Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

việt nam và bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.38 KB, 68 trang )





ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
VIỆT NAM VÀ BỘ BA
BẤT KHẢ THI SAU KHI
GIA NHẬP WTO
Giáo viên hướng dẫn Lớp Ngân Hàng 9 – K34
Đinh Thị Thu Hồng Nguyễn Duy Nhật Tín 108207043
Nguyễn Văn Thiết 108207436
Phạm Thị Hiền 108207413
Phạm Thị Thảo Nguyên 108207423
Đặng Thị Minh Kiên 108207416
Võ Thị Thanh Trúc 108207543
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Võ Phương Thúy Anh 108207101
Mục lục
Mục lục 2
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT 7
Phần A: Bộ ba bất khả thi 8
I.Nội dung 8
II.Những kết hợp trong bộ ba bất khả thi 8
III.Những lý thuyết mở rộng của bộ ba bất khả thi 11
1.Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian 11
2. Thuyết tứ diện 13
IV. Dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi 15


PHẦN B: Bài dịch: “Managing the Impossible Trinity: The Case of Malaysia” 16
I.Malaysia - tổng quan về hội nhập tài chính, tỷ giá và chính sách tiền tệ 16
II.Điều hành bộ ba bất khả thi 18
III.Các giải pháp tức thời 20
IV.Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu vào Malaysia 21
V.Chính sách đối phó với những biến động gần đây trong việc luồng vốn chảy
ra 24
1.Quỹ dự trữ quốc tế cho việc giảm nhẹ cuộc khủng hoảng 25
2.Can thiệp để chống lại sự sụt giảm tỷ giá 27
3.Cho phép thay đổi tỷ giá để giảm giá trị đồng nội tệ 28
4.Đánh thuế để hạn chế dòng vốn chảy ra nước ngoài 29
VI.Kết luận 30
Phần C: Việt Nam và bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO 31
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 2
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
I. Việt Nam và bộ ba bất khả thi những năm 2007-2010 31
1. Năm 2007 31
Chính sách tiền tệ: 31
Tỷ giá hối đoái: 33
Nhận xét Việt Nam trong năm 2007: 35
b. Năm 2008: 36
Chính sách tiền tệ: 36
Tỷ giá hối đoái: 38
Nhận xét Việt Nam năm 2008: 41
c. Năm 2009-2010: 41
Chính sách tiền tệ: 41
Tỷ giá hối đoái: 46
Nhận xét Việt Nam 2009 – 2010 58
II. Nhận định về điều hành bộ ba bất khả thi hiện nay ở Việt Nam 58
1. Hỗn loạn thị trường tiền tệ, ngoại hối và vàng 59

2. Bộ ba bất khả thi với chính sách tài khóa, lạm phát và tập đoàn kinh tế 59
3. Chế độ bộ ba bất khả thi trung gian với lạm phát mục tiêu là đích đến 60
III. Mục tiêu và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ chống lạm phát trong năm
2011 61
1. Diễn biến thị trường tiền tệ 2 tháng đầu năm 2011 61
a. Biến động lãi suất 61
b. Điều chỉnh tỷ giá USD/VND và những tác động 62
2.Mục tiêu và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ chống lạm phát trong
năm 2011 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 3
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 4
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Nhận xét của giảng viên
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 5
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
LỜI NÓI ĐẦU
Qua ba điểm chúng ta luôn có một mặt phẳng, lợi dụng được ưu điểm tuyệt
vời này nhân loại đã ứng dụng và cho ra đời rất nhiều vật dụng với 3 chân. Vừa có
khả năng nâng đỡ tốt, nó còn có thể đặt để trên nhiều địa hình gồ ghề mà không sợ
bị chông chênh, đổ ngả. Tuy nhiên điều đó chỉ là ở trong thực tế, trong một số
ngành nghề, còn trong kinh tế học lại có một lý thuyết nghe có vẻ hoàn toàn trái
ngược đó là bộ ba bất khả thi. Lý thuyết nêu rằng chỉ có thể cùng lúc áp dụng được
2 trong 3 chính sách: ổn định tỷ giá, tự do hoá dòng vốn, chính sách tiền tệ độc lập
ở trong một nền kinh tế. Sự kết hợp giữa các chính sách này có thể được thay đổi
để đạt được mục tiêu mong muốn, nhưng dường như sự kết hợp cùng lúc của 3
chính sách là điều không thể. Tuy nhiên lý thuyết này ra đời cũng khá lâu, từ đó
đến nay kinh tế thế giới đã trải qua không ít các biến động lớn nhỏ, mỗi biến động
đều góp phần thay đổi nên kinh tế thế giới. Vì thế, để theo kịp sự phát triển của thế

giới, điều chỉnh theo biển động của nền kinh tế thế giới không ít các quốc gia đã cố
gắng làm cho bộ ba này trở thành khả thi. Chính những nổ lực này đã làm cho lý
thuyết bộ ba bất khả thi phát triển theo nhiều chiều hướng mới. Trung Quốc là một
trong những quốc gia đã khá thành công khi cố gắng phát triển lý thuyết này theo
hướng mới: “bộ ba khả thi”. Có thể một phần nhờ sự đột phá này mà Trung Quốc
đã vươn lên trở thành cường quốc thứ 2 thế giới sau Mỹ. Còn đối với Việt Nam,
một quốc gia nằm ở khu vực châu Á, háng xòm của Trung Quốc, liệu chúng ta có
thể đi theo hướng phát triển của Trung Quốc, biến “bộ ba bất khả thi” thành “bộ ba
khả thi” được hay không? Bài viết sau đây của nhóm sẽ giúp cho các bạn hiểu
thêm về vấn đề này.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 6
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CSTT : Chính sách tiền tệ
CSTK : Chính sách tài khóa
LSCB : Lãi suất cơ bản
LSTCK : Lãi suất tái chiết khấu
LSTCV : Lãi suất tái cấp vốn
NHTM : Ngân hàng Thương Mại
DTBB : Dự trữ bắt buộc
FED : Cục dự trữ liên bang Mỹ
NHNN : Ngân hàng Nhà Nước
NHTMCP : Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
FDI : Đầu tư trực tiếp Nước Ngoài
FII : Đầu tư trực gián tiếp từ Nước Ngoài
DNNN : Doanh nghiệp Nhà Nước
Thuế TNDN : Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế GTGT : Thuế giá trị gia tăng
TCTD : Tổ chức tín dụng
Trong biểu đồ tỷ giá VND/USD:

TGLNH :Tỷ giá liên ngân hàng
Bán NHNT : Bán Ngân Hàng Ngoại Thương
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 7
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Phần A: Bộ ba bất khả thi
I. Nội dung.
Lý thuyết bộ ba bất khả thi được phát triển bởi Robert Mundell và Marcus
Fleming vào thập niên 1960. Lý thuyết này để cập: một quốc gia không thể đồng
thời đạt được: ổn định tỷ giả, hội nhập tài chính (sự vào và ra của các dòng vốn
trong một nền kinh tế) và chính sách tiền tệ độc lập. Theo đó mỗi quốc gia chỉ có
thể lựa chọn cùng một lúc đồng thời 2 trong 3 mục tiêu nêu trên.
Hình sau đây minh hoạ cho bộ ba bất khả thi:
Theo như hình vẽ trên: với các cạnh là tượng trưng cho một mục tiêu kỳ
vọng đạt được, và như vậy các quốc gia chỉ có thể đạt được 1 trong 3 đỉnh của hình
tam giác mà thôi.
II. Những kết hợp trong bộ ba bất khả thi.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 8
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Đối với lý thuyết bộ ba bất khả thi thì bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt
được nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách còn lại. Sau đây là 3 lực chọn cơ bản
nhất:
 Thứ nhất: kết hợp mục tiêu ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Sự kết hợp
này sẽ tạo ra chế độ tỷ giá cố định. Ưu điểm lớn nhất của cách kết hợp này là tạo ra
một cái neo danh nghĩa để củng cố niềm tin của thị trường vào giá trị đồng nội tệ
và kiểm soát lạm phát. Nhưng khi kết hợp như vậy ta phải từ bỏ chính sách độc lập
tiền tệ. Điều này làm chính phủ mất đi 1 công cụ hữu hiệu để thực hiện chính sách
phản chu kỳ.
 Thứ hai: chính sách độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp để
cho ra chế độ tỷ giá thả nỗi. Khi làm điều này chúng ta phải từ bỏ mục tiêu ổn định
tỷ giá. Lúc này chính phủ được quyền tự do điều chỉnh lãi xuất nhưng tỷ giá lại vận

hành theo quy tắc thị trường.
 Thứ ba: lựa chọn thị trường vốn đóng bằng cách kết hợp việc ổn định tỷ giá
và độc lập tiền tệ. Khi làm điều này tức chính phủ phải tiến hành kiểm soát vốn.
Thị trường trong nước bị hạn chế tiếp xúc với bên ngoài, do đó khó khăn trong
việc phát triển nền kinh tế, thiếu đi lực đẩy cho sự phát triển của thị trường trong
nước.
Tại sao người ta lại coi trọng 3 mục tiêu trên như vậy? Ta thử phân tích những
lợi ích do các mục tiêu này đem lại cho quốc gia ra sao?
 Đầu tiên, nếu đạt được sự độc lập về chính sách tiền tệ, điều này sẽ giúp
cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện chính
sách phản chu kỳ kinh tế. Chính điều này mà rất nhiều nhà kinh tế tin rằng sẽ giúp
nền kinh tế tăng trưởng ổn định – một mục tiêu hầu hết các nước đều nhắm tới.
 Thứ hai,có được một sự ổn định về tỷ giá ban đầu sẽ giúp chính phủ tiến
hành các biện pháp ổn định giá cả, làm tăng được niềm tin của công chúng vào
đồng nội tệ, làm giảm rủi ro cho nền kinh tế và từ đó sẽ thu hút được nhiều nhà đầu
tư. Tất cả điều này sẽ giúp cho môi trường đầu tư trở nên tốt hơn.
 Cuối cùng, có được sự hội nhập tài chính sẽ mang lại lợi ích cho quốc gia ở
hai mặt: hữu hình và vô hình. Về mặt hữu hình, sẽ giúp quốc gia tăng trưởng nhanh
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 9
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn, giúp các nhà đầu tư đa dạng hoá đầu tư nhờ vậy
mà tác động làm cho họ mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế. Nhờ vậy mà tài chính
nội địa cũng phát triển theo. Ngoài ra nó còn giúp giải quyết phần nào về vấn đề
mất cân xứng thông tin. Tuy nhiên lợi ích lớn nhất – lợi ích vô hình – mang lại từ
hội nhập tài chính là tạo ra động lực giúp chính phủ nhiều nước tiến hành cải cách
và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập.
Vì sự tốt đẹp của 3 mục tiêu trên đem lại nên ắt hẳn quốc gia nào cũng muốn
nắm giữ nó. Tuy nhiên trên thực tế, không một quốc gia nào thành công trọn vẹn
khi cố gắng đạt cùng một lúc cả ba mục tiêu. Vì thế một câu hỏi được đặt ra: tại
sao không thể cùng lúc đặt được cả 3 mục tiêu cùng lúc? Điều này được giải thích

như sau:
Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, ba yếu tố gồm: (1) dòng vốn
chảy vào và chảy ra; (2) tỷ giá hối đoái và (3) lạm phát luôn có liên hệ mật thiết
với nhau.
Khi dòng vốn ra vào được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì
ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong trường
hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ phải bán
bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều. Trong bối cảnh như vậy, tính
độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều hành chính sách tiền tệ vì
mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền không phải dựa vào diễn biến
giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định.
Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc lập
vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản vốn
đã được tự do. Chúng ta có thể tóm tắt đặc lại điểm các trường hợp chính của bộ ba
bất khả thi như sau:
Hội nhập tài
chính
Chính sách
tiền tệ độc lập
Ổn định tỷ giá Ví dụ
Thị trường
vốn đóng
Không Có Có
Trung quốc
trước 7/2005
Tỷ giá cố định Có Không Có Hồng kông,
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 10
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
EU
Tỷ giá thả nỗi Có Có Không Nhật, Úc

III. Những lý thuyết mở rộng của bộ ba bất khả thi.
1. Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi của
Mundell và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng. Nền tảng của thuyết này là
những quan niệm mới về sự độc lập của chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá. Theo
đó, bộ ba bất khả thi của Mundell kết luận rằng một quốc gia không thể có một
chính sách tỷ giá ổn định một nửa (half-stability) và chính sách tiền tệ độc lập một
nửa (half- independence). Nói rõ hơn, tam giác bất khả thi của Mundellchỉ mới tập
trung đến các cơ chế tỷ giá nằm ở các đỉnh (hay góc) tam giác mà chưa đề cập đến
một cơ chế tỷ giá trung gian nằm đâu đó trong tam giác bất khả thi. Sự tồn tại của
cơ chế tỷ giá trung gian sẽ được bàn luận kỹ hơn trong phần sau. Yigang và
Tangxian đã mở rộng mô hình này và kết luận rằng một quốc gia có thể có những
phối hợp mục tiêu khác nhau và không phải chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn như
tam giác của Mundell.
Tương
tự như hình
bộ ba bất khả
thi, ba cạnh
trong tam giác
mở rộng (hình
trên) cũng tương
ứng cho 3 mục
tiêu chính sách. Giả định: cạnh M tượng trưng cho chính sách tiền tệ độc lập; cạnh
đáy K, tượng trưng cho hội nhập tài chính; và cạnh phải E, tượng trưng cho ổn
định tỷ giá. Ba đỉnh của tam giác tượng trựng cho 3 sự kết hợp cơ bản nhất của bộ
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 11
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
ba bất khả thi. Gọi Ms, Kc và Ev là các khoảng cách từ điểm O tuỳ ý đến 3 cạnh,
tượng trưng lần lượt cho mức độ của độc lập chính sách tiền tệ, mức độ hội nhập
tài chính và mức độ biến động tỷ giá. Một tính chất quan trọng của tam giác đều là:

tổng khoảng cách của bất kỳ điểm nào ở bên trong tam giác đến ba cạnh bằng
chiều cao của tam giác. Do đó ta có Ms + Kc + Ev = Mh. Để đơn giản, đặt chiều
cao của tam giác đều Mh = 1, thì ta có Ms + Kc + Ev = 1 và 0 <= Ms, Kc hoặc Ev
<= 1.
Trong đó: (1) Khi Kc = 0, tức là hội nhập tài chính hoàn toàn và Kc = 1 tức là
không thực hiện hội nhập tài chính ( kiểm soát hoàn toàn dòng vốn ra vào ). (2) Ms
= 0, nghĩa là chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn và Ms = 1, nghĩa là mất độc lập
về chính sách tiền tệ. (3) Ev = 0, tức là tỷ giá cố định và Ev = 1, tức là tỷ giá thả
nổi.
Trường hợp 1: Khi Kc = 0, hội nhập tài chính hoàn toàn, ta có Ms + Ev = 1. Ở
đây nếu Ms=0 thì Ev=1; nếu Ms=1 thì Ev=0; nếu 0<Ms<1 thì 0<Ev<1. Do đó, có
ba sự kết hợp:
(1) hội nhập tài chính hoàn toàn + chính sách độc lập tiền tệ hoàn toàn kết tỷ
giá thả nổi tự do.
(2) hội nhập tài chính hoàn toàn + mất độc lập về chính sách tiền tệ + tỷ giá cố
định
(3) hội nhập tài chính hoàn toàn + độc lập chính sách tiền tệ có giới hạn + tỷ
giá thả nổi có giới hạn.
Trường hợp 2: Khi Kc=1, hạn chế hội nhập tài chính , chúng ta có Ms + Ev =
0. Ở đây, Ms=0 và Ev=0, chúng ta có sự kết hợp: hạn chế hội nhập tài chính +
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn+ tỷ giá cố định. Thực tế, chế độ tỷ giá cố định
thường có trong các quốc gia đang phát triển với thị trường tài chính yếu kém.
Trường hợp 3: Khi 0<Kc<1, giới hạn hội nhập tài chính , chúng ta có
0<Ms+Ev<1. Nếu Ms=0, thì 0<Ev<1; nếu 0<Ms<1 thì 0<Ev<1 hoặc Ev=0. Có ba
sự kết hợp:
(1) giới hạn hội nhập tài chính + chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá
thả nổi có giới hạn.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 12
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
(2) giới hạn hội nhập tài chính + chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ

giá thả nổi có giới hạn.
(3) giới hạn hội nhập tài chính + chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ
giá cố định.
2. Thuyết tứ diện
Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian (2001) thực sự đã chuẩn
hoá tam giác bất khả thi của Mundell. Tuy nhiên, lý thuyết này chưa xem xét đến
sự khác nhau về khả năng vay mượn nước ngoài bằng nội tệ trong các nền kinh tế
khác nhau sẽ tác động trực tiếp đến biến động tỷ giá. Hausmann (2000) phát hiên
ra một mối quan hệ vững chắc giữa mẫu hình thả nổi tỷ giá của một quốc gia với
khả năng vay mượn quốc tế bằng nội tệ của quốc gia đó. Cụ thể, quốc gia nào có
khả năng vay mượn nước ngoài bằng nội tệ nhiều hơn có khuynh hướng nắm giữ
mức dự trữ ngoại hối nhỏ hơn, và cho phép tỷ giá biến động cao hơn so với biến
động trong dự trữ ngoại hối hoặc lãi suất. Hausmann cũng phát hiện một bằng
chứng yếu hơn và ít bền vững hơn về tầm quan trọng của tác động tỷ giá đến giá cả
(exchange rate pass-through) như là một yếu tố xác định sự khác nhau trong quản
lý tỷ giá của các quốc gia. Guobing Shen (2004) đã đưa biến số khả năng vay
mượn nước ngoài bằng đồng nội tệ vào các yếu tố khác để xác định việc lựa chọn
cơ chế tỷ giá, và đã mở rộng tam giác bất khả thi của Mundell thành thuyết tứ diện.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 13
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Trường hợp 1: Quốc gia không có khả năng vay nợ nước ngoài bằng đồng nội
tệ. Như vậy có thể có các trường hợp:
(1) không có khả năng vay mượn nước ngoài + hội nhập tài chính hoàn toàn +
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá thả nổi tự do;
(2) không có khả năng vay mượn nước ngoài + hội nhập tài chính hoàn toàn +
mất đi tính độc lập trong chính sách tiền tệ + tỷ giá cố định.
(3) không có khả năng vay mượn nước ngoài + hội nhập tài chính hoàn toàn
+ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ giá thả nổi có giới hạn.
(4) không có khả năng vay nợ nước ngoài + hạn chế hội nhập tài chính +
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá cố định. Đây là sự kết hợp thường

thấy trong các nước đang phát triển với thị trường tài chính yếu kém.
(5) không có khả năng vay mượn nước ngoài + giới hạn hội nhập tài chính +
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá thả nổi có giới hạn
(6) không có khả năng vay nước ngoài + giới hạn hội nhập tài chính + chính
sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ gía thả nổi có giới hạn
(7) không có khả năng vay nước ngoài + giới hạn hội nhập tài chính + chính
sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ giá cố đinh.
Trường hợp 2: hoàn toàn có khả năng vay nợ nước ngoài bằng nội tệ. Chúng
ta có sự kết hợp: Hoàn toàn có khả năng vay nước ngoài + giới hạn hội nhập tài
chính + chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá cố định. Thực tế, cơ chế tỷ giá
dưới chế độ chuẩn vàng cổ điển (classical gold standard) thuộc về sự kết hợp kiểu
này.
Trường hợp 3: vay nợ nước ngoài bằng nội tệ có giới hạn. Ta có thể thực hiện
các kết hợp sau:
(1) khả năng vay nước ngoài có giới hạn + hội nhập tài chính hoàn toàn +
chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá thả nổi có giới hạn.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 14
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
(2) khả năng vay nợ có giới hạn + hội nhập tài chính hoàn toàn + chính sách
tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ gía thả nổi có giới hạn.
(3) khả năng vay nợ nước ngoài có giới hạn + hội nhập tài chính hoàn toàn +
chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ giá cố định.
(4) khả năng vay nước ngoài có giới hạn + giới hạn hội nhập tài chính + chính
sách tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá thả nổi có giới hạn.
(5) khả năng vay nợ nước ngoài có giới hạn + giới hạn hội nhập tài chính +
chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn + tỷ giá thả nổi có giới hạn.
(6) khả năng vay nợ giới hạn + giới hạn hội nhập tài chính + chính sách tiền
tệ độc lập giới hạn + tỷ giá cố định.
(7) khả năng vay nợ có giới hạn + giới hạn hội nhập tài chính + chính sách
tiền tệ độc lập hoàn toàn + tỷ giá cố định.

IV. Dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi.
Bộ ba bất khả thi là lý thuyết rất phổ biến trong tài chính quốc tế. Theo đó,
một quốc gia không thể đồng thời cùng một lúc đạt được ba mục tiêu ổn định tỷ
giá, dòng vốn di chuyển tự do và độc lập tiền tệ.
Phiên bản nguyên thủy này của bộ ba bất khả thi không đề cập đến vai trò dự
trữ ngoại hối. Nhưng một số nghiên cứu gần đây lại cho thấy phiên bản mới của bộ
ba bất khả thi có tương quan với dự trữ ngoại hối, nhất là tại các nền kinh tế mới
nổi. Dự trữ ngoại hối vừa là hậu quả của việc điều chỉnh bộ ba bất khả thi cho phù
hợp với cấu trúc mới của hệ thống tài chính quốc tế vừa là mục tiêu của các nền
kinh tế mới nổi. Vì thế mới gọi đây là phiên bản mới của bộ ba bất khả thi.
Trong khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối (tính trên GDP) tại các nước công nghiệp chỉ
ổn định xấp xỉ 4% thì tại các nước đang phát triển tăng từ khoảng 5-27%. Gần đây
các nước đang phát triển nắm giữ đến ba phần tư dự trữ ngoại hối toàn cầu, phần
lớn tập trung ở châu Á. Trung Quốc là quốc gia có dự trữ ngoại hối gia tăng ấn
tượng nhất, từ khoảng 1% vào năm 1980 lên hơn 50% vào đầu năm 2010.
So với trước đây, dự trữ ngoại hối tăng lên chủ yếu nhờ vào yếu tố thương
mại, tức thặng dư trong xuất khẩu, thì giờ đây yếu tố tài chính ngày càng đóng vai
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 15
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
trò lớn hơn. Điều này cho thấy chính phủ các nền kinh tế mới nổi có triết lý khá rõ
ràng trong việc lựa chọn các mục tiêu chính sách của bộ ba bất khả thi: từng bước
mở cửa tài chính nhưng không quên kiểm soát vốn, linh hoạt thay vì cố định tỷ giá
và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ bơm thắt nhịp nhàng làm đầy kho dự trữ
ngoại hối của mình.
Dự trữ ngoại hối gia tăng một phần do chính phủ các nền kinh tế mới nổi phải
đối phó với xu hướng dòng vốn mang tính đầu cơ. Tích lũy dự trữ ngoại hối, vì
vậy, là phương thức chính mà chính phủ hướng đến như tấm đệm can thiệp phòng
ngừa rủi ro dòng vốn đảo chiều.
Chính vì tầm quan trọng ngày càng tăng của hội nhập tài chính như là một
nhân tố quyết định đối với dự trữ ngoại hối như vậy nên các nhà kinh tế đã bắt đầu

có nghiên cứu sâu hơn về mối liên kết giữa thay đổi trong cấu trúc bộ ba bất khả
thi và mức độ dự trữ ngoại tệ.
PHẦN B: Bài dịch: “Managing the Impossible Trinity: The Case of
Malaysia”
I. Malaysia - tổng quan về hội nhập tài chính, tỷ giá và chính sách tiền
tệ
Malaysia là một nền kinh tế mở và nhỏ. Nó có một khu vực thương mại và tài
khoản vốn tương đối mở. Tự do hóa tài khoản thương mại đến trước tự do hóa tài
khoản vốn (Yusof, 1994). Tính tổng giao dịch ngoại thương trong GDP đã tăng từ
89 phần trăm trong những năm 1970 đến 230 phần trăm trong năm 2008. Không
giống như các nước đang phát triển, tự do hóa tài khoản vốn ở Malaysia đã được
làm thận trọng và từng bước một. Trước khi khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á, nó đã rất quan tâm việc tự do hoá thị trường vốn.Trong thời kì 1993-
1994 và 1998-2001 việc kiểm soát vốn đã được áp dụng có chọn lọc và mang tính
tạm thời. Trong khi mục tiêu của kiểm soát vốn trong 1993-1994 là làm chậm dòng
chảy vốn đầu tư ngắn hạn vào trong nước trong 1 khoảng thời gian ngắn thì năm
1998 mục tiêu kiếm soát vốn là để hạn chế luồng vốn tháo chạy trong thời kỳ
khủng hoảng tiền tệ châu Á (BNM, 1999). Trong cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á
năm 1997, chính sách quay vòng của Malaysia đã bỏ đi đặc quyền nguồn vốn đầu
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 16
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
tư vào trong nước nhằm duy trì một tỷ giá hối đoái cố định trong khi sử dụng mở
rộng tiền tệ để kích thích nền kinh tế trong nước. Tất nhiên, các chính sách kiểm
soát vốn đã tạo ra một tranh cãi nhưng nó đã được công nhận là một lựa chọn phù
hợp của chính phủ để đạt sự hiệu quả của công cụ chính sách là để ngăn chặn
khủng hoảng tài chính (Athkorula, 2001). Hơn nữa,mục tiêu kiểm soát tài khoản
vốn của Malaysia chỉ là trong ngắn hạn và thời hạn đó là ngắn nhất có thể (BNM,
1999).
Đã có một vài chế độ tỷ giá hối đoái ở Malaysia khi nước này giành độc lập
năm 1957. Sau khi được độc lập vào năm 1957, Đồng Ringgit đã được cố định với

đồng Bảng Anh. Sau sự sụp đổ của thời đại đồng Bảng Anh, năm 1972, đồng
Ringgit đã được cố định với đồng USD trước khi nó được phép dao động vào
tháng 6 năm 1973. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 1975, Ngân hàng Negara Malaysia
(BNM) đã thông qua một chế độ tỷ giá mới, theo đó giá trị của đồng Ringgit đã
được xác định neo theo của một một rổ tiền tệ lớn. Chế độ này kéo dài cho đến
tháng 7 năm 1997 , khi BNM bỏ việc quản lý tỷ giá hối đoái trong bối cảnh của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng Ringgit được phép dao động và giá trị
được xác định bởi cung cầu thị trường. Tuy nhiên tới 2/9/1998 một sự kiểm soát
giá đối với đồng Ringgit được thiết lập, lúc này đồng Ringgit được cố định với
đồng USD khi $ 1,00 = RM 3.80. Vào tháng 7 năm 2005, đồng Ringgit đã không
còn cố định với đồng USD và đã chuyển sang hệ thống thả nổi có quản lý. Mục
tiêu của hệ thống này là để thúc đẩy sự ổn định tỷ giá hối đoái so với đồng tiền của
các đối tác thương mại lớn của Malaysia. Tuy nhiên, BNM nhấn mạnh rằng tỷ giá
hối đoái là "theo xu hướng thị trường" như được trích dẫn trong báo cáo của mình,
"giá trị của đồng Ringgit được xác định theo sức mạnh nền kinh tế và điều kiện thị
trường" (BNM, 2005). Nhưng họ cũng nói rõ các mục tiêu khác là không phù hợp
với việc thả nỗi hoàn toàn này, chẳng hạn như phải bỏ qua những biến động ngắn
hạn để ngăn chặn tỷ giá hối đoái trở nên thiên lệch trong một thời gian đáng kể để
bảo đảm sự ổn định tỷ giá (Ooi, 2008). Tỷ giá ngoại tệ ổn định vẫn là một trọng
tâm chính sách chủ chốt của BNM (Sukhdave, 2008).
Trước khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, đồng Ringgit của Malaysia là
một loại tiền tệ quốc tế đã được mua bán tự do trên thế giới. Khi Malaysia áp dụng
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 17
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
việc kiểm soát vốn, tiền tệ và cố định giá trị của đồng Ringgit tại 3,8 đô la Mỹ,
BNM quyết định không để đồng Ringgit được mua bán trên thị trường thế giới.
Lúc này một du khách khi đem nhiều hơn 10,000 Ringgit ra khỏi Malaysia thì cần
phải khai báo với BNM. Tất cả các khoản thanh toán / khoản vay của người dân
không cư trú cho người cư trú hoặc ngược lại phải là ngoại tệ, và không phải là
đồng Ringgit. Chính sách không hội nhập của đồng Ringgit với quốc tế đã làm

giảm khả năng suy đoán của các nhà đầu cơ nước ngoài về đồng Ringgit và việc
tấn công đồng Ringgit là không khả thi (Sukhdave, 2008).
Tỷ giá hối đoái cố định đã bị bỏ thay vào đó là một tỷ giá thả nổi vào năm
2005, nhưng BNM tiếp tục không quốc tế hóa Ringgit cho đến ngày hôm nay.
Trước năm 1990, chiến lược chính sách tiền tệ dựa trên mục tiêu kiểm soát tiền tệ.
Việc kiểm soát tiền tệ được gắn liền với mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ.
Các luồng vốn lớn trong năm 1990 cho thấy rõ những vấn đề liên quan đến việc
kiểm soát tiền tệ gắn với mục tiêu của chính sách (Latifah, 2002). Kiểm soát tiền tệ
đã trở thành một chỉ báo không đáng tin cậy của sự ổn định giá cả và BNM chuyển
trọng tâm của mình để nhắm tới mục tiêu lãi suất. Năm 2004, BNM thực hiện trách
nhiệm chính sách tiền tệ của mình bằng cách điều chỉnh chính sách lãi suất– tỷ giá
qua đêm (OPR). OPR như là một tín hiệu về lập trường chính sách tiền tệ của
Ngân hàng. BNM không sử dụng tỷ giá như một công cụ chính sách tiền tệ, thay
vào đó Ngân hàng thông qua hoạt động thanh khoản của nó, chỉ đạo tỷ giá bình
quân liên ngân hàng qua đêm để nó là gần với OPR (BNM, 1999).
II. Điều hành bộ ba bất khả thi
Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Malaysia đã phải đối mặt với các
vấn đề về các cuộc tháo chạy vốn lớn và việc giảm giá đồng tiền với cường độ rất
lớn. Phản ứng ngay lập tức, Malaysia làm theo lời khuyên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) là tăng lãi suất để ngăn chặn dòng vốn tháo chạy. Tuy nhiên, hành động này
đã không có hiệu quả như mong muốn. Như một hệ quả của “bộ ba bất khả thi”,
Malaysia thấy rằng nó không thể đồng thời kiểm soát hay quản lý mức lãi suất, tỷ
giá và dòng vốn.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 18
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Kể từ khi nền kinh tế phục hồi vào năm 1999, đã có một sự gỡ bỏ dần dần của
một số biển pháp kiểm soát tỷ giá năm 1998, cả hai dòng vốn vào ra và cho cả
người cư trú và không cư trú. Tuy nhiên, tỉ giá giữa đồng Ringgit với USD vẫn
được cố định cho tới 7/ 2005. Trong thực tế, các biện pháp tự do hóa chính đã được
công bố sau năm 2001. Ví dụ, nước này tiến hành nới lỏng trở lại các dòng vốn

bằng một quá trình hội nhập tài chính hơn nữa theo kế hoạch quản lý khu vực tài
chính (Financial Sector Master) và kế hoạch quản lý thị trường vốn (Capital
Market Master), cả hai đều được bắt đầu trong năm 2001. Việc không còn nằm
trong danh mục đầu tư tiền ra nước ngoài của Malaysia đã được bãi bỏ vào năm
2001, cư dân đã được phép mở tài khoản bằng ngoại tệ với các ngân hàng trong và
ngoài nước trong năm 2008. Một trong những khía cạnh của chính sách tự do hóa
tài chính trong cuộc khủng hoảng sau năm 97/98 là bãi bỏ quy định về luồng vốn
đầu tư ra nước ngoài của người dân đây như là phản ứng chính của sự gia tăng
dòng vốn đầu tư ra nước ngoài trong năm 2006 và 2007. Điều này dẫn đến sự gia
tăng lớn trong luồng vốn đầu tư trực tiếp từ Malaysia sau năm 2006.
Với việc loại bỏ dần dần kiểm soát vốn vào năm 1998 và cho phép mở một tài
khoản tại một tỷ giá hối đoái cố định, Malaysia một lần nữa, phải đối mặt với một
cuộc xung đột giữa chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Khi các tài khoản vốn đã
bị đóng cửa, BNM có thể thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá độc lập
với nhau. Tuy nhiên, hai chính sách này còn độc lập hơn nữa với việc mở cửa tài
khoản vốn. Cuộc xung đột giữa chính sách tiền tệ trong nước và chính sách tỷ giá
hối đoái phát sinh khi một quốc gia cố gắng giữ tỷ giá hối đoái cố định. Dòng vốn
chảy vào hoặc chảy ra phải được quản lý bởi các ngân hàng trung ương để tỷ giá
vẫn cố định. Đảm bảo điều chỉnh tỷ giá để đáp ứng với các dòng vốn, do đó, một
quốc gia sẽ mất chủ quyền của mình đối với việc sử dụng các chính sách tiền tệ để
quản lý kinh tế vĩ mô. Masih (2005) lưu ý rằng kể từ khi chính sách tiền tệ được
chỉ đạo để giữ tỷ giá cố định, một gánh nặng rất lớn đã được đặt lên các chính sách
tài khóa của Malaysia để đạt được mục tiêu trong nước là giảm thất nghiệp và thu
nhập cao hơn, do đó, dẫn đến thâm hụt tài chính liên tục từ năm 1998. Đây là một
tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà Malaysia phải đối mặt sau khi dần dần loại bỏ
các kiểm soát vốn trong khi vẫn cố định đồng Ringgit với USD. Cho tới 21 tháng 7
năm 2005 ngày mà BNM công bố việc loại bỏ việc cố định đồng Ringgit ủng hộ
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 19
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
một chế độ thả nổi. Malaysia mới giành lại quyền tự chủ tiền tệ của mình (Ariff,

2005).
Đồng Ringgit bây giờ là theo cơ chế "quản lý thả nổi" đối với một rổ tiền tệ
không được tiết lộ, không có mục tiêu lãi suất cố định. BNM đã không tiết lộ các
thành phần của rổ tiền tệ này hoặc trọng số cho của các loại tiền tệ trong rổ này.
Nhưng tất cả điều này không có gì là mới, trên thực tế đã có hệ thống hiện hành
không khác với Malaysia từ trước khi có khủng hoảng tài chính châu Á, 1997-
1998. Tuy nhiên, đối với khoảng thời gian này, không có mục tiêu lãi suất cố định.
Ariff (2005) lưu ý rằng tỷ giá mục tiêu phải được tránh. Tuy nhiên đồng Ringgit đã
nhắm mục tiêu tỷ giá vào khoảng RM2.50 / USD đã dẫn đến sự định giá quá cao
đồng Ringgit, điều này đã góp một phần vào cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997.
Kể từ khi loại bỏ việc cố định đồng Ringgit vào năm 2005, đồng Ringgit đã
tăng giá so với USD khoảng 14%. Đồng Ringgit chuyển từ RM3.78/US $ trong
năm 2005 để RM3.30/US $ trong năm 2007. Phó Thống đốc BNM, Dato'Ooi Sang
Kuang phát biểu trong bài báo của ông, " không có biện pháp đặc biệt nào được
đưa ra để đối phó với áp lực tăng giá đồng tiền trong vòng năm năm qua" (2008,
trang 334). Tuy nhiên, giống như các nước phát triển khác, Malaysia thích một số
sự ổn định tỷ giá hối đoái hơn là hoàn toàn linh hoạt (Sukhdave, 2008).
Như Ooi đã viết: “Ngân hàng Negara Malaysia nhận ra những rủi ro tiềm
ẩn khi nới lỏng quản lý tiền tệ và đã lập nhiều biện pháp để quản lý và giảm
thiểu những rủi ro đó. Việc nới lỏng quản lý tiền tệ được giám sát và lợi nhuận
hoặc thua lỗ do thu đổi ngoại tệ được đánh giá lại theo quý "(2008, p.335)
Việc thả nổi quản lý và không quốc tế hoá đồng Ringgit là những yếu tố quan
trọng cho phép Ngân hàng Negara Malaysia thiết lập một chính sách lãi suất dựa
trên những nghiên cứu trong nước.
III. Các giải pháp tức thời
Một bài học quan trọng theo lý thuyết “ bộ ba bất khả thi” là một nền kinh tế
được cam kết sẽ tăng dòng vốn lưu thông thì nó không thể kết hợp cả tỉ giá hối
đoái cố định và theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập. Mọi cố gắng làm như vậy
cuối cùng sẽ đi đến mâu thuẫn do đó sẽ buộc nước này phải từ bỏ một trong những
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 20

Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
mục tiêu của mình.
Vì vậy, làm thế nào Malaysia quản lý được cả ba mục tiêu? Đây có phải là sự
quản lý thả nổi của Malaysia? Có chắc rằng Malaysia đã tìm thấy một sự kết hợp
thành công của 3 mục tiêu trong lý thuyết “ bộ ba bất khả thi” hay không? Đặc
biệt, đó là sự quản lý thả nổi với việc tỷ giá được neo theo một rổ tiền tệ chưa được
tiết lộ hơn là một tỷ giá hối đoái cố định. Do đó, lần đầu tiên có sự "thỏa hiệp"
trong các chính sách. Ngoài ra, trong trường hợp của Malaysia, việc quản lý thả nổi
và không quốc tế hoá đồng Ringgit là những yếu tố quan trọng cho phép BNM
thiết lập một chính sách lãi suất dựa trên sự cân nhắc tình hình trong nước. Do đó,
Malaysia có thể tiến hành một chính sách tiền tệ độc lập. Hình 2 là một minh hoạ
sơ đồ đơn giản của chế độ trung gian tại Malaysia. Việc tự do hóa tài khoản vốn đã
đẩy Malaysia xuống phần thấp hơn của hình vẽ, cái đó đượcmgọi là "chế độ trung
gian" của
Frankel (1999).
IV. Ảnh
hưởng
của khủng hoảng tài chính toàn cầu vào Malaysia
Một thập kỷ sau khi cuộc khủng hoảng châu Á, Malaysia một lần nữa nổi lên
như một trong những quốc gia đang phát triển nhanh nhất ở châu Á, tăng trưởng
trung bình 6,5% trong năm 2007. Thặng dư tài khoản vãng lai lớn, dự trữ tích lũy
cao, nợ bên ngoài thấp, và lạm phát thấp chỉ ra rằng Malaysia đang bước vào một
giai đoạn mới của sự tăng trưởng mạnh mẽ với sự ổn định. Thuộc khu vực châu Á
năng động, Malaysia một lần nữa, nhận được dòng vốn đầu tư lớn và giá trị đồng
Ringgit tăng nhanh trong năm 2006 và 2007 (BNM, 2007).
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 21
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Hoa Kỳ và châu Âu trong năm
2007 và trở nên tồi tệ vào đầu năm 2008, đã ít nhiều có ảnh hưởng lên Malaysia và
các quốc gia châu Á khác. Nhưng sau đó cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ảnh

hưởng đến các nước phát triển và điều này đã ngày càng được truyền tới Malaysia
vào cuối năm 2008 và đầu 2009 (Khor, 2008). GDP thực tế tăng trưởng quý 4 của
năm 2008 là chỉ 0,1% so với mức tăng trưởng 4,7% trong quý 3 cùng năm, và tăng
trưởng GDP thực tế là âm 6,2% trong quý đầu tiên năm 2009.
Có hai kênh chính mà thông qua đó các cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ được
chuyển đến các nước đang phát triển như Malaysia, cụ thể là, các kênh tài chính và
các kênh thương mại (James et al, 2008).
Dòng vốn ròng bắt đầu giảm ở Malaysia vào quý II năm 2008 như trong Bảng
1. Danh mục đầu tư lúc này chuyển thành dòng vốn đầu tư ra nước ngoài kể từ quý
hai của Năm 2008. Tổng cộng danh mục đầu tư ghi nhận dòng vốn đổ ra nước
ngoài là 92.4 tỷ RM năm 2008 ngược hẳn với dòng vốn đầu tư vào trong nước
18.355 tỷ RM trong năm 2007. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaysia giảm
95% từ 17.392 tỷ RM trong quý II năm 2008 đến 0.881billion RM trong quý
ba. Đối với cả năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaysia đã giảm 9% trong
năm 2008.
Một trong những kịch bản quan trọng của tự do hóa vốn trong bài viết năm
1997 là tự do hóa đáng kể của các luồng vốn vào để phù hợp với các luồng vốn ra
mạnh mẽ trong năm 2006-2007 cái mà đã ảnh hưởng đến tích luỹ của nguồn dự trữ
và gây áp lực lên đồng Ringgit. Chính sách này có thể nhận thấy từ xu hướng đầu
tư trực tiếp của Malaysia ở nước ngoài / bên ngoài. Hiện đã có một bước nhảy bất
ngờ và mạnh mẽ trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sau năm 2006. Trong năm
2006, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty Malaysia đã đạt RM22.2 tỷ
bằng với vốn FDI vào Malaysia. Trong năm 2007, Malaysia đầu tư nước ngoài đã
tăng lên hơn nữa ở mức RM37.9 tỷ đồng,lần đầu tiên vượt qua dòng vốn FDI với
RM29.1 tỷ. Trong năm 2008, đầu tư ra nước ngoài đã tăng lên RM47 tỷ trong năm
2008, một lần nữa vượt qua dòng vốn FDI với RM26.7 tỷ dẫn đến sự thiếu hụt
ròng của FDI là RM20.5 tỷ.
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 22
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Bảng 1: Tài khoản tài chính trong cán cân thanh toán của Malaysia, từ năm

2007 đến quý 1 2009
Lưu ý: * bảng trên bao gồm các giao dịch tài chính trong hoạt động tín dụng
thương mại, các khoản vay ngắn và dài hạn, hoặc những giao dịch khác. Những
khoản này không được ghi nhận là đầu tư trực tiếp, danh mục đầu tư hay tài sản dự
trữ. (Nguồn: Ngân hàng Negara Malaysia, tạp san thống kê hàng tháng.)
Các ngành thương mại cũng chịu ảnh hưởng nặng nề trong cuộc khủng hoảng
toàn cầu. Số liệu của Cục Thống kê cho thấy xuất khẩu của Malaysia giảm mạnh
kể từ tháng Giêng năm 2009 và phụ thuộc nhiều vào hàng điện tử và chất bán
dẫn. Bên cạnh đó sự sụp đổ trong xuất khẩu của các mặt hàng chế tạo, cũng có
những tín hiệu cho thấy một sự giảm đột ngột trong nhu cầu và giá cả các mặt hàng
xuất khẩu như dầu cọ ở Malaysia.
Trong khi xuất khẩu giảm, thì liệu có việc nhập khẩu hàng hóa trung gian liên
quan đến việc xuất khẩu hay không?. Nhập khẩu tại Malaysia đã giảm 32% còn 9.5
tỷ RM. Sự sụt giảm trong xuất khẩu cho rằng dẫn đến một sự suy giảm trong nhập
khẩu với 70% lượng nhập khẩu của Malaysia là hàng hóa trung gian. Mặc dù có sự
suy giảm trong xuất khẩu nhưng Malaysia vẫn duy trì thặng dư thương mại mặc dù
thặng dư này nhỏ hơn (xem hình 3).
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 23
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
Nguồn: tạp san thống kê hàng tháng BMN
V. Chính sách đối phó với những biến động gần đây trong việc luồng vốn
chảy ra.
Malaysia xoay sở như thế nào để đảo ngược dòng chảy của vốn, đồng thời
duy trì ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ ?
Hannoun (2001) đã viết rằng "nếu sự lựa chọn các mục tiêu liên quan đến bộ
ba bất khả thi không rõ ràng, thì những nhà hoạch định chính sách có một loạt các
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 24
Việt Nam & Bộ ba bất khả thi sau khi gia nhập WTO
lựa chọn chính sách, nhưng phải cân bằng các chính sách đó để đạt được sự kết
hợp tốt nhất …" Có một số cách mà BNM có thể đối phó với những thách thức đặt

ra bởi luồng vốn chảy ra lớn: 1) sử dụng dự trữ quốc tế để giảm nhẹ cuộc khủng
hoảng, 2) cho phép tỷ giá giảm, 3) can thiệp để chống sự sụt giảm tỷ giá, 4) hạn
chế luồng vốn chảy ra.
1. Quỹ dự trữ quốc tế cho việc giảm nhẹ cuộc khủng hoảng
Lượng ngoại tệ dự trữ ở các nước châu Á trong những năm gần đây rất lớn.
Nhiều nước châu Á chịu cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997-1998 đã tăng
mạnh dự trữ ngoại tệ của họ. Lượng dự trữ tăng sau năm 2000.
Các nước châu Á đã bắt đầu dự trữ rất lớn sau các hậu quả khủng hoảng tiền
tệ châu Á năm 1997. Trong năm 2006, trong số 10 quốc gia có lượng dự trữ lớn
nhất trên thế giới, thì có 8 nước thuộc châu Á (Hashimoto, 2008).
Malaysia, giống như các nước châu Á khác, xây dựng nguồn dự trữ rất lớn sau
cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997. Năm 1998, dự trữ ngoại tệ đã được 99
tỷ RM (26 tỷ USD), tăng lên 317.44 tỷ RM (91,6 tỷ USD) trong năm 2008. Lượng
dự trữ lớn này đã được tích lũy qua nhiều năm trước. Bảng 2 cung cấp cái nhìn sâu
sắc về việc tăng cường dự trữ từ sau năm 1997, chủ yếu được tài trợ bởi thặng dư
tài khoản vãng lai hơn là thông qua các luồng vốn vào. Loại dự trữ này, được gọi là
dự trữ tự kiếm được, là dự trữ quốc gia được xây dựng bởi một quốc gia khác do
thặng dư tài khoản vãng lai hay thương mại (Martin, 2008). Loại dự trữ này chắc
chắn hơn, độc lập hơn, đáng tin cậy hơn và sẵn sàng khi cần thiết so với dự trữ
được xây dựng thông qua các luồng danh mục đầu tư ngắn hạn hoặc vay bên ngoài.
Nó thể hiện rõ ở Bảng 2, trước năm 1997, dự trữ tích lũy được không cao ở
Malaysia. Mặc dù Malaysia đã nhận được dòng vốn vào cao nhưng nó đã bù đắp
mức thâm hụt trong tài khoản vãng lai để đổi lấy một số dư nhỏ đưa vào dự trữ.
Nhưng sau năm 1997, sự giảm giá của Ringgit nâng cao khả năng cạnh tranh quốc
tế hàng xuất khẩu của Malaysia. Thặng dư tài khoản hiện tại lớn nâng cao lượng dự
trữ quốc gia đến mức chưa từng thấy mặc dù thâm hụt tài khoản vốn liên tục trong
khoảng thời gian này (ngoại trừ một số dư tài khoản vốn tích cực ghi nhận năm
2004).
GVHD Đinh Thị Thu Hồng 25

×