Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN: Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.49 KB, 28 trang )

Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
MỤC LỤC

Trang
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………………………………… 2
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………… …2
1. Thực trạng ban đầu của vấn đề…………………………………… 2
2. Biện pháp và quá trình tổ chức tiến hành…………………………………4
2.1. Tính mới của vấn đề………………………………………………….4
2.2. Quá trình tổ chức, tiến hành………………………………………… 5
3. Các tồn tại nảy sinh và cơ sở thực tiễn của vấn đề……………………… 21
3.1. Tồn tại……………………………………………………………… 21
3.2. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn…………………………………… 21
4. Kết quả đạt được……………………………………………………… 22
5. Tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………… 24
6. Phạm vi và tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm…………………… 24
7. Những bài học kinh nghiệm …………………………………………… 25
PHẦN III. KẾT LUẬN……………………………………………………… 26
PHẦN IV: NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT…………………………………26

1
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
“Văn học là nhân học”. Thật vậy văn học có vai trò rất quan trọng trong đời
sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa
học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình
cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể
hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới
các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn.
Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành,
gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.


Môn văn trong nhà trường bậc trung học cơ sở chia làm ba phân môn: Văn
học, Tiếng việt và Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là
phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn là
chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách
trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật đều mình muốn nói”. . . (Dạy văn là một
quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục số 28, 11/1973).
Những năm qua, tôi đều được phân công giảng dạy môn ngữ văn 7. Tôi nhận
thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng
học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi
người đọc” (Văn 7 – tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng,
rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm
tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó quả là đáng lo ngại,
thực trạng vấn đề này ra sao ? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn
biểu cảm ? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học
sinh THCS ? Đó là những vấn đề tôi trăn trở, day dứt, muốn cùng được chia sẻ với các
đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
1. Thực trạng ban đầu của vấn đề :
Qua một năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận
diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, cách vận dụng phương thức
2
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
tự sự, miêu tả để bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn
yếu . Năm học 2011 – 2012, khi cho học sinh viết bài tập làm văn số 2 với đề bài
“Loài cây em yêu”. Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong
nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên bài viết
không phải viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả về
loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “Cảm nghĩ của em về hình
ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết “Bà nội hay thức khuya dậy sớm để
làm việc mà tối nội chưa làm . Bà thường đi làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em

thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội
suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay”. Liệu khi đọc đoạn văn trên,
các đồng nghiệp của tôi có cho rằng đó là một đoạn văn biểu cảm ? Toàn bài viết của
em học sinh đó đều là những lời văn, đoạn văn tương tự như thế. Cũng với đề văn như
trên, một học sinh khác viết “Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con
cháu”. Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp.
Kể cả học sinh khá, dù cảm nhận và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng
làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng thống kê số liệu điểm trung
bình môn văn học kì I khối 7 năm học (2011-2012):
Lớp
Học sinh
giỏi
Học sinh
khá
Học sinh
trung bình
Học sinh
yếu
Học sinh
kém
7a1, 7a5
(63 HS) 15 20 18 8 2
a. Nguyên nhân khách quan:
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp
trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh.
- Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng
học sinh trong một tiết dạy.
- Vì trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết phụ huynh
đều làm thuê hoặc làm ruộng nên các em phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp,
không có thời gian học.

3
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như
xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi
cuốn, xao nhãng việc học.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Chương trình văn biểu cảm hơi khó đối với học sinh khối 7. Thời gian dành cho
thực hành thì lại còn ít nên kĩ năng viết văn biểu cảm của các em còn hạn chế.
- Vì dung lượng thời gian ít nên giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh đòi
hỏi hàm súc, cô đọng. Từ đó giáo viên không cung cấp được nhiều vốn từ cho học sinh
(Đặc biệt đối với học sinh trung bình, yếu). Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù
hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không bao giờ đọc sách, kể cả văn
bản trong sách giáo khoa, không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn.
2. Biện pháp và quá trình tổ chức tiến hành:
2.1. Tính mới của vấn đề:
- Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Vì vậy
đòi hỏi học sinh cần phải có cảm xúc, có những rung động mạnh mẽ xuất phát từ trái
tim, từ tình cảm chân thành đối với đối tượng cần biểu cảm. Ngồi trước trang giấy, nếu
tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung không rõ ý nghĩ gì thì người
viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan,
nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn
trung học cơ sở nói chung, dạy văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương
pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn, một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm.
- Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở trung học cơ sở người dạy và người học
cần nắm vững hệ thống sáu bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học
văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm:
+ Tìm hiểu chung về văn biểu cảm.
+ Đặc điểm của văn biểu cảm.
4

Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
+ Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm.
+ Cách lập ý của bài văn biểu cảm.
+ Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm.
+ Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
- Nhìn chung, chương trình văn biểu cảm hơi khó đối với học sinh khối 7. Thời
gian dành cho thực hành thì lại còn ít nên kĩ năng viết văn biểu cảm của các em còn
hạn chế.
- Phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc học hành của con em, chưa tạo điều
kiện cho con em mình thói quen đọc sách, chưa dành thời gian để chia sẻ, định hướng,
bồi dưỡng tâm hồn cho con nên các em ít có cơ hội phát triển tư duy bộc lộ cảm xúc
tình cảm trong cuộc sống.
- Thời đại công nghệ thông tin phát triển, một số học sinh chỉ biết lấy những bài
sẵn có trên mạng, lười suy nghĩ, động não nên cảm xúc thể hiện trong bài không chân
thành mà chỉ là sự vay mượn, giả tạo. Trong nhiều môn học, học sinh chỉ chú trọng
những môn tự nhiên, xem nhẹ và thiếu đầu tư cho môn Ngữ văn. Vì thế, kĩ năng ứng
xử, giao tiếp còn hạn chế trong việc bày tỏ, bộc lộ cảm xúc.
- Bản thân là giáo viên, tôi cũng muốn nhân rộng những cảm xúc chân thành
của mình đối với mọi sự vật, sự việc…trong từng bài giảng về văn biểu cảm với hi
vọng là giúp các em học sinh biết cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình một cách
sâu sắc.
2.2. Quá trình tổ chức, thực hiện:
a. Chọn phương pháp phù hợp để giảng dạy:
Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn tập làm văn như
phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận Giáo viên cần sáng tạo một số
phương pháp mới như phương pháp đóng vai, sử dụng trò chơi trong học tập
5
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
b. Chuẩn bị phương tiện, các điều kiện cần thiết đặc biệt là nguồn tư liệu
phục vụ bài học:

Đây là một bước vô cùng quan trọng giúp cho tiết học thành công. Máy chiếu
sẽ giúp cho quá trình đưa những tư liệu, hình ảnh một cách sinh động nhất đến với học
sinh. Bên cạnh đó nguồn tư liệu hiện nay vô cùng phong phú qua báo chí, truyền hình,
đặc biệt là Internet sẽ giúp cho việc thực hiện phương pháp trực quan dễ dàng và hiệu
quả hơn. Việc chuẩn bị tư liệu phải được tiến hành trong thời gian dài, được tích lũy
và sắp xếp khoa học theo từng bài: hình ảnh, Video clip, câu chuyện, gương điển
hình để khi cần có thể sử dụng ngay.
c. Tổ chức, thực hiện:
HĐ 1: Tìm hiểu thế nào là văn biểu cảm?
1. Để học sinh nhớ khái niệm một cách có cơ sở, giáo viên đưa ra các ví dụ
(ngoài các ví dụ SGK ) phân tích, hướng dẫn để các em hiểu phương thức biểu cảm
trong ví dụ đó:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bài ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
( Tiếng gà trưa)
Hỏi: Đoạn thơ thể hiện tình cảm nào của tác giả Xuân Quỳnh ?
Trả lời: Đó là tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu bà, yêu kỉ niệm tuổi thơ.
=> Giáo viên khái quát: Văn biểu cảm (còn gọi là văn trữ tình) là kiểu văn bản có
nội dung biểu đạt tư tưởng, tình cảm bộc lộ cảm xúc của người viết, thường là những
6
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
ấn tượng thầm kín, sâu sắc về con người, về sự vật, về những kỉ niệm, những hồi ức
khó quên trong cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, văn biểu cảm có khả năng khơi gợi
những cảm xúc chân thành ở người đọc, tạo sự đồng cảm giữa người đọc và người
viết. Như vậy văn biểu cảm ra đời là để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người khi
vui, khi buồn, khi hạnh phúc hay khổ đau bao giờ con người cũng muốn được thổ lộ,

giãi bày chia sẻ.
2. Trên cơ sở học sinh nắm vững khái niệm văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn
cho các em thực hành nhận biết các văn bản biểu cảm đã học trong chương trình và có
thể đưa thêm một số văn bản khác để các em có cơ hội làm quen với văn biểu cảm.
HĐ 2: Tìm hiểu đặc điểm của văn biểu cảm
1. Giáo viên đưa ra một số văn bản đã học trong chương trình ngữ văn 7
giúp học sinh phân biệt biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp.
a. Bài thơ: Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương
Hỏi: Tìm yếu tố miêu tả trong văn bản “ Bánh trôi nước”?
Trả lời: trắng, tròn, rắn nát, tấm lòng son
Hỏi: Mượn hình ảnh bánh trôi nhà thơ muốn thể hiện tình cảm gì?
Trả lời: Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp duyên dáng và tấm lòng nghĩa
tình thủy chung của người phụ nữ trong xã hội cũ; cảm thương cho thân phận chìm
nổi của họ
b. Hay trong bài thơ Qua đèo Ngang của bà “ Huyện Thanh Quan?
Hỏi: Các yếu tố miêu tả góp phần bộc lộ tình cảm nào của nhà
thơ?
Trả lời: Cảnh Đèo Ngang được miêu tả vào thời điểm “ chiều tà,
bóng xế ” gợi nỗi buồn hiu hắt và đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ. Âm thanh
khắc khoải của tiếng chim cuốc, chim đa đa, chính là nỗi lòng nhớ nước thương nhà
7
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
của Bà Huyện Thanh Quan. Cảnh trời mây non nước mênh mông, bao la đối lập với
sự nhỏ bé của con người càng cực tả nỗi cô đơn trống vắng của tác giả .
=> Biểu cảm gián tiếp: Thái độ và tình cảm của người viết thể hiện một cách gián
tiếp thông qua cách nhìn nhận sự vật, cách dùng từ ngữ ví von so sánh.
c. Cho đoạn văn sau:
Tôi yêu những cánh đồng vàng rực ngày mùa, mù mù khói rạ,
thơm vị mía lùi và trắng xóa sương mù sau tết. Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm
thẳm canh khuya. Tôi yêu ánh nắng chiều trải màu vàng tái, trên rẫy khoai mì nghiêng

nghiêng bên triền núi. Biết bao đêm trăn trở tôi viết bao trang về con rạch nhỏ cạn lờ
chảy qua bến Miễu
(Theo Tản văn Mai Văn Tạo)
Hỏi: Đoạn văn thể hiện tình cảm gì? Chỉ ra những từ ngữ thể hiện tình cảm của tác
giả?
Trả lời: - Tình yêu quê hương thể hiện tình yêu những cảnh vật của quê hương.
- Các từ ngữ trực tiếp thể hiện cảm xúc: yêu, trăn trở.
=> Biểu cảm trực tiếp: Trong một văn bản, người viết công khai thổ lộ tình cảm, tư
tưởng của mình trước sự vật sự việc, con người… khi đó họ đang biểu cảm một cách
trực tiếp. Cách biểu cảm này thường xuyên được dùng trong các tác phẩm trữ tình nhất
là thơ.
2. Dù là biểu cảm trực tiếp hay gián tiếp giáo viên cần hết sức chú ý tới các yếu
tố: Sự việc và con người trong văn biểu cảm. Không thể quá nghiêng về yếu tố sự vật
hoặc chỉ chú trọng tới yếu tố con người. Trong 2 yếu tố này, yếu tố con người được
chú ý hơn, bởi lẽ con người mới là nhân vật chính tạo nên những cảm xúc, những tình
cảm trong một bài văn biểu cảm. Văn biểu cảm có quan hệ với văn tự sự, miêu tả. Chỉ
có điều, trong văn biểu cảm, người viết không nhằm tả, mà thông qua kể, tả để bộc lộ
cảm xúc, thái độ, tình cảm với sự việc, với con người. Kết hợp hài hoà giữa các
phương thức tả, kể, biểu cảm sẽ tạo điều kiện cho sự hình thành tạo lập văn bản đạt
hiệu quả cao.
8
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
HĐ 3: Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm
1. Trước khi hướng dẫn học sinh phương pháp tiến hành làm bài văn biểu cảm
cần cho các em hiểu được một số điểm cơ bản về đề văn biểu cảm: đề văn biểu cảm
thường ngắn gọn, rõ ràng, nêu ra đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm. Có
trường hợp, đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm được tách bạch rạch ròi.
Ví dụ : “ Cảm nghĩ về dòng sông quê hương ”
- Đối tượng biểu cảm là: dòng sông quê hương.
- Định hướng tình cảm là: cảm nghĩ.

Cũng có trường hợp, đề văn biểu cảm chỉ nêu chung, buộc người viết
phải tự xác định đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm.
Ví dụ: “ Cánh diều tuổi thơ ”
- Đối tượng biểu cảm là: Cánh diều tuổi thơ.
- Từ đối tượng ấy để tìm định hướng tình cảm là: Tình yêu, nỗi
nhớ dành cho một hình ảnh quen thuộc gắn bó với bao kí ức tuổi thơ, qua đó gửi gắm
những ước mơ, hoài bão.
=> Kết luận: Có thể đây chính là bước quan trọng đầu tiên quyết định cho sự thành
công của bài viết. Vì chỉ khi nào xác định đúng yêu cầu của đề bài thì người viết mới
có hướng viết bài chính xác theo yêu cầu. Ngược lại nếu xác định sai yêu cầu có nghĩa
là người viết đã đi chệch hướng hay nói cách khác là lạc đề. Và như vậy thì những
việc làm sau đó xem như vô ích, vì nó không mang lại kết quả như mong muốn.
2. Tiến hành làm bài văn biểu cảm.
a. Bước 1: Xác định yêu cầu đề và tìm ý
- Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý
nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn
màu muôn vẻ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống
xung quanh, từ những gì người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì
9
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
thế, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm
xúc đến. Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ đó, cảm
xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí nhớ,
trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu cả kỉ
niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh về đối tượng để
ghi nhận các chi tiết cần thiết.
Ví dụ minh họa: Tìm ý cho đề văn “cánh diều tuổi thơ” bằng cách
đặt câu hỏi xoay quanh đối tượng.
Hỏi Trò chơi mà em yêu thích nhất trong thời thơ ấu là gì?
Hỏi Cánh diều có đặc điểm gì?

Hỏi Em thường thả diều vào những lúc nào? Ở đâu?
Hỏi Khi thả diều em có cảm xúc gì?
Hỏi Mỗi khi cánh diều bị hư thì tâm trạng em ra sao?
- Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm
văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là đọc
kĩ, đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm ra triết lí của nội
dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ thuật. Để giúp các em
định hướng cảm xúc của mình về một tác phẩm văn học, giáo viên có thể nêu một số
câu hỏi, học sinh phát hiện tạo cơ sở lập ý cho bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
Em hãy đọc bài thơ “ Cảnh khuya ” và cho biết:
Hỏi: Bài thơ là sáng tác của ai? Được viết trong hoàn cảnh nào?
Trả lời : - Tác giả Hồ Chí Minh.
- Hoàn cảnh sáng tác: tại Việt Bắc những năm đầu cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Hỏi: Bài thơ viết về cảnh vật gì? Nhà thơ thể hiện cảm xúc và tình cảm gì?
Những câu thơ nào cho em biết điều đó?
10
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
Học sinh phát hiện.
- Cảnh đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc thật yên tĩnh, trong trẻo, tràn đầy sức
sống.
- Cảm xúc tràn ngập trong Bác đó là: Sự say đắm thiên nhiên hoà hợp với
thiên nhiên nhưng cũng là tâm trạng lo âu của vị lãnh tự yêu nước, lo cho đất nước.
- Những câu thơ diễn tả tâm trạng đó là :
“ Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà ”
Hỏi: Xác định phương hướng biểu đạt trong tác phẩm?
Trả lời: Kết hợp hai phương thức: Miêu tả với biểu cảm.
Hỏi: Thể loại? Nghệ thuật?
Trả lời: - Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.

- Ngôn từ , hình ảnh giàu sức biểu cảm.
Hỏi: Theo em, ý nghĩa của bài thơ là gì ? Bài thơ để lại cho em ấn tượng sâu
đậm nhất như thế nào ?
Trả lời: - Bài thơ giúp người đọc cảm nhận tâm hồn say đắm với thiên nhiên và
tấm lòng lo cho đất nước của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.
Hỏi: Em liên tưởng tới tác phẩm nào nói về tình yêu thiên nhiên hoặc nỗi lòng
lo nước của Bác? Hãy chỉ ra một số dẫn chứng minh hoạ?
Trả lời : - Trong bài “ Đêm nay Bác không ngủ ” – Minh Huệ viết:
“ Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh
11
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
- Hoặc các em có thể khái quát: Thơ Bác tràn ngập ánh trăng, trăng trong thơ
Người đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận, hoà hợp với con người. Trong bài thơ
“Rằm tháng giêng ” Bác viết:
“ Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền ”
- Giáo viên bổ sung: Một số bài thơ của Bác nói về cảnh thiên nhiên, đặc biệt
là về ánh trăng : “ Đi thuyền trên sông Đáy ”, “ Ngắm trăng ”, một số bài “ Vô đề”

=> Đây là một bước không kém phần quan trọng trong quá trình làm bài. Chỉ khi
người viết tìm được những ý hay thì mới có thể triển khai bài viết hay. Nên biết sáng
tạo, có những suy nghĩ tạo nên những ý văn mới, không nên sưu tầm những ý đã có
sẵn của người khác.
b. Bước 2: Xây dựng bố cục.
* Đôt-tôi-ép-xki, nhà văn Nga của thế kỉ XX ước ao: Nếu tìm được một bản bố
cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt trên băng. Còn Ix-pen, một nhà văn Thụy
Điển đã để hẳn một năm lao động xây dựng bố cục cho bản trường ca và ông đã hoàn
thành bản trường ca đó trong đúng ba tháng. Thật vậy, để làm một dàn ý tốt không

phải dễ. Muốn có một dàn ý tốt thì ngoài việc nghiên cứu kĩ đề để lĩnh hội yêu cầu của
đề còn phải có thói quen bố trí cho khoa học. Có nhiều học sinh cho rằng: Thời gian
làm bài rất hạn chế, chỉ có 90 phút nếu còn phải lập dàn ý thì lãng phí mất khoảng thời
gian quí báu! Sự thật không phải như vậy. Dàn ý là nội dung sơ lược của bài văn. Đó
là những hệ thống suy nghĩ, tìm tòi, nhận xét, đánh giá của học sinh dựa trên yêu cầu
cụ thể của đề bài. Lập dàn ý trước khi viết bài có những cái lợi sau:
- Nhìn được một cách bao quát toàn cục nội dung chủ yếu mà bài làm cần đạt
được, đồng thời thấy được những chi tiết nào cần so sánh, liên tưởng.
- Tránh bỏ sót những ý quan trọng hoặc tránh thừa ý và giúp cho việc diễn đạt
các ý theo trình tự hợp lí hạn chế trường hợp diễn đạt lủng củng.
12
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
- Khi có dàn ý người viết chủ động phân chia thời gian hợp lí. Tránh tình trạng
làm bài mất cân đối.
* Cấu trúc dàn ý của bài văn biểu cảm
- Mở bài: Giới thiệu chung về đối tượng cần biểu cảm, tình cảm của người viết
dành cho đối tượng.
- Thân bài: Trình bày cụ thể cảm xúc
+ Nêu những đặc điểm của đối tượng gợi cảm xúc cho người viết
+ Mối quan hệ giữa người viết với đối tượng
- Kết bài: Tình cảm của người viết dành cho đối tượng
* Ví dụ minh họa:
Lập dàn ý cho đề văn sau: Phát biểu cảm nghĩ về quê hương, nơi em đang sinh
sống.
- Mở bài:
+ Giới thiệu khái quát về quê hương ( ở đâu? Có điểm gì đặc biệt?
+ Tình cảm: yêu quí, tự hào
- Thân bài:
+ Nhớ lắm hình ảnh lũy tre làng
+ Yêu tha thiết cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh

+ Không thể nào quên được con đường làng dẫn đến ngôi trường học thân yêu.
+ Dòng sông đã ấp ủ bao kỉ niệm của tuổi thơ tôi.
+ Người dân quê tôi sống rất tình nghĩa, trong đấu tranh họ rất kiên cường,
anh dũng
- Kết bài: Tình cảm đối với quê hương
13
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
* Dàn ý của bài văn biểu cảm về tác phầm văn học
- Mở bài :
+ Giới thiệu tác phẩm (thể loại, đề tài, tác giả …)
+ Giới thiệu hoàn cảnh tiếp xúc với tác phẩm.
+ Nêu cảm nhận chung về tác phẩm.
- Thân bài: Nêu những cảm xúc suy nghĩ do tác giả gợi lên. Có nhiều trình tự
nêu cảm xúc có thể vận dụng:
+ Trình tự 1: Nhận xét khái quát về giá trị của tác phẩm (cả giá trị nội dung và
giá trị nghệ thuật ). Trên cơ sở đó, chọn một số chi tiết, hình ảnh đặc sắc để nêu cảm
nghĩ. Trình tự này thường sử dụng ở những bài văn biểu cảm về tác phẩm tự sự .
+ Trình tự 2: Nêu cảm nghĩ thứ tự các phần, các ý hoặc theo mạch cảm xúc của
tác phẩm. Ở mỗi phần, cảm nghĩ phải tập trung cho cả nội dung lẫn nghệ thuật. Trình
tự này thường sử dụng ở những bài văn biểu cảm về tác phẩm trữ tình.
- Kết bài: Khẳng định lại ấn tượng chung về tác phẩm.
* Để cảm nghĩ về tác phẩm văn học thêm sâu sắc, có thể liên hệ tới hoàn cảnh
ra đời của tác phẩm, liên hệ, sánh với những tác phẩm khác cùng chủ đề (có thể cùng
tác giả hoặc khác tác giả ). Trong quá trình nêu cảm nghĩ, phải bám sát các chi tiết,
hình ảnh, có dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu tránh tình trạng nêu cảm nghĩ chung chung.
Cảm nghĩ phải sâu sắc, chân thành. Tránh tình trạng bắt chước một cách sống sượng,
sáo mòn, giả tạo.
=> Trong thực tế rất nhiều học sinh không thực hiện tốt bước này, có lẽ không
biết làm hoặc lười. Thế nên, khi đọc và xác định xong đề các em bắt tay vào viết ngay
nên dẫn đến tình trạng bài viết trình bày không mạch lạc, lôgic, nhiều bài trình bày

lung tung do các em nhớ lúc nào làm ngay lúc đó mà không theo trình tự. Chính vì vậy
mà kết quả làm bài không cao.
c. Bước 3: Viết bài
14
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
- Đây là bước hết sức quan trọng. Trên cơ sở dàn bài đã xây dựng, người viết
triển khai thành bài văn hoàn chỉnh. Cần lưu ý cho học sinh là trong quá trình diễn đạt
phải biết kết hợp với các phương thức biểu đạt khác như miêu tả tự sự, nghị luận,…
đồng thời phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc như: nhân hoá, so sánh,
ẩn dụ, điệp ngữ, nói quá…Câu văn phải có sự biến hoá linh hoạt. Lời văn giàu cảm
xúc với vốn từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm. Trong diễn đạt cũng cần phải chia
đoạn trong phần thân bài. Các câu trong đoạn phải liên kết nhau cả về hình thức và nội
dung. Các đoạn phải có sự chuyển ý, các đoạn liên kết với nhau tập trung làm nổi rõ
lên cảm xúc chính, tình cảm chính.
- Hướng dẫn học sinh viết một vài đoạn văn
Đề: Cảm nghĩ về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh
Đoạn mở bài: Cảnh khuya là một trong những bài thơ trữ tình đặc
sắc, một đóa hoa nghệ thuật tuyệt đẹp của Bác Hồ kính yêu. Năm 1947, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt, tại chiến
khu Việt Bắc, Bác Hồ đã viết một chùm thơ chữ Hán và tiếng Việt. Cảnh khuya nằm
trong chùm thơ ấy.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nước nhà.
Bài thơ nói lên niềm xúc động trước vẻ đẹp thơ mộng của cảnh khuya nơi núi
rừng Việt Bắc và thể hiện những suy tư lo lắng của Bác Hồ đối với vận mệnh của dân
tộc.
Đoạn thân bài: Cảm nghĩ về câu thơ thứ hai (câu thừa)
Ánh trăng tràn ngập khắp núi rừng, dát vàng xuống rừng cây,

“lồng” và trùm lên cổ thụ. Cành, lá, hoa cắt ánh trăng thành những mảng trắng đen
lẫn lộn. Bóng trăng, bóng cây lại in xuống mặt đất tạo nên những bông hoa trăng
15
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
tuyệt đẹp. Cảnh rừng có tầng cao, tầng thấp, có màu sáng và tối, trắng và đen, loang
loáng ánh bạc. Sắc màu bề ngoài mát lạnh. Mọi vật im phăng phắc. Ấy thế mà bên
trong, thiên nhiên lại vận động ấm áp vô chừng! Trăng lẩn vào cây, cây lẩn vào hoa,
bóng hoa, bóng cây, bóng trăng chồng chéo lên nhau, ôm ấp, quấn quýt lấy nhau,
trong âm điệu hai lần lặp lại từ “lồng” làm cho mọi vật thật ấm áp, nồng đượm biết
bao! Thế là hòa nhịp với âm thanh của suối cũng có hình ảnh của ánh trăng, cổ thụ và
khóm hoa đã tạo nên một bức tranh thủy mặc đẹp và đầy chất thơ: cảnh khuya trong
sáng, lung linh huyền ảo, nên thơ nên họa nên nhạc.
Đoạn kết bài: Bài thơ phản ánh một tâm hồn thanh cao, một phong
thái ung dung tự tại của một nhà thơ chiến sĩ suốt đời hy sinh cho độc lập tự do của
đất nước và hạnh phúc của nhân dân. “Cảnh khuya” là một bài tứ tuyệt kiệt tác
“mênh mông, bát ngát tình.”
=> Có lẽ đây là bước quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của bài
viết. Vì nếu không các em sẽ lặp lại các thao tác đưa dàn bài vào mà không diễn đạt
các ý thành câu thành đoạn. Đây là bước chiếm thời gian nhiều nhất trong quá trình
làm bài. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn các em cụ thể cách viết từng phần, từng đoạn
theo hệ thống ý đã tìm được.
d. Bước 4: Đọc và sửa bài
Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên viết
xong là nộp bài, một số thì hoàn thành bài rất sớm (khoảng 60 phút), một số thì hết
thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do đó, khâu sửa bài sau khi viết không được
coi trọng. Giáo viên cần nhắc nhở các em đọc và chỉnh sửa lại bài trước khi nộp.
HĐ 4: Cách lập ý của bài văn biểu cảm
Giáo viên đưa ra một số phương pháp lập ý cơ bản, phân tích để học sinh
tiếp cận, hiểu và vận dụng trong quá trình làm bài.
1. Liên hệ hiện tại với tương lai: Là hình thức dùng trí tưởng tượng để

liên tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng
biểu cảm trong hiện tại. Cách biểu cảm này tạo nên mối liên hệ gắn kết rất tự nhiên và
nhuần nhuyễn giữa hiện tại với tương lai.
16
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
2. Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ về hiện tại: Là hình thức liên tưởng tới
kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỷ niệm để từ đó suy nghĩ về hiện tại. Đây
cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc của con người trở
nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ gắn kết rất nhuần nhuyễn
và tự nhiên giữa quá khứ và hiện tại.
3. Tưởng tượng tình huống hứa hẹn, mong ước: Là hình thức liên tưởng
phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và gửi gắm
vào đó những suy nghĩ, cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như những ước mơ, hi
vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải có trí tượng phong phú.
4. Quan sát, suy ngẫm: Là hình thức liên tưởng dựa trên sự quan sát những
hình ảnh hiện hữu trước mắt để có những suy ngẫm về đối tượng biểu cảm. Cách lập ý
này thường tạo nên những cảm xúc chân thực, sâu sắc.
HĐ 5: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cách kết hợp các yếu tố tự sự, miêu
tả vào văn biểu cảm:
Trước khi làm thêm bài tập, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại: Thế
nào là tự sự, thế nào là miêu tả? Trong phần luyện tập, ngoài những bài tập trong sách
giáo khoa, cần cho học sinh làm thêm một số bài tập khác, cụ thể như sau:
a. Giáo viên đưa ra đoạn văn (Chiếu đoạn văn cùng với hình ảnh
về đảo Cô Tô, giúp học sinh có cái nhìn trực quan.
Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo sáng sủa. Từ
khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống của con
người thì, sau mỗi lần dông tố, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây
trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và
cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày dông bão, thì
nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.

(Cô Tô- Nguyễn
Tuân)

17
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm





Hỏi: Chỉ ra các yếu tố miêu tả trong đoạn văn ?
Trả lời: trong trẻo sáng sủa xanh mượt, trong sáng, nước biển lại lam biếc
đậm đà, cát lại vàng giòn càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.
Hỏi: Đoạn văn thể hiện tình cảm nào của tác giả? Tác giả trình bày cảm xúc
bằng cách nào?
Trả lời: Trong đoạn văn này ta thấy cảm xúc đã hòa quyện vào cảnh vật:
Nguyễn Tuân đã phát hiện ra vẻ đẹp tinh khôi và hấp dẫn của Cô Tô sau cơn bão.
Qua cách tái hiện lại cảnh vật, người đọc thấy Nguyễn Tuân yêu da diết và nặng lòng
với Cô Tô, một mảnh hồn của đất nước trên vùng vịnh Bắc Bộ đến mức nào! Đó là
cách biểu cảm gián tiếp.
18
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
=> Từ đó giáo viên giúp học sinh phân biệt được miêu tả với biểu cảm: Trong
miêu tả, đối tượng miêu tả là con người, phong cảnh, đồ vật. Con người cũng bộc lộ tư
tưởng cảm xúc nhưng đó không phải là nội dung chủ yếu của phương thức biểu đạt ấy.
Ngược lại trong văn biểu cảm, người ta cũng miêu tả cảnh vật, đồ vật, con người song
chủ yếu là để bộc lộ tư tưởng tình cảm. Chính vì vậy người ta không miêu tả một đồ
vật, cảnh vật con người ở mức cụ thể hoàn chỉnh mà chỉ chọn những chi tiết, thuộc
tính, sự vật nào có khả năng gợi cảm để bộc lộ cảm xúc tư tưởng mà thôi.
b. Cho bài thơ:

Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi ?
Hỏi: Bài thơ kể về ai và kể về việc gì?
Trả lời: - Kể về quãng đời xa quê để đi làm quan của nhà thơ, kể những thay
đổi về ngoại hình của tác giả
Hỏi: Yếu tố tự sự trong bài thơ có vai trò như thế nào?
Trả lời: Thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng, thường trực trong lòng của tác
giả.
=> Trong văn biểu cảm cũng có thể có những câu chuyện, nhân vật nghĩa là các yếu
tố tự sự. Tuy nhiên, các yếu tố tự sự này không phát triển thành những mâu thuẫn phức
tạp vì chúng chỉ là phương tiện để biểu lộ tình cảm của tác giả.
c. Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn: Từ những câu văn phát triển
thành đoạn văn biểu cảm. (Cảm nghĩ về cây phượng)
- Hoa phượng nở, báo hiệu mùa hè đã đến.
- Hè về, hoa phượng buồn vì chẳng có ai để làm bạn.
19
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
- Học trò không ai biết được nỗi buồn của phượng.
- Phượng buồn, tôi cũng buồn.
- Tôi mong mùa thu sớm quay về.
Phát triển thành đoạn văn: Phượng như chiếc đồng hồ quý giá mà thiên nhiên
ban tặng. Khi hoa phượng nở là một mùa hè bắt đầu. Hè về, học trò lại không được
chiêm ngưỡng những chùm hoa rực lửa của phượng mỗi ngày. Sân trường vắng
lặng, phượng chẳng có ai để làm bạn. Phượng khóc hay cười liệu có ai biết, ai hay?
Có ai biết được bên trong lớp áo xù xì và cái dáng khẳng khiu của phượng đầy ắp
tâm trạng? Những cánh phượng đỏ thắm đan vào nhau thành từng chùm để làm
cho mình thêm duyên dáng. Phượng cứ nở hoa để rồi lại rụng, chầm chậm đếm
những ngày hè buồn tẻ trôi qua vì không có các bạn trò nhỏ bên mình. Ôi! Phượng vĩ

ơi! Phượng buồn, tôi cũng buồn vì phải xa thầy cô, bạn bè và xa cả phượng vĩ thân
yêu nữa. Tôi mong mùa thu sớm quay về để được phượng dang rộng vòng tay đón
chào chúng tôi, để tôi được ngồi dưới cái ô rộng, thưởng thức làn gió mát và nghe
tiếng chim hót trong những giờ ra chơi.
- Trong đoạn văn học sinh cần chỉ ra yếu tố miêu tả trong đoạn văn.
- Thể hiện tình yêu và sự gắn bó với cây phượng.
=>Giáo viên khái quát: Như vậy, thái độ và tình cảm của người viết thể hiện thông
qua cách nhìn nhận sự vật, cách dùng từ ngữ ví von so sánh. Tự sự, miêu tả giúp gợi ra
đối tượng biểu cảm cụ thể hơn. Tự sự miêu tả muốn hay, người viết không chỉ có tài
quan sát và thể hiện bằng các từ ngữ hình ảnh, bằng lối so sánh, ví von độc đáo… mà
còn phải có cái tình. Cái tình ấy có thể là tấm lòng say đắm, là thái độ tình cảm trân
trọng mến yêu đối với cái đẹp, cái trong sáng, cao thượng…nhưng cũng có thể là sự
căm ghét, khinh bỉ đối với cái ác cái xấu cái lố lăng kệch cỡm ở đời. Không có cái tình
mọi sự miêu tả, dù ngôn ngữ có sắc sảo phong phú đến bao nhiêu cũng không để lại
cho người đọc bất kì sự cảm nhận nào. Bài văn ấy sẽ chỉ là cái xác không hồn, không
gây được xúc động.
HĐ 6: Chấm và trả bài cho học sinh
20
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
Khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, GV nên coi trọng tính cá
biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ dài của bài.
Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm nhận hoặc một, hai nội
dung có sắc thái tình cảm riêng, các thầy cô giáo nên trân trọng, biểu dương và tỏ thái
độ đánh giá cao qua cách cho điểm.
3. Các tồn tại nảy sinh và cơ sở thực tiễn của vấnđề
3.1. Tồn tại
- Phần lớn học sinh đều lười đọc sách nên các em không có vốn từ để diễn đạt.
Những học sinh khá giỏi thì chưa chú trọng nhiều đối với môn ngữ văn.
- Thiết bị, phương tiên dạy học chưa đồng bộ, máy chiếu chỉ có 1 cái đã ảnh
hưởng đến việc đưa những thông tin có liên quan đến học sinh.

- Chưa có thời gian nhiều dành cho việc thực hành viết đoạn văn.
- Chưa tổ chức được cho các em có những buổi thực tế để thấy được những cảnh
đẹp thiên nhiên, thấy được những sự việc, hiện tượng khác trong cuộc sống để các em
có thể tự cảm nhận và bày tỏ thái độ của mình.
3.2. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề:
Trẻ em rất giàu khả năng sáng tạo vì trí tưởng tượng của các em hồn nhiên,
ngộ nghĩnh, không bị ràng buộc bởi những luật lệ định kiến Khả năng sáng tạo của
trẻ em là khả năng lĩnh hội tri thức của loài người đã tích lũy. Khi nắm vững tri thức
thì sáng tạo bắt đầu đó là một quá trình hoạt động vận hành các thao tác tư duy để tạo
ra một sản phẩm có tính mới mẻ với các em. Những sản phẩm này ngắn gọn, đơn giản
hơn, thể hiện những sắc thái biểu cảm khác nhau. Như vậy mọi trẻ em đều có khả năng
sáng tạo ở những mức độ khác nhau trong lĩnh vực khác nhau, bởi bản chất tư duy là
sáng tạo, khơi dậy và đánh thức tiềm năng trí tuệ, tình cảm của học sinh là điều trăn
trở của nhiều giáo viên là trách nhiệm của mọi người thầy là tính nhân văn của nghề
giáo. Đặc biệt với học sinh lớp 7, các em đã được tích lũy kiến thức từ những năm học
ở bậc Tiểu học, cùng với những vốn sống trong cuộc đời, Các em có nhu cầu bộc lộ
21
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
cảm xúc. Nhưng thể hiện cảm xúc như thế nào? Diễn đạt làm sao? Đó cũng chính là
những câu hỏi đặt ra với những giáo viên dạy văn biểu cảm.
Là người trực tiếp giảng dạy văn biểu cảm, tôi luôn băn khoăn, trăn trở vấn đề
làm thế nào để rèn kĩ năng biểu cảm cho học sinh. Khi biết được cách biểu cảm học
sinh có thể áp dụng yếu tố biểu cảm vào các kiểu văn bản khác như tự sự, miêu tả,
nghị luận Hiểu được và nhận ra sự tác động qua lại của các phương thức biểu đạt thì
khi các em gặp bất cứ kiểu bài nào cũng không ngán ngại mà sẽ làm được bài văn rất
tốt.
Từ những điều đã trình bày trong sáng kiến “Rèn luyện học sinh kĩ năng làm
văn biểu cảm” góp phần giúp các em làm tốt hơn về văn biểu cảm. Từ đó bồi dưỡng
thêm cho các em biết yêu bạn bè, trường lớp, thầy cô, yêu thiên nhiên, yêu gia đình và
quê hương đất nước. Đó cũng là cách để rèn luyện đạo đức, nhân cách cho học sinh.

4. Kết quả đạt được
a. Đối với bản thân
Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình
vững vàng hơn, tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói
“Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy
mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời.
Trong quá trình giảng dạy các tiết tập làm văn không chỉ cung cấp lí thuyết
mà tôi còn rèn được cho các em kĩ năng thực hành biểu cảm thông qua các bước tìm ý
và lập dàn ý. Tôi còn cung cấp cho các em những vốn từ cần thiết để giúp các em vượt
qua khó khăn khi làm văn biểu cảm. Mặt khác, tôi luôn chú ý tích hợp với phần Tiếng
Việt và văn bản giúp các em viết đúng câu, biết sử dụng những biện pháp tu từ vào
văn biểu cảm.
Giúp học sinh biết vận dụng thêm yếu tố tự sự, miêu tả vào sẽ làm cho bài văn
có sức hấp dẫn, lôi cuốn và tác động mạnh đến tư tưởng tình cảm người đọc. Khi nắm
vững được kĩ năng kết hợp tự sự, miêu tả vào văn biểu cảm sẽ giúp cho học sinh nhận
biết được đặc trưng của từng loại văn bản, từ đó các em hạn chế được lỗi lạc đề khi
viết văn. Không chỉ vậy còn rèn cho các em kĩ năng miêu tả và tự sự.
22
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
b. Đối với học sinh
Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng
của môn văn. Đa số học sinh đề nắm được cách làm bài văn biểu cảm, biết bộc lộ cảm
xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Trên lớp, thông thường sau khi hướng
dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý sau đó cho học sinh về nhà lập dàn ý của đề bài văn
đó vào vở bài tập hoặc giấy, tiết sau tôi thu bài về nhà chấm. Có khi tôi lại cho học
sinh hoạt động nhóm, trình bày dàn ý trên giấy A0. Sử dụng phương pháp này các em
có thể bàn bạc, trao đổi, nhận xét về những ý văn của mỗi bạn nêu ra. Kết hợp nhiều
cách thì trong quá trình chấm bài, tôi thấy kết quả thật khả quan, bài viết của các em
có bố cục 3 phần (có thể chưa hay) nhưng các ý được diễn đạt theo trình tự, tôi cũng
dễ hơn trong việc chấm bài của các em.

Những học sinh cá biệt cũng có những chuyến biến tốt về đạo đức, các em
thấy gần gũi với bạn bè, thầy cô hơn và đặc biệt là các em thấy thích thú khi được suy
nghĩ, nói ra những cảm xúc của bản thân. Từ các bài văn biểu cảm giúp các em rèn
luyện cho tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương,
hờn giận, nhớ nhung . . . dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn, tình
yêu thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất nước . . . Đó là cái gốc to, là những
chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho cây văn biểu cảm luôn xanh tươi, nở hoa, kết
trái
c. Đối với tổ chuyên môn
Tôi đem kết quả đạt được trình bày với những giáo viên trong tổ, tập thể tổ
đều ủng hộ và cùng nhau giúp tôi làm tốt hơn nữa.
Thường xuyên dự giờ, đặc biệt là các tiết thao giảng để học hỏi kinh nghiệm
và nâng cao kĩ năng giảng dạy.
d. Đối với đơn vị
Nâng cao chất lượng giảng dạy trong học sinh toàn tường, góp phần hạn chế
học sinh cá biệt, giúp trường ổn định nề nếp hơn.
5. Tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm
23
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
Từ thực tế giảng dạy, sau khi áp dụng các hoạt động vào quá trình hướng dẫn
học sinh, tôi nhận thấy đa số các em có những nhận thức tốt về kiểu bài này. Hơn nữa
nhiều em đã biết áp dụng vào bài làm của mình và cả những thể loại khác.
Số lượng học sinh có kĩ năng làm văn biểu cảm tốt khá nhiều. Cụ thể, thống
kê điểm trung bình môn văn học kì I năm học 2012 – 2013 là:
Lớp
Học sinh
giỏi
Học sinh
khá
Học sinh

trung bình
Học sinh
yếu
Học sinh
kém
7a4-7a5
(60 HS) 20 27 10 3 0

Kết quả tuy chưa cao so với mong muốn của giáo viên, nhưng rõ ràng các em
đã có sự chuyển biến trong học tập. Các em đã nhận thức được việc chủ động trong
học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ giúp các em có kiến thức tốt trong những
bài làm sắp tới. Chính những chuyển biến trong suy nghĩ này mà giờ học Ngữ văn ở
đầu học kì II các em học tích cực hơn. Giờ học cũng nhẹ nhàng và thú vị hơn.
6. Phạm vi và tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm
Nghiên cứu và đầu tư soạn giảng cho các bài tập làm văn trong chương trình
ngữ văn 7 (văn biểu cảm) có thêm nguồn tư liệu phong phú hơn. Tìm hiểu nguyên
nhân vì sao học sinh còn yếu trong kĩ năng làm văn biểu cảm? Từ đó giúp các em làm
văn biểu cảm tốt hơn. Đồng thời biết vận dụng yếu tố biểu cảm vào các kiểu văn bản
khác. Từ những tình cảm thể hiện trong bài viết sẽ rèn cho các em biết cách ứng xử,
giao tiếp có văn hóa, lịch sự trong thực tế.
Việc ứng dụng sáng kiến này, giáo viên không thể thực hiện trong thời gian
ngắn mà hoàn tất được. Ngay từ đầu giáo viên cần chuẩn bị tâm lí cho học sinh để các
em tham gia buổi học tốt hơn. Việc này đòi hỏi giáo viên phải có sự nổ lục, tình
thương yêu và sự nhiệt tình trong giảng dạy, khuyến khích kịp thời những học sinh có
tích cực phấn đấu. Điều đó tạo cho học sinh sự đồng cảm, thích thú khi học văn.
7. Những bài học kinh nghiệm
24
Rèn luyện học sinh kĩ năng làm văn biểu cảm
Đối với giáo viên: Phải phát huy ở học sinh tính chủ động trong toàn bộ quá trình
phát hiện, tìm hiểu và áp dụng vào bài viết dưới sự tổ chức và hướng dẫn của mình.

Do đó dạy cho học sinh là hình thành năng lực tư duy, năng lực hành động. Muốn thế
giáo viên cần hướng dẫn và khuyến khích học sinh đọc sách, bắt đầu từ việc đọc các
văn bản trong sách giáo khoa. Thực tế cho thấy học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc
yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn bản. Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn
và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của học sinh bằng cách: trong mỗi tiết dạy giáo viên
lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo,
sách nâng cao, các tác phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy. Khi giáo viên
làm được như thế, không cần phải “Khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ tìm đến với
sách, làm bạn với sách. Từ vốn kiến thức tự có, các em có thể sáng tạo thêm những ý
văn mới, của riêng mình.
Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm ngoài kĩ năng diễn đạt trôi chảy, hấp
dẫn, điều quan trọng là phải có cảm xúc chân thật khi viết, những cảm xúc ấy xuất
phát từ suy ngẫm, trải nghiệm của chính mình, phải lao tâm khổ luyện. Tránh lối viết
khuôn sáo. Hãy viết bằng chính tâm sức của mình, bằng sự nung nấu từ con tim, có thế
bài văn mới là sản phẩm sáng tạo của chính các em. Đối với các em học sinh yếu thì
giáo viên cần giảm bớt tâm lí chán học văn để bài viết tiến bộ. Giáo viên nên giao các
bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau mỗi tiết học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn
các em cách viết nhật kí để giúp các em nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên
ghế nhà trường.
25

×