một dân tộc thì không thể không nói đến
hệ thống pháp luật của quốc gia, dân tộc đó. Hệ thống pháp luật ở đây được
hiểu là tổng thể những quy phạm pháp luật đã được ban hành và tồn tại
19
trong quá khứ cũng như trong hiện tại, bao gồm cả những luật tục của các
cộng đồng dân cư cũng như pháp luật của nhà nước. Hệ thống pháp luật
chính là một yếu tố đóng góp những giá trị để làm nên diện mạo, bản sắc
của một nền văn hóa pháp lý. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
vừa là một đòi hỏi khách quan của xã hội và của nền văn hóa xã hội, vừa có
tác dụng tạo cơ sở cho sự phát triển văn hóa pháp lý. Hệ thống pháp luật
hoàn thiện đạt được các tiêu chí toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực tiễn là
một biểu hiện sinh động của nền văn hóa pháp lý cao.
- Hành vi theo pháp luật và lối sống theo pháp luật. Hành vi và lối sống
theo pháp luật là yếu tố cấu thành thứ ba của văn hóa pháp lý. Nó thể hiện
cách thức, khả năng, trình độ sử dụng pháp luật và các công cụ pháp luật của

từng cá nhân, của cộng đồng và nhà nước trong quá trình đấu tranh vì sự bình
đẳng xã hội và công lý theo định hướng chân, thiện, mỹ.
+ Hành vi theo pháp luật là hành động có ý thức của con người và tổ
chức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành
vi theo pháp luật mang ý nghĩa tích cực và được coi là hành vi hợp pháp hay
là hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật, dựa
trên cơ sở những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp
với xã hội. Hành vi pháp luật tích cực (hành vi hợp pháp) có ý nghĩa xã hội và
văn hóa to lớn: một mặt, nó nói lên động cơ hành vi của chủ thể; mặt khác, nó
phản ánh nhu cầu tiến bộ của xã hội, sự hài hòa ở những mức độ khác nhau
gữa lợi Ých xã hội mà pháp luật phản ánh với lợi Ých cá nhân, giữa nhu cầu
của nhà nước và nhu cầu của cá nhân công dân, có tác dụng làm ổn định xã
hội và tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật. Vì vậy, hành vi hợp pháp thể
hiện trình độ văn hóa pháp lý cao và được xã hội tôn trọng.
20
+ Lối sống theo pháp luật gắn liền với hành vi theo pháp luật. Lối sống là
tổng thể những nét cơ bản đặc trưng cho hoạt động sống và phương thức hành
động của con người, của các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội hay cộng
đồng xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định. Hoạt động sống và phương
thức hành động của cộng đồng như thế nào thì sẽ tạo ra lối sống như thế Êy. Lối
sống theo pháp luật là một loại hình của lối sống dựa trên nền tảng ý thức pháp
luật xã hội tiên tiến, là một biểu hiện của lối sống có văn hóa cao. Nã mang tính
cộng đồng và có tác dụng tạo ra môi trường tích cực cho quá trình xã hội hóa
hành vi theo pháp luật của các cá nhân, của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã
hội. Lối sống theo pháp luật vừa có tác dụng đóng góp vào quá trình sáng tạo ra
các giá trị văn hóa pháp lý, lại vừa là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá trị
văn hóa pháp lý trong thực tiễn cuộc sống của cộng đồng xã hội mà đỉnh cao của
quá trình đó là "Sống, học tập, lao động theo hiến pháp và pháp luật".
1.1.3. Chức năng của văn hoá pháp lý
Có thể nói, văn hóa pháp lý có ba chức năng cơ bản sau đây:

- Chức năng nhận thức. Nhận thức là chức năng đầu tiên của văn hóa
trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động xã hội nào. Văn hóa pháp lý cũng vậy, thiếu
chức năng nhận thức thì không thể nói đến bất kỳ chức năng nào khác, bởi vì,
một bộ luật, một đạo luật nào đó - với tư cách là sản phẩm văn hóa pháp lý,
trước khi đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò và hiệu lực trong việc
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong xã
hội thì nó phải được mọi người hiểu và nhận thức đúng.
Trình độ lập hiến, lập pháp là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp
lý. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có thể có được khi
các nhà làm luật nhận thức được một cách sâu sắc các quy luật của đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội, phát hiện những quan hệ xã hội mới nảy
21
sinh, nhận thức được sự cần thiết và mức độ phải có pháp luật điều chỉnh.
Văn hóa pháp lý giúp cho các nhà làm luật hiểu biết và xử lý tốt các tình
huống mà cuộc sống đặt ra theo yêu cầu chân, thiện, mỹ. Nâng cao trình độ
nhận thức của con người cũng chính là phát huy những tiềm năng, năng lực
bản chất của con người. Đó là bước đầu rất quan trọng để hoàn thiện con
người, hoàn thiện xã hội. Do đó, văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý
luôn luôn chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hiệu quả trong lĩnh
vực văn hóa pháp lý cũng là khát vọng hướng tới cái Chân - thiện - mỹ.
Cũng cần khẳng định rằng, phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp
lý, đặc biệt là trong các tầng lớp nhân dân lao động, sẽ là một động lực
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa pháp lý, tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và
các giá trị xã hội của pháp luật. Chức năng nhận thức là tiền đề quan trọng
để thực hiện các chức năng khác của văn hóa pháp lý.
- Chức năng giáo dục. Các hoạt động của văn hóa pháp lý rất đa dạng
và phong phú và đều hướng tới cái tốt, cái đẹp, qua đó tác động đến con
người và xã hội. Chính khía cạnh này thể hiện chức năng giáo dục của văn
hóa pháp lý. Văn hóa pháp lý là sản phẩm hoạt động pháp luật của con người.

Trong môi trường xã hội có sự điều chỉnh của pháp luật, toàn bộ các hành vi,
hoạt động xã hội của con người được thể hiện ra trong các tình huống ứng xử.
Ở đó, con người tiếp xúc với nhau, tác động đến nhau, trao đổi, yêu cầu và
tiếp nhận ở nhau một điều gì đó trong khuôn khổ luật định. Văn hóa pháp lý
với các yếu tố chân, thiện, mỹ chỉ đường cho các thành viên xã hội lựa chọn
cách xử sự như thế nào để tránh được xung đột với các cá nhân khác. Mỗi
người phải hành động như thế nào để vừa đạt được lợi Ých của mình, vừa
không vi phạm pháp luật. Các cách xử sự đó được chọn lọc, được kiểm
nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu ứng xử, thẩm thấu vào ý thức
22
của mỗi người, biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật và ở tình cảm
đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp lý góp phần tạo ra môi trường văn
hóa giáo dục và môi trường đời sống tinh thần, ý thức pháp luật của con
người.
Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp lý là nói đến việc định
hướng cho hành vi theo pháp luật của con người. Hành vi theo pháp luật, như
chúng ta đã biết, là hành vi có ý thức của con người diễn ra trong môi trường
điều chỉnh của pháp luật. Trong mọi trường hợp, hành vi theo pháp luật chỉ có
thể là hành vi hợp pháp. Tuy nhiên, ý nghĩa giáo dục từ việc định hướng cho
hành vi theo pháp luật là ở chỗ, giáo dục cách xử sự tích cực đối với pháp luật
dựa trên ý thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các giá
trị văn hóa pháp lý. Mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện, không muốn thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật hay phá vỡ các quy tắc và những yêu cầu,
đòi hỏi của chuẩn mực pháp luật. Nhưng để đạt được điều này, bên cạnh ý
thức tự giác, tích cực của mỗi người còn cần đến chức năng giáo dục. Định
hướng giá trị văn hóa pháp lý là xu hướng của con người muốn vươn lên
chiếm lĩnh hoặc tiếp cận các giá trị văn hóa cao đẹp của pháp luật, nhờ đó mà
dần dần hoàn thiện nhân cách của mình.
- Chức năng thực tiễn. Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý có
mối liên hệ mặt thiết với chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, vì mọi

hoạt động thực tiễn pháp luật chỉ có thể đạt hiệu quả cao dựa trên cơ sở giáo
dục và nhận thức. Nói đến chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý trước hết
là nói đến sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp lý
vào hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật của nhà nước. Chính sách
pháp luật là một khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động lập
pháp nói chung và việc xây dựng các bộ luật, các đạo luật nói riêng. Chính
sách pháp luật có ảnh hưởng tới ý thức và tâm lý của con người, góp phần
23
hình thành ý thức pháp luật mang tính tích cực của các cá nhân và các nhóm
cộng đồng. Dưới tác động của văn hóa pháp lý, việc hoạch định và xây dựng
chính sách pháp luật đúng đắn là định hướng quan trọng cho công tác xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý có vấn đề dự báo về
tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật. Cơ sở của dự báo là sự nhận
thức sâu sắc các quy luật phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; là sự hiểu
biết đầy đủ về các yếu tố, các điều kiện làm phát sinh các quan hệ xã hội mới.
Khi văn hoạt động lập pháp đạt tới trình độ cao và các nhà làm luật nêu ra
được các chuẩn mực cơ bản thì khả năng dự liệu quy tắc điều chỉnh các quan
hệ xã hội mới phát sinh cũng sẽ đạt tới một mức độ cần thiết. Đến lượt mình,
dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật lại là cơ sở để định
hướng chính sách pháp luật.
1.2. CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA VĂN HOÁ PHÁP LÝ
Văn hoá pháp lý không phải là các giá trị bất biến mà nó luôn vận động,
biến đổi. Văn hoá pháp lý phụ thuộc vào một tổng hệ các giá trị thành tố và
mang tính khách quan, lịch sử. Với cách tiếp cận duy vật biện chứng khi
nghiên cứu văn hoá pháp lý, chóng ta phải luôn đặt nó trong mối liên hệ phổ
biến và trong sự phát triển. Tức là, phải xem xét văn hoá pháp lý trong mối
quan hệ biện chứng với rất nhiều hiện tượng xã hội khác trong đó quan trọng
nhất là mối quan hệ với kinh tế, chính trị, pháp luật và với yếu tố văn hoá nói

chung. Bản chất của các mối quan hệ đó là sự tác động ảnh hưởng hai chiều
giữa văn hoá pháp lý và các hiện tượng nói trên và ngược lại. Trong mục này,
chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu sự ảnh hưởng của kinh tế, chính trị, văn hoá
nói chung và pháp luật đối với văn hoá pháp lý.
24
1.2.1. Ảnh hưởng của kinh tế đối với sự hình thành và phát triển của
văn hoá pháp lý
Kinh tế là một nhân tố quyết định kiến trúc thượng tầng xã hội và là
nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá pháp lý.
Xuất phát từ cấu trúc của văn hoá pháp lý (ý thức pháp luật, hệ thống
pháp lụât, hành vi và lối sống theo pháp luật) chúng ta có thể thấy, kinh tế là
nhân tố tác động trực tiếp và có tính quyết định đối với ý thức pháp luật và lối
sống, thói quen tuân thủ pháp luật của con người trên lãnh thổ của một quốc
gia. Có thể thấy sự ảnh hưởng của kinh tế đối với văn hóa pháp lý một cách rõ
nét nhất ở sự tác động của kinh tế tới hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Kinh tế là yếu tố chủ yếu quy định pháp luật. Sự phụ thuộc của pháp luật vào
kinh tế thể hiện ở chỗ: nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế quyết
định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Kinh tế có tác động quyết định
đến chính sách pháp luật, đến hệ thống pháp luật và từ đó tác động rất lớn đến
hành vi, lối ứng xử theo pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Từ vai trò của kinh tế, chúng ta có thể thấy rằng, một nền kinh tế năng động
sẽ là động lực để hình thành nên một đời sống pháp luật lành mạnh, hiệu quả và
từ đó sẽ góp phần hình thành những giá trị văn hóa pháp lý tiến bộ và ngược lại.
Điều đó được minh chứng bằng lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam. Xã hội
Việt Nam trước đây là một xã hội trọng nông, ức thương trong một lịch sử hàng
nghìn năm. Tuy có những thời điểm đã có sự giao lưu thương mại với nước
ngoài và đã tạo được những trung tâm thương mại, các thương cảng có vị thế
trong khu vực như Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, nhưng sau khi các thương nhân
nước ngoài rút khỏi các thương cảng này do những chính sách của các triều đại
phong kiến thì các thương cảng này nhanh chóng bị tàn lụi và quay trở lại là

những làng xã thuần nông mà không thể trở thành các đô thị như đã từng xảy ra
25

×