Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

đề tài: phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.59 KB, 49 trang )

Trường đại học kinh tế quốc dân
VIỆN SAU ĐẠI HỌC
o0o
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Triết học
Đề tài: Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong
hoạt động (nhận thức/thực tiễn).
Nhóm Học Viên - Lớp CH18J:
1. Phạm Thanh Nga
2. Nguyễn Thị Bích Ngọc
3. Dương Thị Ánh Nguyệt
4. Đặng Thanh Nhung
5. Phạm Thị Thu Phương
6. Trương Thị Lan Phương
7. Tạ Hồng Thanh
8. Trần Việt Thành

Hà nội: 02 / 2010
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 5
1. Phép biện chứng duy vật 5
2. Các nội dung cốt lõi của phép biện chứng duy vật 6
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật 6
2.2. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 10
2.3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật 16
3. Phép BCDV với tư cách là một khoa học và phương pháp luận 19
PHẦN 2: VẬN DỤNG PHÉP BCDV TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN 21
1. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong kinh doanh 21
1.1. Trong triết lý kinh doanh, sứ mệnh, tầm nhìn của doanh nghiệp 21
1.2. Trong xây dựng và thực hiện chiến lược 23


1.3. Trong quản lý nguồn nhân lực 26
1.4. Trong quản trị Marketting 31
1.5. Trong vấn đề văn hóa kinh doanh 33
1.6. Trong các hoạt động quản trị khác 36
2. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong các hoạt động khác 38
2.1. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong hoạt động vĩ mô - Bài học lịch sử của dân tộc
Việt Nam 39
2.2. Trong hoạt động vi mô - Nhận thức và hành động của cá nhân 45
PHẦN 3: THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG PHÉP BCDV TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN 46
1. Về thực trạng 46
2. Về các giải pháp 47
KẾT LUẬN 49
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
P
H

N

M


Đ

U
Phép biện chứng duy vật theo Ph.Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa
học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng (…) là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
V.I.Lênin viết “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con

người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”. Hồ Chí Minh đánh
giá “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”. Có thể hiểu phép
biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Và thực
chất phép biện chứng duy vật vừa mang tính khoa học, vừa mang tính thực tiễn,
phương pháp luận. Điều này thể hiện ở chỗ các nội dung, luận điểm của phép biện
chứng duy vật là khoa học đã được phát triển và kiểm nghiệm trên thực tế. Ngoài ra,
phép biện chứng duy vật còn là phương pháp luận có nghĩa là đưa ra phương pháp,
công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
Trải qua một thời gian rất dài với những bước ngoặt quanh co khác nhau nhưng
chủ nghĩa Mác lê nin (nói chung) và phép biện chứng duy vật (nói riêng) vẫn chứng
minh được tính đúng đắn và cách mạng của mình và hiện nay vẫn được nhân loại tôn
vinh và phát triển. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết các bài học quan trọng, một
trong số đó là bài học kiên trì chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng lý luận của Đảng. Công cuộc đổi mới thành công của Đảng và nhân dân ta trong
thời gian vừa qua đã minh chứng tính đúng đắn trong lý luận, nhận thức và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê Nin của đảng ta.
Phép biện chứng duy vật là hạt nhân cốt lõi, giúp hình thành thế giới quan và
nhân sinh quan của mỗi con người, ngoài ra là một phương pháp luận quan trọng để
nhận thức và giải quyết thực tiễn. Vì vậy, việc hiểu và vận dụng sáng tạo phép biện
chứng duy vật trong thực tiễn là một việc làm rất cần thiết. Trong phạm vi bài tiểu
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 3
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
luận, nhóm 5 chọn đề tài “Vận dụng phép biện chứng duy vật trong hoạt động nhận
thức/thực tiễn” nhằm góp phần sáng tỏ theo hướng trên. Mục đích của bài tiểu luận
nhằm làm sáng tỏ thêm việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong các hoạt động
thực tiễn, đặc biệt là hoạt động quản trị kinh doanh, từ đó có nêu thực trạng và đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong thực tiễn.
Trong bài tiểu luận có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, có nhiều ví dụ cụ thể minh
họa, tuy nhiên quan điểm chung là với phạm vi bài tiểu luận thì vấn đề được trình bày

ở mức độ khái quát, còn đi sâu vào từng phạm vi thì cũng có thể trình bày được rất
nhiều nhưng sẽ không phù hợp với phạm vi bài tiểu luận này.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 4
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật theo Ph.Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa
học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng (…) là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
V.I.Lênin viết “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con
người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”. Hồ Chí Minh đánh
giá “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”. Có thể hiểu phép
biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logíc biện chứng. Sự ra đời của
phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học; là
phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là “phương
pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng”
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao
trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự
nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý,
quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ sở
khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát
đến tự giác. Theo Ph.Ăngghen, “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi
phối trong toàn bộ giới tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và

sự chuyến hóa cuối cùng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với những hình
thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
Nói tóm lại, phép biện chứng duy vật được tạo thành từ: hai nguyên lý; ba quy
luật và sáu cặp phạm trù được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Cho nên,
nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nghiên cứu, nắm vững những nguyên lý, những quy luật, những cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được sự phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy từ đó có thể giải quyết được các nhu cầu thực tiễn đặt ra.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 5
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
2. Các nội dung cốt lõi của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Thế giới được tạo từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau.
Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại
độc lập, tách rời nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại thì nhân tố gì quy
định sự liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia: giữa chúng
không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ
hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Trong số những người theo quan điểm siêu
hình cũng có người thừa nhận sự liên hệ và đặc tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ
nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như là một chỉnh
thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách
biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Khi trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của sự
liên hệ, sự tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên
hay ở ý thức, ở cảm giác của con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm, Béccơli coi
cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng là cảm giác. Đứng trên quan điểm

duy tâm khác quan, Hêghen tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện
tượng ở ý niệm tuyệt đối. Những người theo quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng
định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là tính thống nhất
vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù
có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức của
con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất
có tổ chức cao là bộ óc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của
các quá trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ
biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự
liên hệ qua lại đó. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong; Có mối liên hệ
chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh
vực riêng biệt của thế giới đó. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà
trong đó có sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung
gian. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ
ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau, có mối liên hệ giữa các mặt
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 6
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển
qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo
thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng …
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát
triển của chính các sự vật và hiện tượng quy định.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển
của các sự vật và hiện tượng.
Mối liên hệ biên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật; nó giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài
là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau; nói chung, nó không có ý

nghĩa quyết định; hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát
huy tác dụng đối với sự vận động và sự phát triển của sự vật. Chẳng hạn, sự phát triển
của một cơ thể động vật trước hết và chủ yếu là do các quá trình đồng hóa và dị hóa
trong cơ thể đó quyết định; môi trường (thức ăn, không khí …) mặc dù có tốt mấy
chăng nữa mà khả năng hấp thụ kém, thì con vật ấy cũng không lớn nhanh được.
Tương tự như vậy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra thời cơ,
nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước phát triển.
Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không, trước hết
và chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của Đảng, của nhà nước và nhân dân ta.
Song cơ thể cũng không thể tồn tại được, nếu không có môi trường; chúng ta
cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu không hội nhập quốc tế, không
tận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế
giới đã đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi
khi có thể giữ vai trò quyết định.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng
có tính chất tương tự như đã nêu ở trên, ngoài ra, chúng còn có những nét đặc thù.
Chẳng hạn, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này, lại là tất nhiên khi xem
xét trong một mối liên hệ khác, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
cái tất nhiên; hiện tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là
những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên hệ tương ứng.
Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính
tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Sự chuyển hóa như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi
xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật và hiện tượng. Khi
xem xét lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội, lĩnh vực tư tưởng - tinh
thần như là những thực thể khác biệt, thì sự liên hệ qua lại giữa chúng là liên hệ bên
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 7
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
ngoài. Khi xem đó là bốn lĩnh vực cơ bản cấu thành một chỉnh thể xã hội, thì mối liên
hệ giữa chúng là liên hệ bên trong. Đó là ví dụ cho trường hợp thứ nhất. Các doanh

nghiệp A, B, C… trong nhiều năm trước đây tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập,
mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên nogài. Giờ đây các doanh nghiệp đó được
kết hợp lại thành công ty, thành tổng công ty thì mối liên hệ giữa chúng đã chuyển
thành mối liên hệ bên trong - khi xem công ty, tổng công ty là một sự vật. Đó là thí dụ
cho trường hợp thứ hai.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên,
trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những
loại liên hệ chung, mang tính phổ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng
biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các ngành
khoa học khác.
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
Sự liên hệ và tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển. Mối liên
hệ khách quan giữa liên hệ phổ biến và sự vận động; phát triển trong hiện thực quy
định mối liên hệ hữu cơ giữa nguyên lý về mối liên hệ phổ biến với nguyên lý về sự
phát triển.
Trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một cặp phạm trù triết học
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Theo quan điểm đó, phát triển là một
trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính
quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và
của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật
vùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển thừa nhận tính phức tạp, tính không trực
tuyến của bản thân quá trình đó. Sự phát triển trong hiện thực và trong tư duy diễn ra
bằng con đường quanh co, phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối. Vận
dụng quan điểm đó về sự phát triển vào việc xem xét đời sống xã hội, V.I.Lênin cho
rằng nếu hình dung sự phát triển lịch sử toàn thế giới như con đường thẳng tắp, không
có những bước quanh co, những sự thụt lùi đôi khi rất xa so với xu hướng chủ đạo là
không biện chứng.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về

lượng dẫn tới sự thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường xoáy trôn ốc, nghĩa
là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điển xuất phát, nhưng trên
một cơ sở mới cao hơn.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong
bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển, trong quan điểm duy vật
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 8
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
biện chứng, là quá trình tự thân của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy, phát triển là
một quá trình khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách
quan của sự phát triển, nó còn khẳng định tính phổ biến của sự phát triển với nghĩa là
sự phát triển diễn ra ở tất cả các lĩnh vực - từ tự nhiên đến xã hội và tư duy, từ hiện
thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy. Khi đề
cập đến vấn đề này, V.I.Lênin lập luận: “nếu tất cả đều phát triển, thì cái đó có áp dụng
cho những khái niệm và những phạm trù chung nhất của tư duy không? Nếu không thì tức là
tư duy không có liên hệ gì với tồn tại cả. Nếu có, thì tức là có phép biện chứng của những
khái niệm và phép biện chứng của nhận thức, phép biện chứng này có một ý nghĩa khách
quan”.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cung cấp cho chúng ta phương
pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Tự nhiên, xã hội và tư duy nằm trong quá trình vận động và phát triển không
ngừng. Bản chất khách quan của quá trình đó đòi hỏi chúng ta, để phản ánh đúng đắn
hiện thực khách quan, cần có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là, khi xem xét
các sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát
hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng. Liên quan tới vấn đề này,
V.I.Lênin viết: “Logíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự vận
động” (…) trong sự biến đổi của nó”.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức
sự vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng

với giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về
toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng đến sai lầm
nghiêm trọng.
Hơn nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang
có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá
trình phát triển, sự vật thường đồng thời có những sự biến đổi tiến lên và có cả những
biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được, khi bằng tư duy
khoa học chủ thể khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi
khác nhau đó.
Sự phát triển của sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy
mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng vào quá trình nhận thức cũng
đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là
một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi quan,
dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 9
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khắn, trắc trở. Vận dụng quan
điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn
nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm
ra mâu thuẫn của chính sự vật, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Hơn nữa, sự phát triển biện chứng của các quá trình hiện thực và của tư duy hiện
thực bằng con đường thông qua những sự tích lũy về lượng mà tạo ra sự thay đổi về
chất, thông qua phủ định của phủ định. Do vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển
vào hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo sự vật còn đòi hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực
của mình trong việc hiện thực hóa hai quá trình nêu trên.
2.2. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.2.1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất
và ngược lại (Quy luật Lượng - Chất)
Theo quan điểm duy vật biện chứng, Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ

tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các
thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như
của các thuộc tính của nó.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và
phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất
không diễn ra độc lập với nhau, trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng
không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản
chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà
không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Chẳng hạn, khi xét các trạng thái tồn
tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau (chất - trạng thái), ứng với
chất - trạng thái đó, lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù lượng có thay đổi trong phạm vi
khá lớn (0
o
C < t
o
C < 100
o
C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất -
trạng thái). Tương tự như vậy, nhiệt độc của thanh thép có thể được tăng lên hàng trăm
độ, thậm chí tới hàng ngàn độ mà thép vẫn ở trạng thái rắn, chưa chuyển sang trạng
thái lỏng. Sự thay đổi của lượng chưa dẫn tới sự thay đổi của chất trong những giới
hạn nhất định. Vượt giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi,
chất mới ra đời.
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự
vật, được gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng
và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản về chất của sự vật.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 10

Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự
vật được gọi là điểm nút. Trong thí dụ về chất - trạng thái của nước được nêu trên, 0
o
C
và 100
o
C là những điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống
nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể
hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau
khi ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi chung của lượng Chất mới có thể
làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật đó. Chẳng hạn, chúng ta không thể dùng chai một lít (thể tích của nó
đủ để chứa hết một lít nước ở trạng thái lỏng) để chứa hết một lít nước sau khi đã cho
lít nước đó hóa hơi. Tốc độ vận động của phân tử nước ở trạng thái hơi cao hơn rất
nhiều so với tốc độ vận động của phân tử đó trong trạng thái lỏng…
Từ những điều trình bày trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển
hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như
sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về
lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua
bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi
về chất chúng ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của

nó. Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của các sự vật chỉ trở nên
đúng đắn và được làm sâu sắc thêm, khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và
lượng của sự vật đó.
Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau
cho nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý
nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên trong sự phát triển xã hội, phải biết kịp thời
chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang
tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
2.2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn)
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được
làm sáng tỏ thông qua một loạt những phạm trù cơ bản: “mặt đối lập”, “sự thống
nhất” và “đấu tranh của các mặt đối lập”.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 11
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Khi nghiên cứu bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, chúng ta cũng thấy các sự vật, hiện
tượng đó được tạo thành từ nhiều bộ phận, mang nhiều thuộc tính khác nhau. Một
phân tử nước do hai nguyên tử Hydrô và một nguyên tử ôxy tạo thành. Thép do Fe và
C liên kết lại theo một tỷ lệ nhất định giữa các nguyên tử đó mà ra.
Xem xét kỹ hơn chúng ta lại thấy, trong số các yếu tố cấu thành sự vật hay trong
số các thuộc tính của sự vật đó không chỉ có sự khác nhau, có cả những cái đối lập
nhau. Chẳng hạn, trong nguyên tử với tính cách là yếu tố cấu thành phân tử có hạt
mang điện tích dương, có hạt mang điện tích âm; trong cơ thể sinh vật có yếu tố di
truyền, có yếu tố gây biến dị, có quá trình đồng hóa, có quá trình dị hóa…
Khi nói tới những nhân tố cấu thành mâu thuẫn biện chứng, “đối lập”, “mặt đối
lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác
động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Đặc trưng đó cho thấy sự khác
biệt rất cơ bản giữa quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy tâm, siêu hình về
mâu thuẫn cũng như sự khác biệt về chất giữa mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn

logíc hình thức.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong cả tự nhiên lẫn trong xã hội và tư duy. Mâu
thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn
gốc phát triển của nhận thức, của tư duy trên con đường vươn tới chân lý khách quan,
chân lý tuyệt đối về hiện thực. Những mâu thuẫn logíc hình thức chỉ tồn tại trong tư
duy, nó xuất hiện do sai lầm trong tư duy. Mâu thuẫn logíc hình thức là mâu thuẫn
được tạo thành từ hai phán đoán phủ định nhau về cùng một sự vật và cùng một quan
hệ tại cùng một thời điểm; trong hai phán đón đối lập đó, chỉ có một là chân lý. Việc
giải quyết mâu thuẫn logíc hình thức được thực hiện bằng cách loại bỏ nó khỏi tư duy.
Việc thủ tiêu như vậy là điều kiện để có nhận thức đúng đắn về sự vật.
Hai mặt đối lập tuy có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó
chặt chẽ với nhau, chúng đồng thời tồn tại. Chẳng hạn, nguyên tử nào cũng có hạt
mang điện tích dương, hạt mang điện tích âm; cơ thể sinh vật nào cũng có đồng hóa và
dị hóa…
Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất
của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự
tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy, cũng có thể
xem xét sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời của hai mặt đó.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất”
với nhau. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng
nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 12
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt
đối lập kia - khi xét về một vài đặc trưng nào đó. Thí dụ, sự phát triển kinh tế trong
chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra tiền đề cho sự
thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tách động ngang nhau của
chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển,
khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.

Như vậy, không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau
của các mặt đó. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình
thức đấu tranh của các mặt đối lập. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh của các mặt
đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như của mối quan hệ qua lại
giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều
kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối
lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật.
Sự đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và sự phát
triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Khi xem xét mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin viết:
“Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự
đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối”.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu thực chất quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt,
những khuynh hướng đối lập tạo nhành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển,
dẫn tới sự mất đi cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn của nó là cực kỳ
quan trọng. Bởi vì trong tiến trình nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng ta nhận thức
sự vật như một thực thể đồng nhất. Tiếp đó, khi phân tích sâu hơn ta phát hiện ra sự
khác nhau, trong những khác nhau đó lại thấy những đối lập, nghiên cứu sự tác động
qua lại giữa các mặt đối lập ta biết được mâu thuẫn của nó và biết được nguồn gốc
của sự vận động và phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá
trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng

Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 13
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm cho những mặt đó biến đổi; đánh giá đúng
tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng giai đoạn; xem những
mặt đối lập đó có những yếu tố gì chung; xem mâu thuẫn đó có gì giống với những
mâu thuẫn khác và có những đặc điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của
nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chính muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương
thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn
để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chính muồi. Cho nên, chúng ta
không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng
không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo
điều kiện thúc đẩy sự chính muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới hình thức cụ thể rất
khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác
nhau. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải
có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
2.2.3. Quy luật phủ định của phủ định (Quy luật phủ định biện chứng)
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu
trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản sau đây: thứ nhất, nó mang tính
khách quan, là điều kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa, là nhân tố
liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản
thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tùy thuộc
ý muốn của con người. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng mỗi sự vật có
phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển.
Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ
định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm

trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định biện
chứng, do vậy, là sự phủ định mang tích kế thừa. Với nghĩa như vậy, phủ định đồng
thời cũng là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: “Không phải sự phủ định
sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không
phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng… mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với
sự duy trì cái khẳng định”.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 14
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời
của cái mới. Không có cái mới nào lại ra đời từ cái hư vô. Nhờ việc giữ lại nhân tố tích
cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình.
Cái quá khứ không biến đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng chảy vô
tận của thời gian. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối
liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được
kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản
thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn
được duy trì dưới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa tư bản với tư
cách là một chế độ lỗi thời, chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả
của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Song, những yếu
tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo, được biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội để trở thành những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành
những yếu tố nội tại của xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này nói lên mối liên
hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ đinh và cái phủ đinh; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng
không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho
sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số
đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có
tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà là theo đường xoáy ốc.

Khi nghiên cứu quy luật phủ định có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau
đây: Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng
cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái mới
ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống thái độ phủ
định sạch trơn cái cũ.
Trong công tác, chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng
vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi; phải ra sức
bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Trong khi đấu
tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, bỏ thô lấy tinh, biết giữ lấy những gì
là tích cực, là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới;
phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ.
Chẳng hạn, trước tình trạng tạm thời khủng hoảng, thoái trào hiện nay của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu, không chỉ những kẻ chống cộng, có cả một
số người vốn là mácxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn mà chủ nghĩa xã
hội đã tạo dựng được ở những nước trước đó. Họ không thấy được rằng, trong hơn 70
năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã để lại những giá trị tích cực có ảnh hưởng
lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 15
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khử, chúng ta
cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại cả những cái lỗi thời cản trở sự
phát triển của lịch sử. Khi đề cập lệch lạc này trên lĩnh vực văn hóa, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII nhận định rằng, trong những năm gần đây,
“Nhiều hủ tục cũ… lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội…”
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi quá trình phủ định cái cũ, phải biết
kế thừa có phê phán, có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử dụng chung
như là tiền đề cho sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn.
2.3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy
vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất

nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả, khả năng và
hiện thực; nội dung và hình thức v.v… chúng được hình thành và phát triển trong quá
trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng,
cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở
phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp;
khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ
thống. Các phạm trù nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực là cơ sở phương
pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một quá
trình. Các phạm trù nội dung và hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung,
phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và thực tiễn.
2.3.1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh
những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa
những sự vật, hiện tượng này với những sự vật, hiện tượng khác; phân biệt chỗ giống
nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến sự phân biệt cái riêng, cái chung và
cái đơn nhất. Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định.
Cái chung là phạm trù dùng để chỉnh những mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều
sự vật, nhiều hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt những đặc
điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng
khác.
Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau. Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái riêng chỉ
tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, bao hàm cái chung; cái riêng là cái toàn bộ,
phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái
đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật. V.I.Lênin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 16
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái
chung (…). Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ.

Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung, v.v… Bất cứ cái riêng nào
cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác”.
2.3.2. Nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố, hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới và do
vậy phát hiện ra mối liên hệ nhân quả. Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các
mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên
những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân, kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Nguyên
nhân là cái sinh ra kết quả nên luôn có trước kết quả; sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh
hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân, kết quả có tính
tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối liên hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là
kết quả ở trong mối liên hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Do vậy,
nguyên nhân, kết quả bao giờ cũng ở trong mối liên hệ cụ thể.
2.3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không
một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của sự vật, hiện
tượng nên phân chia chúng thành các nhóm các mối liên hệ nhất định phải xảy ra đúng
như thế và nhóm các mối liên hệ có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, cũng có thể
xảy ra thế này hay thế khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những
nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện;
có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao
giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình
thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự
phát triển, còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm,
trong một hình thức này hay hình thức khác. Sự phân biệt tất nhiên, ngẫu nhiên có tính
tương đối; trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
2.3.4. Nội dung và hình thức

Việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên cứu các yếu tố quy
định sự tồn tại của sự vật và phương thức tồn tại của nó. Nội dung là tổng hợp tất cả
những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phương thức tồn tại
và phát triển của sự vật, hiện tượng; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố của sự vật, hiện tượng.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 17
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó
nội dung giữ vai trò quyết định. Nội dung đòi hỏi phải có hình thức phù hợp với nó.
Khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên, hình thức cũng
có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi hình thức phù hợp
với nội dung, nó là động lực thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình
thức cản trở sự phát triển của nội dung. Cùng một nội dung, trong quá trình phát triển,
có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể phù hợp
với những nội dung khác nhau.
2.3.5. Bản chất và hiện tượng
Khi có nhận thức tương đối đầy đủ về những mặt, những mối liên hệ tất yếu và
những đặc tính riêng của sự vật, thì nhận thức đó vẫn chưa vươn tới sự phản ánh đầy
đủ về sự vật. Để nhận thức đúng sự vật, từ các hiện tượng phong phú, nhiều vẻ, con
người tiếp tục đi sâu, nghiên cứu bản chất của sự vật. Bản chất là tổng hợp tất cả
những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài, bên
ngoài của sự vật.
Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Bản chất và
hiện tượng thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ: bản chất thể hiện
thông qua hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể hiện của bản chất; Bản chất “được ánh
lên” thông qua hiện tượng (Hêghen). Tuy vậy, “Nếu như hình thái biểu hiện và bản chất
sự vật phù hợp trực tiếp với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”. Hiện tượng thể hiện
bản chất trong hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản
chất bằng cách bổ sung vào bản chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể quy định, làm hiện

tượng phong phú hơn bản chất. Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện
tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi hơn.
2.3.6. Khả năng và hiện thực
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện
tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo hướng nào,
nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi
của sự vật, hiện tượng. Khả năng là cái hiện thực chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra và khi
có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có đang tồn tại thực sự.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật. Trong hiện thực bao giờ cũng chứa đựng những khả
năng nhất định; ngược lại, khả năng lại nằm trong hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ
biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất phức
tạp. Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật thường xuất hiện nhiều khả năng. Khả
năng nào biến thành hiện thực là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Trong hoạt động thực
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 18
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
tiễn phải dự báo các khả năng và tạo điều kiện cho khả năng tốt thành hiện thực và
ngăn ngừa khả năng xấu.
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống bất biến,
mà phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Mối quan hệ giữa các
phạm trù của các ngành khoa học với các phạm trù của phép biện chứng duy vật là
mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng. Do vậy, khi nghiên cứu các phạm trù cần liên
hệ chúng với nhau và với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, bởi dù
quan trọng đến mấy, chỉ riêng các phạm trù hoặc các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật cũng không phản ánh đầy đủ các mối liên hệ của thế giới.
3. Phép BCDV với tư cách là một khoa học và phương pháp luận
Phép biện chứng duy vật là lý luận được xây dựng từ thực tiễn, đây là một học
thuyết khoa học với các luận điểm đúng đắn, hoàn chỉnh về lý luận. Với các nội dung
cốt lõi như vật chất - ý thức; 2 nguyên lý; 3 quy luật; 6 cặp phạm trù đã tạo thành một
học thuyết hoàn chỉnh. Học thuyết này được xây dựng là sự kết tinh tri thức của nhân

loại, và được kiểm nghiệm cũng như hoàn thiện trên thực tế. Như vậy, phép biện
chứng duy vật là một khoa học, một học thuyết khoa học.
Bên cạnh là một khoa học, phép biện chứng duy vật còn là một phương pháp
luận. Có nghĩa là với các nội dung của mình, phép biện chứng duy vật cung cấp công
cụ, quan điểm nhìn nhận và giải quyết thực tiễn. Về mặt nhận thức, qua phép biện
chứng duy vật, sẽ cung cấp một cái nhìn đúng đắn về hiện thực khách quan, sự vận
động và biến đổi không ngừng, nguyên nhân của sự vận động đó, phương thức vận
động, do đó nhận thức đúng sẽ góp phần vào việc đề xuất ra các giải pháp để giải
quyết nhu cầu thực tiễn.
Mặt khác, phép biện chứng duy vật là một phương pháp luận còn thể hiện ở chỗ
với nội dung cốt lõi của mình đã cung cấp các công cụ giải quyết thực tiễn. Đặc biệt là
các quan điểm như quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát
triển, mối quan hệ giữa vật chất ý thức, quy luật mâu thuẫn, lượng chất, phủ định, sáu
cặp phạm trù, giữa nhận thức và thực tiễn, về chân lý, đều cung cấp những công cụ,
phương pháp để cải tạo thực tiễn. Ví dụ minh họa như quan điểm phát triển đòi hỏi
nhìn nhận sự phát triển của các sự vật và hiện tượng là một quá trình biện chứng đầy
mâu thuẫn. Do vậy, khi nhận thức chúng ta phải thấy rõ được tính quanh co, phức tạp
của quá trình như là một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học như vậy,
người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến triển của quá trình tạm thời gặp trắc trở,
khó khăn. Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận
của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó
đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật, và bằng các hoạt động thực
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 19
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
tiễn nhằm giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp phần tích cực vào
sự phát triển.
Như vậy, phép biện chứng duy vật là một khoa học và phương pháp luận. Tuy
nhiên, nó chỉ là công cụ còn việc vận dụng đạt hiệu quả như thế nào còn phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng nhận thức, vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật trong thực
tiễn.

Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 20
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
PHẦN 2: VẬN DỤNG PHÉP BCDV TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
1. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong kinh doanh
1.1. Trong triết lý kinh doanh, sứ mệnh, tầm nhìn của doanh nghiệp
Triết lý kinh doanh, Sứ mệnh, tầm nhìn của doanh nghiệp có một vai trò rất quan
trọng. Nó định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp ở tầm chiến lược trong hiện tại
cũng như tương lai lâu dài. Trên ý nghĩa chung nhất, nó thể hiện tư tưởng, quan điểm
phát triển cốt lõi nhất của doanh nghiệp. Trả lời cho câu hỏi doanh nghiệp tồn tại vì
mục đích gì? Bằng cách gì? Trong lĩnh vực nào và bằng phương tiện nào? Như vậy, về
khái quát nhất, nghiên cứu triết lý kinh doanh, sứ mệnh tầm nhìn ta có thể thấy được
những nét cơ bản nhất về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn trong kinh doanh của
doanh nghiệp, về kết hợp giữa lý luận và thực tiễn kinh doanh.
Về sứ mệnh của một số công ty tiêu biểu
Matsushita: Hiến dâng mình cho sự phát triển hơn nữa của nền văn minh thế giới.
Honda: Hiến dâng mình cho việc cung cấp những sản phẩm hiệu quả cao với giá phải chăng
trên toàn thế giới.
Samsung: Hoạt động kinh doanh là để đóng góp vào sự phát triển đất nước.
Tôn chỉ của tập đoàn Unilever: Tôn chỉ của tập đoàn Unilever chúng ta là thỏa mãn các nhu
cầu hàng ngày của con người ở mọi nơi, nắm bắt được nguyện vọng đó một cách sáng tạo và
hiệu quả thông qua các dịch vụ và nhãn hàng danh tiếng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tầm nhìn FPT: FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh bằng nỗ lực lao
động sáng tạo trong khoa học kĩ thuật và công nghệ, làm khách hàng hài long, góp phần
hưng thịnh quốc gia. Mục tiêu của công ty là nhằm đem lại cho mỗi thành viên của mình điều
kiện phát trỉển tốt nhất về tài năng, một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần.
Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học, phản ánh thực tiễn kinh doanh
thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát của các chủ thể kinh doanh và
chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, có triết lý kinh doanh được phát triển
khi khởi dựng doanh nghiệp, nhưng phần lớn triết lý kinh doanh được hình thành sau
một thời gian dài trải nghiệm. Có triết lý được hình thành sau khoảng thời gian rất dài

(với Matsushita, Honda đó là khoảng 50 năm), với HP, Viettel đó là sau một thời gian
phát triển thấy cần có mà hình thành nên.
Triết lý quản lý doanh nghiệp của một số hãng nổi tiếng thế giới
Matsushita: Phục vụ dân tộc bằng con đường hoàn thiện sản xuất
Honda: Đương đầu với những thách thức gay go nhấtg trước tiên
Sony: Tinh thần luôn động não, độc lập sáng tạo.
HP: Tiền lãi đó là biện pháp duy nhất thực sự chủ yếu để đạt những kết quả dài hạn của xí nghiệp.
IBM: Thực hiện triệt để nhất việc phục vụ ngừời tiêu dùng, IBM có nghĩa là phục vụ.
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 21
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
Intel: Lao động gian khổ và năng suất cao để đạt tới sự phát triển nhanh chóng.
Castrol: Thực hiện công việc một cách tuyệt hảo và những cách làm việc mới mẻ.
Như vậy, nghiên cứu triết lý kinh doanh ta có thể thấy được rõ tư tưởng chung
của phép biện chứng, vận dụng trong kinh doanh. Đó là nguyên lý mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý phát triển. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến nói lên mọi sự vật có sự
ràng buộc liên hệ với nhau. Sự vận động và phát triển của sự vật không phải tách rời
mà gắn liền trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Có mối liên hệ bên
trong, có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, Đa
dạng như vậy nên tác động đến quá trình vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng cũng không như nhau, do đó tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cũng rất đa dạng khác nhau.
Có thể hiểu, thực tiễn kinh doanh rất đa dạng phong phú với nhiều sự vật hiện
tượng tác động đến sự vận động và phát triển của doanh nghiệp. Có mối quan hệ bên
trong, có mối quan hệ bên ngoài với môi trường, có mối quan hệ với nhà cung cấp,
khách hàng, đối tác,… Nếu doanh nghiệp nhận thức và vận dụng tốt các mối liên hệ
này thì có lợi ích to lớn đến sự phát triển vững mạnh của mình. Để minh họa, chúng ta
hãy nghiên cứu bản báo cáo nhiệm vụ năm 1990 của công ty Adolph Coors đưới đây:
Chúng tôi là một công ty thành công và có tính đổi mới trong số những doanh nghiệp tự
lực vươn lên. Chúng tôi là những người đi đầu trong công nghệ, những sản phẩm và dịch vụ
có chất lượng cung cấp cho khách hàng sự hài lòng cao nhất. Chúng tôi nhằm vào lợi nhuận

và sức tăng trưởng, phát triển những ngành kinh doanh mới từ công nghệ được hình thành từ
nội bộ và sự chiếm hữu qua lại. Công ty chúng tôi được biết đến vì những quan hệ có chất
lượng vốn chân thực, hợp đạo lý và có sự quan tâm. Các nhân viên chúng tôi trưởng thành
từng cá nhân như công ty đã phát triển. Điều kiện làm việc hứng thú, nhiều thử thách và có
sự tưởng thưởng trong một không khí bạn bè cùng làm việc và tôn trọng lẫn nhau. Chúng tôi
có trách nhiệm với xã hội và nỗ lực phấn đấu vì sự cải thiện xã hội.
Như vậy qua nghiên cứu bản báo cáo nhiệm vụ năm 1990 của công ty Adolph
Coors chúng ta có thể thấy được các mối quan hệ ràng buộc tác động đến hoạt động
kinh doanh của công ty.
Ngoài ra, mối liên hệ phổ biến còn biểu hiện ở quan hệ của doanh nghiệp với môi
trường nơi đó doanh nghiệp vận động và phát triển. Có môi trường kinh tế, môi trường
xã hội, môi trường văn hóa, tôn giáo, luật pháp…Trong mối quan hệ khác thì là môi
trường kinh doanh quốc gia, môi trường kinh doanh quốc tế, Tất cả những yếu tố trên
hàng ngày vận động đa dạng không ngừng và tác động đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Do đó, nghiên cứu các yếu tố môi trường để biết được sự vận động và
phát triển của các mối liên hệ, sự tác động như thế nào đến sự vận động và phát triển
của doanh nghiệp rất quan trọng. Đó chính là việc vận dụng mối liên hệ phổ biến trong
kinh doanh. Nghiên cứu sâu hơn nữa, chúng ta có thể thấy được dù sự vật có đa dạng
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 22
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
phong phú đi nữa, những quan điểm khái quát nhất về các mối quan hệ quan trọng
nhất có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp cũng đã được thể hiện
trong triết lý kinh doanh. Ví dụ với Honda đó là “Đương đầu với những thách thức gay
go nhất trước tiên”, điều này có nghĩa là tập đoàn Honda sẽ tập trung vào giải quyết
những khó khăn thử thách nhất mà thường nơi ấy chính là điểm nút tập trung mâu
thuẫn chủ yếu, quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, mà nhờ
giải quyết mâu thuẫn này sẽ đưa sự vật, hiện tượng phát triển lên tầm cao mới. Thực
tiễn đã chứng minh sự đúng đắn của triết lý này của Honda. Minh họa cụ thể có thể lấy
trường hợp vào những năm 50 thế kỉ trước, Honda đã tập trung vào thị trường Mỹ đầu
tiên trước khi hướng đến thị trường châu Á, và điều đúng đắn đó đã được chứng minh

bằng sự phát triển mạnh mẽ của Honda trong giai đoạn đó.
Nghiên cứu thực tiễn kinh doanh ta cũng thấy quan điểm phát triển. Mọi sự vật
hiện tượng tác động đến doanh nghiệp đều vận động, biến đổi không ngừng nhưng xu
thế chung đều có sự vận động biến đổi đi lên. Kinh tế quốc gia tăng lên hàng năm,
mức sống, thu nhập và nhu cầu của khách hàng cũng tăng lên, sự mâu thuẫn, cạnh
tranh cũng ngày càng gay gắt phức tạp với sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật, thông tin
và toàn cầu hóa,… điều đó có nghĩa mọi sự vật vận động tác động đến doanh nghiệp
cũng vận động, biến đổi đi lên không ngừng. Điều này cũng làm cho doanh nghiệp
cũng phải vận động đi lên theo quá trình phát triển. Điều này thể hiện ở doanh thu năm
sau cao hơn năm trước, vị thế doanh nghiệp càng được tăng lên, nhu cầu của khách
hàng càng ngày càng được đáp ứng tốt hơn, tầm nhìn sứ mệnh của doanh nghiệp càng
ngày càng được thực hiện đúng đắn và triệt để hơn,….
Như vậy, nghiên cứu sứ mệnh, tầm nhìn, triết lý kinh doanh ta có thể thấy được
sự vận dụng phép biện chứng và trong hoạt động này.
1.2. Trong xây dựng và thực hiện chiến lược
Quản trị chiến lược có thể được định nghĩa như là một nghệ thuật và khoa học
thiết lập, thực hiện và đánh giá các quyết định liên quan nhiều chức năng cho phép
một tổ chức đạt được những mục tiêu đề ra. Quản trị chiến lược tập trung vào việc hợp
nhất quản trị, tiếp thị, tài chính, kế toán, sản xuất, nghiên cứu và phát triển, và các hệ
thống thông tin các lĩnh vực kinh doanh để đạt được thành công của tổ chức.
Quá trình quản trị chiến lược gồm có 3 giai đoạn: thiết lập chiến lược, thực hiện
chiến lược và đánh giá chiến lược. Giai đoạn thiết lập chiến lược gồm việc phát triển
nhiệm vụ kinh doanh, xác định các cơ hội và nguy cơ đến với tổ chức từ bên ngoài, chỉ
rõ các điểm mạnh và điểm yếu bên trong, thiết lập các mục tiêu dài hạn, tạo ra các
chiến lược thay thế và chọn ra những chiến lược đặc thù để theo đuổi.
Các vấn đề trong hình thành chiến lược bao gồm việc quyết định ngành kinh
doanh mới nào để tham gia, ngành kinh doanh nào nên rút ra, việc phân phối tài
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 23
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
nguyên ra sao, nên hay không nên phát triển hoạt động hay mở rộng, tham gia vào thị

trường thế giới hay không, liên kết hay hình thành một liên doanh, và làm cách nào để
tránh một sự nắm quyền khống chế của đối thủ?
Giai đoạn thực thi chiến lược đòi hỏi công ty phải thiết lập các mục tiêu hàng
năm, đặt ra các chính sách, khuyến khích nhân viên và phân phối tài nguyên để các
chiến lược lập ra có thể thực hiện. Thực thi chiến lược gồm có việc phát triển một văn
hóa hỗ trợ cho chiến lược tạo ra một cơ cấu tổ chức hiệu quả, định hướng lại các hoạt
động tiếp thị, chuẩn bị các ngân quỹ, phát triển và sử dụng các hệ thống thông tin,
khuyến khích các cá nhân hoạt động.
Giai đoạn đánh giá chiến lược sẽ giám sát các kết quả của các hoạt động thiết lập
và thực thi chiến lược. Bước này gồm việc đo lường xác định thành tích của cá nhân
và tổ chức, đồng thời có những hành động điều chỉnh cần thiết. Mặc dù, việc đưa ra
những quyết định chiến lược tốt là trách nhiệm chính của người chủ hay viên chức
điều hành cao cấp trong tổ chức, nhưng cả các quản trị viên và nhân viên thừa hành
cũng phải có liên hệ với các hoạt động thiết lập, thực thi và đánh giá chiến lược. Sự
tham gia đó là yếu tố quyết định để đạt được sự gắn bó cho những thay đổi cần thiết.
Quản trị chiến lược kinh doanh có một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó cho phép
một công ty năng động hơn là phản ứng lại trong việc định hình tương lai. Nó cho
phép một công ty sáng tạo ra và ảnh hưởng (hơn là chỉ phản ứng) với môi trường; và
do đó kiểm soát được số phận của chính mình. Các công ty đạt thành tích cao dường
như đưa ra những quyết định nắm được tình hình với sự dự đoán tốt về những hậu quả
cả trong dài hạn và ngắn hạn. Mặt khác các công ty hoạt động kém thường liên quan
đến những hoạt động tầm ngắn và không phản ánh được sự dự liệu tốt về những điều
kiện tương lai. Michael Allen cho rằng quản trị chiến lược chứng tỏ được sức mạnh
cuốn hút bằng sự cải thiện thành tích mạnh mẽ của một số công ty thực hiện lớn đã
thực hiện nó gồm: General Eletric, American Express, Allied Corporation, Dun &
Brand- Street, và Pitrey Bones.
Vậy, việc xây dựng và thực hiện chiến lược có quan hệ với phép biện chứng duy
vật như thế nào? Hay việc vận dụng phép biện chứng duy vật như thế nào trong việc
xây dựng và thực hiện chiến lược? để cụ thể ta hãy đi vào phân tích cụ thể.
Qua nghiên cứu ở trên, chúng ta thấy quản trị chiến lược có một vai trò đặc biệt

quan trọng. Đặc biệt là với khi môi trường kinh doanh biến động không ngừng, đòi hỏi
doanh nghiệp phải liên tục tìm hướng đi đúng đắn. Như vậy, trong xây dựng và thực
thi chiến lược đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng căn cứ vào tình hình thực tiễn,
phân tích điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp mình liên hệ với cơ hội và nguy cơ
từ môi trường. Từ đó chọn ra những cơ hội, nguy cơ gần nhất, tác động rõ rệt nhất để
đối phó, như vậy doanh nghiệp đã vận dụng rất tốt nguyên lý mối liên hệ phổ biến và
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 24
Phép biện chứng duy vật và sự vận dụng trong hoạt động (nhận thức/thực tiễn)
nguyên lý phát triển. Vì kết thúc quá trình phát triển quanh co này là sự đi lên của
doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp lên một tầm cao mới.
Nghiên cứu sâu hơn ta có thể thấy được trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp
phải không ngừng kết hợp giữa lý luận và thực tiễn kinh doanh; giữa nhận thức và
hành động. Điều này được triết học thể hiện trong mối quan hệ vật chất và ý thức.
Phép biện chứng duy vật khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
đồng thời cũng chỉ rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật
chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định song sau khi ra đời, ý thức có tính độc
lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó
làm cho con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần
thiết cho hoạt động của mình. Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ
tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện
vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một
cách chủ động, sáng tạo với ý chí, nhiệt tình cao. Con người phản ánh càng đầy đủ và
chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới hiệu quả.
Như vậy, điều đó có nghĩa là khi xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh,
không chỉ dựa vào nhận thức, nôn nóng chủ quan, nhiệt tình kinh doanh là đủ mà phải
rất tỉnh táo, nhìn nhận và vận dụng quy luật kinh doanh, có căn cứ vào điểm mạnh,
điểm yếu của doanh nghiệp mình liên hệ với cơ hội, nguy cơ từ biến động từ môi
trường chứ không chỉ nhìn nhận dựa vào chủ quan duy ý chí của mình. Hàng năm có

khoảng 20.000 doanh nghiệp tuyên bố phá sản ở Mỹ. Công ty Dun& Brandstreet thống
kê có 49.719 vụ thất bại trong kinh doanh ở Mỹ vào năm 1989, giảm 13% so với
59.090 vụ trong năm 1988 (thất bại trong kinh doanh gồm phá sản, tịch biên tài sản,
thanh lý và quản lý tài sản theo lệnh của tòa án). Mặc dù có nhiều yếu tố nhưng chung
quy lại là do các doanh nghiệp này đã nhận thức và hành động không đúng với tình
hình thực tiễn, do đó để cho các nguy cơ từ môi trường trở thành hiện thực và tàn phá
doanh nghiệp. Và điều này cũng giải thích tại sao người ta lại xây dựng và phát triển
rất nhiều công cụ dự báo trong kinh doanh, thực chất các công cụ này là nhằm giúp
nhận thức đúng đắn, và chính xác hơn sự biến động của thực tiễn kinh doanh.
Tuy vậy, cũng không ít doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, kể cả trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế thế giới, và sau khi nền kinh tế hồi phục thì họ đã ở một vị thế
khác trên trường quốc tế. Bài học của những doanh nghiệp này chính là nhờ họ đã biết
nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, giữa vật chất - ý thức
và các mối quan hệ ràng buộc liên quan, đặc biệt là biết phát huy vai trò năng động của
ý thức trong giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Cụ thể minh họa là vào giai đoạn
khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009, trong khi General Motor, Toyota bị thua lỗ,
Nhóm Triết học 5 - Lớp CH18J 25

×