Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.73 KB, 15 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC














TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 05:

SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA TRUNG QUỐC
THỜI CỔ ĐẠI










SVTH : BÙI THỊ THƯƠNG

STT : 64
NHÓM : 7

LỚP : K22 – NGÀY 4

GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA








TP.HCM 12/2012

Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………1
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA……………………… 2
1. Khái quát về Nho gia…………………………………………………… 2
1.1 Sự hình thành và phát triển của Nho gia…………………………………2

1.2 Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Nho giáo…………………………3
2. Khái quát về pháp gia……………………………………………………4
2.1 Sự hình thành và phát triển của Pháp gia…………………………………4
2.2 Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Pháp gia……………………………5
CHƢƠNG II: SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ
PHÁP GIA TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI………………………………… 5
1. Quan niệm về thế giới…………………………………………………….5
2. Về tƣ tƣởng biện chứng………………………………………………… 6
3. Quan niệm về bản tính con ngƣời……………………………………… 7
4. Quan niệm về thuyết trị quốc…………………………………………….9
CHƢƠNG III: ẢNH HƢỞNG CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA TRUNG QUỐC
ĐẾN VIỆT NAM …………………………………………………… 11
1. Ảnh hƣởng của Nho gia………………………………………………….11
2. Ảnh hƣởng của Pháp gia…………………………………………… 11
KẾT LUẬN…… …………………………………………………………… 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………… 13

Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 1

LỜI NÓI ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã trải qua gần 3000 năm lịch
sử. Ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia lại có hệ tư tưởng triết học khác nhau. Vào thời
Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những vùng đất màu mỡ nhất của nền
triết học phương Đông với sự hình thành và phát triển của các trường phái triết
học: Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia trong đó Nho gia và
Pháp gia có ảnh hưởng lớn nhất về vấn đề đạo đức, chính trị - xã hội của Trung
Quốc lúc bấy giờ. Trải qua thời gian, hai trường phái triết học này vẫn còn giá trị
đến ngày hôm nay không chỉ trong xã hội Trung Quốc mà còn ảnh hưởng đến cả

xã hội Việt Nam. Xuất phát từ sự ảnh hưởng của Nho gia và Pháp gia em làm bài
nghiên cứu: “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia
Trung Quốc thời Cổ đại” để giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn về hai trường phái
triết học này, qua đó nhận xét về sự ảnh hưởng của chúng đến xã hội Việt Nam
chúng ta.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 2

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1. Khái quát về Nho gia
1.1 Sự hình thành và phát triển của Nho gia
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có
ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của người Trung Quốc nói
riêng và của nhiều quốc gia phương Đông nói chung.
Khổng tử sáng lập ra Nho Gia vào cuối thời Xuân Thu. Ông đặc biệt quan
tâm đến các vấn đề đạo đức- chính trị- xã hội. Ông coi hoạt động đạo đức là nền
tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá
nhân. Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản chất con người mà Nho gia bị
chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh
nhất. Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy,
ông đã khép lại giai đoạn quan trọng- giai đoạn hình thành Nho gia.
Sang thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) đã dựa trên lợi ích
giai cấp phong kiến thống trị, khai thác lý luận Âm Dương- Ngũ hành, đưa ra
thuyết trời sinh vạn vật và thiên nhân cảm ứng để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong
việc giải thích vạn vật, con người và xã hội. Ông đã hệ thống hóa kinh điển Nho
gia thành Tứ thư và Ngũ kinh, đồng thời đưa ra quan niệm Tam cương, ngũ
thường. Những quan niệm này đã sớm trở thành tư tưởng đạo đức và nền tảng tư

tưởng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Nho gia không dừng lại với tư cách một
trường phái triết học vươn lên thành hệ tư tường xã hội mà còn được mở rộng
thành hệ thống niềm tin, tín ngưỡng.
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, Nho giáo hấp
thụ một số tư tưởng của hai học thuyết này để tiếp tục phát triển. Sang thời nhà
Tống, Nho giáo mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Chu Đôn Di (1017-1073) và
Thiệu Ung (1011- 1077) là người đã khởi xướng lý học trong Nho giáo. Với
thuyết thái cực đồ, Chu Đôn Di cho rằng: Nguồn gốc của vũ trụ là Thái cực. Thái
cực có thể động và thể tĩnh; động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh và ngược
lại. Âm dương tác động sinh ra ngũ hành, rồi sinh ra vạn vật. Thời này còn có hai
anh em họ Trình: Trình Hạo (1032- 1085) và Trình Di (1033-1107) và Chu Hy
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 3

(1130-1200) … là những nhà lý học suất sắc. Họ đã nêu ra thuyết cách vật trí tri
(cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ)
Nho gia tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội trung quốc qua các triều
đại tiếp theo, nhưng nói chung Nho giáo trong thời Minh- Thanh không có phát
triển mà ngày càng khắt khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX, Nho giáo đã thực sự
già cỗi và không còn sức sống nữa. Với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối
tri nước ở Trung Quốc trên 2000 năm, Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp
tổ chức và quản lý xã hội, vào sự phát triển văn hóa và giáo dục, vào quá trình
rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhưng đến
cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo thủ của nó mà Nho giáo đã tạo ra
tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung quốc không bắt
kịp trào lưu văn minh của thế thới
Kinh điển của Nho gia gồm 2 bộ là Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân
Thu) và bộ Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử)
1.2 Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Nho giáo

- Quan niệm về đạo đức - chính trị - xã hội
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng gia đình- xã hội là những quan hệ
đạo đức – chính trị đặc biệt là quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng. Các quan
hệ này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh thì xã hội ổn
định, gia đình yên vui, và ngược lại.
Quan niệm về nhân- nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia
nguyên thủy, chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo
đức của phái này: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
- Quan niệm về con người
Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức làm tiêu chuẩn
của người quân tử, muốn trở thành người quân tử phải tu nhân. Để tu nhân, con
người cần phải đạt đạo mà trước hết đó là đạo quân - thần, phụ - tử, phu - phụ và
cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu nhân làm gốc
nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 4

- Quan niệm về đường lối trị quốc
Để xây dựng một xã hội đại đồng (xã hội thái bình ổn định, có trật tự, kỷ
cương, mọi người được chăm sóc bình đẳng và mọi cái đều là của chung, là xã
hội có đời sống vật chất đầy đủ, có quan hệ người với người tốt đẹp, là xã hội có
giáo dục, mọi người trong xã hội được giáo hóa) người quân tử phải thực hành
đường lối nhân trị (cai trị đất nước bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người
như bản thân mình) và chính danh (cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ…)
- Quan niệm về thế giới
Nho gia ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan niệm
về trời – đất, quỷ - thần không rõ ràng. Khổng tử và Mạnh tử xây dựng thuyết
thiên mệnh làm chỗ dựa cho học thuyết của mình. Xuất phát từ vũ trụ quan của

kinh dịch, Khổng tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự
không gì cưỡng lại được mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh. Sự
hiểu biết về thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện.
2. Khái quát về pháp gia
2.1 Sự hình thành và phát triển của Pháp gia
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất
nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Vào thời Xuân Thu, Quản Trọng (?-645 TCN) được xem là người đầu tiên
bàn về pháp luật như một cách trị nước, và chủ trương công bố pháp luật rộng rãi
trong công chúng. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình,
chính. Tùy theo thời thế và ý của dân mà đưa ra pháp luật một cách rõ ràng, phải
chỉ cho dân biết rõ pháp rồi mới thi hành và khi thi hành pháp phải giữa cho được
lòng tin với dân.
Sang nửa đầu Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Để
cai trị đất nước, Thận Đáo (370-290 TCN) chủ trương dùng thế, Thân Bất Bại
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 5

(401-337 TCN) chủ trương dùng thuật, còn Thương Ưởng (390-338 TCN) chủ
trương dùng pháp.
Cuối thời Chiến quốc, Hàn Phi (280-233 TCN) không chỉ tổng hợp ba
quan điểm về pháp, thế, thuật của ba nhà triết học trên thành một học thuyết có
tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi mà ông còn kết hợp ba học thuyết
Nho, Lão, Pháp lại với nhau, trong đó Nho gia được coi là “ vật liệu để xây dựng
xã hội”, Đạo gia là “kỹ thuật thi công”, còn Pháp gia là “bản thiết kế”.
2.2 Một số tƣ tƣởng triết học cơ bản của Pháp gia
- Quan niệm về thế giới
Hàn Phi thừa nhận sự tồn tại của lý- tính quy luật hay những hiện tượng

khách quan trong xã hội. Lý chi phối sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông
yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động
cho phù hợp
- Quan niệm về con người
Thừa nhận bản chất con người là ác. Do bản tính con người là ác và do
trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, và người xấu thì rất nhiều, nên muốn xã
hội yên bình, không nên trông chờ vào vào số ít, mong họ làm việc thiện mà phải
xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
- Quan niệm về phép trị quốc
Pháp gia chủ trương dùng pháp trị để trị quốc. Phép trị quốc của Hàn Phi
được tổng hợp từ pháp, thế, thuật. Trong đó pháp là nội dung của chính sách cai
trị, thế và thuật la phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp, thế, thuật
đều là công cụ trị nước của bậc đế vương.
CHƢƠNG II: SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA
VÀ PHÁP GIA TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
1. Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng bởi quan niệm về vũ
trụ của người Trung Hoa thượng cổ: vũ trụ lúc đầu là cái hỗn mang mờ mịt.
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 6

Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là “ thái cực” vô hình, huyền diệu chứa
đựng hai mặt tiềm ẩn, đối lập, liên hệ với nhau là “âm” và “dương”. Thái cực có
bản thể và động thể. Vì nó là vô hình nên không thể nhận thức được bản thể của
nó nhưng có thể nhận thức được bản thể thông qua sự tương tác chuyển hóa lẫn
nhau giữa âm và dương. Sự tương tác chuyển hóa lẫn nhau giữa hai thế lực căn
bản nhất của vũ trụ, vạn vật trong một thể thống nhất là thái cực tạo ra mọi sự
biến đổi vô cùng tận gọi là “đạo” hay “dịch” đó là đạo biến hóa của trời đất.
Theo “đạo”, âm dương tạo ra thanh khí và trọng khí. Thanh khí làm trời, trọng

khí làm đất, còn sự điều hòa “âm”, “dương”, “trời”, “đất” sẽ sinh ra vạn vật.
Kế thừa và phát triển quan điểm duy vật về thế thới của Lão Tử và Tuân
Tử. Hàn Phi giải thích sự phát triển của vạn vật theo “đạo” và “lý” của chúng.
“Đạo” được thể hiện trong các sự vật hiện tượng bằng cái lý. “Lý” là sự phân biệt
giữa vuông tròn, ngắn dài, thô kệch và tinh tế, mạnh và yếu. “Đạo” là nguồn gốc
của sinh vật, là quy luật phổ biến của chúng, nó không thay đổi. “Lý” là quy luật
riêng, nó bất thường, luôn biến hóa không ngừng. Mọi hoạt động của con người
đều phải theo quy luật thể hiện đạo và tuân theo lý. Hàn Phi cho rằng, ngày nay
“lý” thay đổi thì phép trị quốc không thể theo đạo đức của Nho gia.
2. Về tƣ tƣởng biện chứng
a. Sự tương đồng
Cả hai phái Nho Gia và Pháp gia đều phát triển tư tưởng trên cơ sở phép
biện chứng. Các quan điểm, tư tưởng của hai phái này được hình thành với mục
đích bảo vệ và ủng hộ giai cấp thống trị đương thời. Chúng là cơ sở để gia cấp
thống trị duy trì và củng cố địa vị, bóc lột người lao động lúc bấy giờ.
b. Sự khác biệt
Nho gia xây dựng tư tưởng đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm:
vạn vật đều có chung nguồn gốc vận động không ngừng theo “đạo” của nó.
Khổng tử tin ở trời. Trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người nên đóng vai
trò chi phối toàn bộ những gì xung quanh con người. Trời như một quan tòa công
minh cầm cân nảy mực phán xét mọi việc, trời định mọi việc thành bại trong
cuộc sống con người. Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 7

rằng, vạn vật không ngừng tiến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại nổi mà
nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh, còn sự hiểu biết được thiên mệnh
là điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện. Ông cho rằng: “không
hiểu mệnh trời thì không trở thành người quân tử. Đã biết có mệnh trời thì phải

sợ và thuận theo. Đó là cái đức của người quân tử. Sống chết có mệnh, giàu sang
tại trời…”. Về quỷ thần ông có thái độ hoài nghi nhưng không phủ nhận sự tồn
tại của quỷ thần. Theo ông quỷ thần là việc cao sa, u uẩn nên đối với quỷ thần
con người cần kính trọng nhưng chẳng gần gũi làm gì. Như vậy, trong triết học
Nho gia, quyền lực và sức mạnh của trời là sự thần thánh hóa sức mạnh của thế
lực cầm quyền, Khổng Tử đã thể hiện rõ thái độ của mình trong việc bảo vệ giai
cấp phong kiến lúc bấy giờ.
Pháp gia xây dựng tư tưởng đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Theo Hàn Phi, lịch sử phát triển mỗi thời kỳ là khác nhau và luôn nảy sinh những
vấn đề mới nên những biện pháp chính trị được sử dụng trong mỗi thời kỳ là
không thể giống nhau. Phương pháp trị vì đất nước phải luôn linh hoạt phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử. Thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì loạn.
Hàn phi quan niệm “đạo” là cái con người có thể nhận thức được, “đạo” tuy
không thể nhìn thấy nhưng thánh nhân nắm lấy công hiệu của nó mà thấy được
hình dạng của nó. Ông cũng phản đối bói toán, mê tín, quỷ thần. Ông cho rằng
không có gì chứng minh được là có quỷ thần, người cai trị tin vào quỷ thần sẽ
mất nước, đánh giặc mà chờ cầu quỷ thần sẽ thất bại.
3. Quan niệm về bản tính con ngƣời
a. Sự tương đồng
Nho gia và Pháp gia đều quan niệm trong con người tồn tại cái thiện và
cái ác cho nên xã hội có người tốt kẻ xấu. Cái ác trong mỗi con người là nguyên
nhân dẫn đến những thói hư tật xấu, sự ghen ghét đố kỵ, thói ích kỷ, tham lam,
những cái làm kìm hãm sự phát triển của một xã hội. Tuy nhiên do quan niệm về
nguồn gốc của cái ác khác nhau mà mỗi phái có phương pháp khác nhau để hóa
giải cái ác trong mỗi con người.
b. Sự khác biệt
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 8


Nho gia quan niệm “nhân chi sơ tính bản thiện”, con người sinh ra vốn
mang tính tốt nhưng do hoàn cảnh xã hội mà cái tính tốt đó được phát triển hay
bị biến đổi thành tính xấu. Theo Khổng Tử, bản tính thiện của con người được lý
giải thông qua lý luận về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng. Trong đó nhân – nghĩa là
quan trọng nhất.
- Quan niệm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản,
quy định bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa con người và con người
trong xã hội. Nhân là cách đối xử giữa con người với con người để tạo ra con
người. Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoa, tín, mẫn, huệ
bên trong gia đình luôn hiếu, đễ. Khổng Tử cho rằng chỉ có người quân tử mới có
đức nhân còn người lao động không thể có được.
- Quan niệm về nghĩa: Nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để
đối xử với chính mình và tạo ra ta, là những gì hợp đạo lý mà con người phải
làm. Con người muốn sống tốt phải lấy nghĩa đáp lợi chứ không nên lấy lợi đáp
lợi, vì lấy lợi đáp lợi sẽ sinh ra oán trách. Ông cho rằng bậc quân tử tinh tường về
việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi.
- Quan niệm về lễ: Để đạt được nhân, lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ
cương cho xã hội, Khổng Tử chủ trương phải dùng lễ. Lễ có thể xác định được vị
trí vai trò của từng người, phân định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã
hội, loại trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi.
- Quan niệm về trí: Trí là sự sáng suốt, nhận thức thấu đáo mọi vấn
đề, hiểu thấu đáo đạo trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân.
Khổng Tử coi trí là điều kiện để có nhân, muốn có trí thì phải học.
- Quan niệm về tín: Tín là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm
nhất trí với nhau. Tín củng cố sự tin cậy giữa người với người, củng cố các mối
liên hệ cơ bản trong xã hội phong kiến. Đối với người trị nước, trị dân, nếu dân
không tin thì không thể cai trị được.
- Quan niệm về dũng: Dũng là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm,
biết xấu hổ vì cái sai, cái xấu để vất bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa.
Phạm trù đạo đức thể hiện các nguyên tắc cơ bản của Nho gia, tùy từng

giai đoạn mà đạo đức của người quân tử đòi hỏi những tố chất khác nhau.
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 9

Pháp gia cho rằng bản chất con người là ác, nguồn gốc của cái ác là sự ích
kỷ trong mỗi con người. Đặc tính chủ yếu của ích kỷ là ham mê lợi ích và thù
ghét tai họa, không có con người nào mà lại không ham muốn nhận được sự giúp
đỡ của người khác và không tính toán ham thích lợi ích của người khác. Lợi ích
vật chất là cơ sở của mọi hành vi con người. Tất cả quan hệ xã hội đều được xây
dựng trên cơ sở tính toán lợi ích cá nhân. Xuất phát từ nhận thức đó, Pháp gia
cho rằng trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều, muốn
xã hội bình yên không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực
hành nhân nghĩa trị), mà phải suất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm
điều ác (thực hành pháp trị).
4. Quan niệm về thuyết trị quốc
a. Sự tương đồng
Nho gia thực hiện trị quốc trên cơ sở thực hành “chính danh”. Theo
Khổng Tử, danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc
không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng thì hình
phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu?
Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Pháp gia quan niệm muốn cai trị được đất nước, người đứng đầu phải có
“thế”. Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải độc tôn. Theo Hàn phi, thế quan
trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền thần. Muốn thực thi các quy
định, luật lệ phải có thế.
“Chính danh” và “thế” mang bản chất giống nhau. Muốn trị quốc thì
người trị vì phải thể hiện được quyển uy của mình trước toàn thể dân chúng,
được dân kính trọng và nghe theo. Người trị vì phải là người có vị thế cao nhất

trong xã hội, và phải được cả xã hôi công nhận. Có như vậy các chủ trương
đường lối trị quốc mới được thực thi một cách thống nhất và hiệu quả.
b. Sự khác biệt
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 10

Do có những quan niệm về con người, về đạo đức con người khác nhau
mà Nho gia và Pháp gia có những quan điểm rất khác nhau trong cách trị quốc
của mình.
Nội dung quan điểm đạo đức của Nho gia dựa trên lý luận về nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, dũng do đó Nho gia xây dựng đường lối trị quốc dựa trên quan điểm
dùng “đức trị”. Theo quan điểm này, cai trị quốc mà dùng mệnh lệnh, đưa dân
vào khôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không
biết liêm sỉ và thực lòng quy phục. Muốn lấy được lòng dân thì người đứng đầu
phải dùng “nhân trị”. Đó là hình thưc cai trị đất nước mà theo đó nhà cầm quyền
phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến
cưỡng chế, trừng phạt. Nội dung đường lối đức trị hướng tới thực hiện ba điều:
dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành đường lối
đức trị là thận trọng trong công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng,
thương người, sử dụng sức dân hợp lý.
Nho gia dùng công cụ giáo dục để xây dựng xã hội đại đồng. Khổng Tử
cho rằng, nhân cách không phải bẩm sinh, bởi bản chất ban đầu của mọi con
người đều giống nhau, do tác động của môi trường, của điều kiện sống nên thói
quen đem lại cho người tính lành, kẻ tính ác. Vì vậy giáo dục có thể cải hóa được
tất cả, trừ những người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu.
Xuất phát từ quan điểm bản tính con người là ác, trong xã hội người tốt
cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều, Pháp gia đã xây dựng phép trị quốc sử
dụng ba công cụ: “pháp”, “thế”, “thuật”.
“Pháp” được hiểu là những quy định, luật lệ có tính khuôn mẫu mà mọi

người trong xã hội phải tuân theo, là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh
phận, trách nhiệm của con người trong xã hội. Bậc minh chủ sai khiến bề tôi
không được đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái
pháp.
“Thuật” được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng
họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt.
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 11

Để cai trị đất nước pháp, thế, thuật phải luôn phối hợp cùng nhau. Muốn
thi hành được pháp thì phải có thế, nhờ vào thế mà vua đặt ra và ban bố luật
pháp, chọn các bề tôi để giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. Để có pháp và thế,
nhà vua phải có thuật.
CHƢƠNG III: ẢNH HƢỞNG CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
TRUNG QUỐC ĐẾN VIỆT NAM
1. Ảnh hƣởng của Nho gia
Nho gia du nhập vào Việt Nam từ cuối những năm trước công nguyên.
Trong suốt thời kỳ phong kiến, Nho gia đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của giai
cấp thống trị Việt Nam.
- Nho gia góp phần xây dựng triều đại phong kiến vững mạnh. Tư
tưởng về mối quan hệ vua – tôi góp phần củng cố vai trò lãnh đạo của nhà cầm
quyền.
- Nho gia hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức
theo nhân – lễ - nghĩa – trí – tín, giúp quan hệ giữa người và người trở nên nhân
văn, cao đẹp hơn. Nhiều tư tưởng đạo đức của Nho gia đã được người dân sử
dụng làm thước đo chuẩn mực đạo đức cả trong xã hội xưa và trong xã hội ngày
nay.
Tuy nhiên, Nho gia cũng thể hiện nhiều hạn chế trong hệ tư tưởng của nó:

- Nho gia suy cho cùng cũng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về
mặt triết học, nó được sử dụng để bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, góp
phần duy trì quá lâu chế độ phong kiến tại Việt Nam
- Nho gia là một trong những nguyên nhân kìm hãm nền sản xuất ở
Việt Nam phát triển, nó không thúc đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên, do
chỉ quan tâm đến vấn đề con người vào đạo đức
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã đã đến thực trạng chuyên quyền,
gia trưởng của người đàn ông trong xã hội Việt Nam, phụ nữ vào những quy tắc
khắt khe, hà khắc.
2. Ảnh hƣởng của Pháp gia
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 12

Tư tưởng Pháp trị thời Cổ đại Trung Quốc đặt nền móng đầu tiên cho việc xây
dựng một xã hội sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam hiện
nay. Trong quá trình thực hiện pháp trị, chúng ta đã khắc phục được những tồn
tại cố hữu của những tử tưởng trị quốc theo Pháp gia Trung Quốc đó là tính cứng
nhắc trong thực hành pháp luật, qua đó đưa ra đường lối quản lý đất nước mềm
dẻo hơn, vừa có tính răn đe vừa có tính giáo dục quần chúng nhân dân.
KẾT LUẬN
Các nhà tư tưởng của trường phái Nho gia khao khát cải biến xã hội từ
loạn thành trị, đây cũng là ước nguyện của cả thiên hạ lúc bấy giờ. Nho gia xây
dựng hình ảnh người quân tử, không phải là dân võ bền mà phải là người có vốn
văn hóa toàn diện. Chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho gia không
hoàn toàn dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội, không xuất phát từ việc xây dựng
nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, mà chỉ dựa trên
các quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội, xuất phát từ việc giáo dục rèn luyện
nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và chỉ dựa vào tầng lớp thống trị là một
quan điểm duy tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, Nho gia chứa

đựng giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc.
Thuyết pháp trị chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất
nước, chủ trương của nhà cầm quyền không phải chú trọng đến tu nhân. Vì vậy,
về nguyên tắc tử tưởng pháp trị đối lập với tư tưởng nhân trị. Nhưng xét cho
cùng, pháp trị cũng chỉ là một hình thức thể hiện của nhân trị mà thôi. Bởi vì
muốn thi hành các chủ trương của phái Pháp gia đưa ra, xã hội cũng cần một
đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và khép
mình trong nguyên tắc đó.
Trong việc áp dụng Nho gia và Pháp gia vào xã hội Việt Nam, chúng ta
cần tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Nho gia về xây dựng con người, về giáo
dục đạo đức lối sống, khắc phục tư tưởng duy tâm xa rời thực tế của trường phái
này; đồng thời tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Pháp gia về đường lối trị quốc
qua đó đưa ra những chính sách quản lý linh hoạt, thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và Pháp gia Trung Quốc thời Cổ đại

CHK22 – NGÀY 4 – NHÓM 7 - STT 64 13

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương về lịch sử triết học – tác giả TS. Bùi Văn Mưa, khoa Lý luận
chính trị, tiểu ban Triết học 2011
2. Đại cương lịch sử triết học phương Đông Cổ đại – tác giả Doãn Chính –
NXB giáo dục 1993
3. Lịch sử triết học phương Đông – tác giả Nguyễn Đăng Thục 2001
4. Đạo đức học trong phương đông cổ đại – tác giả Vũ Tình - NXB Chính Trị
Quốc Gia.





×