Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật canh tác đến năng xuất và chất lượng giống lúa J02 trong vụ xuân năm 2013 tại huyện Hoàng Su Phì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 90 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu
1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



LÈNG SEO SENG



NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CANH TÁC ĐẾN NĂNG SUẤT
VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA GIỐNG LÚA J02 TRONG
VỤ XUÂN NĂM 2013 TẠI HUYỆN HOÀNG SU PHÌ

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Quý Nhân





THÁI NGUYÊN - 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
- Tôi luôn luôn nỗ lực, cố gắng và trung thực trong suốt quá trình
nghiên cứu đề tài.
- Luận văn sử dụng những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các
thông tin đã được chọn lọc, phân tích, tổng hợp, xử lý và đưa vào luận văn
đúng quy định.
- Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Thái Nguyên, ngày 11 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn



Lèng Seo Seng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian nghiên cứu đề tài, bản luận văn của tôi đã được hoàn
thành với sự nỗ lực của bản thân, sự động viên của bạn bè, đồng nghiệp.
Đặc biệt là sự quan tâm tạo điệu kiện giúp đỡ của TS. Đặng Quý Nhân

bộ môn cây Lương thực và cây Công nghiệp; Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên là người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian
thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong Khoa Nông học cùng các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi hoàn thành nghiên cứu đề
tài và hoàn thành luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động
viên khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 11 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn



Lèng Seo Seng



Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH ix

MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
3
3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới và ở Việt Nam 5
1.2.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới 5
1.2.1.1. Nghiên cứu về bón phân cho lúa 5
1.2.1.2. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy trên thế giới 8
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa ở Việt Nam 9
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu bón phân cho lúa ở Việt Nam 9
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu về mật độ cấy ở Việt Nam 13
1.3. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam 17
1.3.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 17
1.3.2. Tình hình sản xuất lúa của Việt Nam 21
Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu 25

Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 25
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 25
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 25
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 25

2.2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 25
2.2.2.2. Quy trình kỹ thuật 26
2.2.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 27
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu 30
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Điều kiện thời tiết khí hậu 31
3.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến sinh trưởng và năng suất của giống lúa
J02, vụ xuân năm 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 33
3.2.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh trưởng của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 33
3.2.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng đẻ nhánh của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 34
3.2.3. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao cây và khả năng chống đổ của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 38
3.2.3.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây 38
3.2.3.2. Chiều cao cây cuối cùng và khả năng chống đổ 40
3.2.4. Ảnh hưởng của mật độ đến tình hình sâu bệnh hại giống lúa J02, vụ
xuân 2013 41
3.2.5. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 43
3.2.6. Hiệu quả kinh tế 46
3.3. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến sinh trưởng và năng suất của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 48

Số hóa bởi trung tâm học liệu
v

3.3.1. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến thời gian sinh trưởng của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 48
3.3.2. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến khả năng đẻ nhánh của

giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 48
3.3.3. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến chiều cao cây và khả năng
chống đổ của giống lúa J02, vụ xuân 2013 52
3.3.3.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây 52
3.3.3.2. Chiều cao cây cuối cùng và khả năng chống đổ 54
3.3.4. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến tình hình sâu bệnh hại
giống lúa J02, vụ xuân 2013 54
3.3.5. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất giống lúa J02, vụ xuân 2013 56
3.3.5.1. Các yếu tố cấu thành năng suất 56
3.3.5.2. Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu 57
3.3.6. Ảnh hưởng của tổ hợp phân bón đến hiệu quả kinh tế của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì. 58
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60
1. Kết luận 60
1.1. Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và năng suất của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 60
1.2. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến sinh trưởng và năng suất của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 60
2. Đề nghị 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
PHỤ LỤC 68

Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CT
: Công thức

NSTT
: Năng suất thực thu
KL
: Khối lượng
ĐBSCL
: Đồng bằng Sông Cửu Long
NL
: Nhắc lại
BVTV
: Bảo vệ thực vật
NSLT
: Năng suất lý thuyết

Số hóa bởi trung tâm học liệu
vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới giai
đoạn 1970 - 2012 17
Bảng 2.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế
giới năm 2012 18
Bảng 2.3. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam giai
đoạn 1970 - 2012 22
Bảng 3.1. Diễn biến thời tiết khí hậu từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2013 ở huyện
Hoàng Su Phì 32
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh trưởng, phát triển của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 34
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của mật độ đến động thái đẻ nhánh của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 35

Bảng 3.4. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng đẻ nhánh của giống J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 37
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của mật độ đến động thái tăng trưởng chiều cao cây của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 39
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến chiều cao cây cuối cùng và khả
năng chống đổ của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su
Phì 41
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến tình hình sâu bệnh hại của giống
lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 42
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của mật độ đến các yếu tố cấu thành và năng suất năng
suất của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 44
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến hiệu quả kinh tế của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 47

Số hóa bởi trung tâm học liệu
viii

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến các giai đoạn sinh
trưởng, phát triển của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng
Su Phì 48
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến động thái đẻ nhánh
của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 49
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến khả năng đẻ nhánh
của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 51
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại Hoàng Su Phì . 53
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến chiều cao cây cuối
chùng và khả năng chống đổ của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại
huyện Hoàng Su Phì 54
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến tình hình sâu bệnh hại

giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 55
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất giống J02, vụ xuân 2013 56
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến hiệu quả kinh tế của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 58


Số hóa bởi trung tâm học liệu
ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Ảnh hưởng của mật độ đến động thái đẻ nhánh của giống lúa J02,
vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 36
Hình 3.2. Ảnh hưởng của mật độ đến động thái tăng trưởng chiều cao cây của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 40
Hình 3.3. Hệ tương quan giữa mật độ với một số yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất thực thu của giống lúa J02, vụ xuân năm 2013 46
Hình 3.4. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến động thái đẻ nhánh của
giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại huyện Hoàng Su Phì 50
Hình 3.5. Ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của giống lúa J02, vụ xuân 2013 tại Hoàng Su Phì . 53

1

Số hóa bởi trung tâm học liệu
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Lúa là cây lương thực chiếm vị trí quan trọng trong đời sống con người,
xếp thứ hai sau lúa mì. Sản phẩm của lúa có ảnh hưởng đến 65% dân số thế

giới, trong đó 40% dân số coi lúa gạo là nguồn lương thực chính, chủ yếu là ở
các nước châu Á, châu Phi, châu Mĩ La Tinh. Hàng ngày lúa gạo cung cấp
khoảng 23% năng lượng cho con người, trong đó có 90% gluxit, 1-3% lipit,
7-10% protein (Nguyễn Thị Lẫm, 2003)[17]. Do có giá trị dinh dưỡng cao
nên gạo được coi là nguồn lương thực và dược phẩm có giá trị, làm thức ăn
chăn nuôi, nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến như rượu bia, bánh
kẹo…. Đối với một số nước như Việt Nam, Thái Lan thì lúa gạo còn là mặt
hàng xuất khẩu có giá trị cao góp phần tăng thu ngoại tệ cho quốc gia.
Tại đại hội cây trồng quốc tế lần thứ 5 ở Hàn Quốc diễn ra từ ngày 13 –
18 tháng 4 năm 2008, Giáo sư MaKie Kobulun (Đại học Tokyo, Nhật Bản) đề
cập đến chiến lược lai tạo giống cây trồng và kỹ thuật canh tác trong điều kiện
môi trường biến đổi. Việc gia tăng sản lượng cây trồng trước đây dựa trên
việc gia tăng hai nhân tố cùng một lúc là năng suất và diện tích thì trong
tương lai sẽ phải nhấn mạnh một nhân tố năng suất. Sự thay đổi khí hậu toàn
cầu, môi trường ngày càng ô nhiễm là một thách thức to lớn. Trong đó thiếu
nước, nhiệt độ dưới điểm cực thuận cho sinh lý cây trồng sẽ làm hạn chế sinh
trưởng và năng suất nhiều nhất. Giải pháp khắc phục phải được tiến hành hai
lĩnh vực là di truyền và kỹ thuật canh tác (dẫn Nguyễn Thị Trâm, 2007)[30].
Huyện Hoàng Su Phì là huyện vùng cao, đặc biệt khó khăn của tỉnh Hà
Giang, tổng diện tích đất tự nhiên 63.261,82 ha, dân số 60.958 người (năm
2012). Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước quan tâm, cùng với sự
cố gắng vươn lên của của nhân dân các dân tộc trong huyện, huyện Hoàng Su
Phì đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đời

Số hóa bởi trung tâm học liệu
2

sống vật chất - tinh thần của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, theo tiêu chí
đánh giá sự phát triển địa phương, thì huyện Hoàng Su Phì vẫn là huyện
nghèo và đặc biệt khó khăn (tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện chiếm tới 48,76%).

Nguyên nhân dẫn đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện
Hoàng Su Phì còn chậm là do kinh tế của huyện chủ yếu phụ thuộc vào sản
xuất nông nghiệp trong khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Diện tích đất
đai hầu hết là núi cao, thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt là do nhiệt độ thấp không
những hạn chế đến khả năng sinh trưởng, phát triển của cây trồng mà còn hạn
chế đến việc mở rộng diện tích đặc biệt là lúa vụ xuân (năm 2012 diện tích lúa
ruộng của huyện là 3.757,3 ha, trong đó: diện tích lúa đông xuân 310,2 ha,
chiếm 8,3% diện tích đất trồng lúa). Để đảm bảo an ninh lượng thực, nâng cao
đời sống của nhân dân huyện cần có chiến lược đồng bộ, trong đó việc mở
rộng diện tích lúa vụ xuân, nâng cao hệ số sử dụng đất là rất cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
J02 là giống lúa thuộc nhóm Japonica do viện Di truyền Nông nghiệp
Việt Nam chọn tạo. Giống lúa J02 có chất lượng gạo ngon, chiều cao cây
trung bình, khả năng chống đổ, sâu bệnh hại, đặc biệt là khả năng chịu rét rất
tốt. Trong những năm qua, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã đưa
giống lúa J02 lên trồng thử ở huyện Hoàng Su Phì, kết quả cho thấy giống lúa
J02 có khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất khá cao trong điều
kiện vụ xuân. Tuy nhiên để mở rộng diện tích trồng giống lúa này cần nghiên
cứu để xác định quy trình kỹ thuật phù hợp.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu một số
biện pháp kỹ thuật canh tác giống lúa J02 trong vụ xuân năm 2013 "
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được mật độ và tổ hợp NPK thích hợp nhằm nâng cao năng suất
và hiệu quả kinh tế cho giống lúa J02 tại huyện Hoàng Su Phì - Hà Giang.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
3

3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ và tổ hợp NPK đến khả năng sinh

trưởng, tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ của giống lúa J02.
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ và tổ hợp NPK đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của giống lúa J02.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4
- Đề tài là công trình nghiên cứu xác định biện pháp kỹ thuật phù hợp
cho giống lúa J02 trong vụ xuân năm 2013 để tuyên truyền, khuyến cáo nhân
dân mở rộng diện tích lúa vụ xuân ở huyện Hoàng Su phì và có thể mở rộng
thêm cho các huyện vùng núi cao có điều kiện tự nhiên như huyện Hoàng Su
Phì của tỉnh Hà Giang.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học để các nhà nghiên
cứu về nông nghiệp, giáo viên và sinh viên các trường nông nghiệp tham khảo.
4
- Kết quả nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật (mật độ và phân bón)
trồng giống lúa mới J02 nhằm nâng cao năng suất và mở rộng diện tích lúa vụ
xuân tại huyện Hoàng Su Phì nói riêng và các huyện vùng cao núi đã có điều
kiện tự nhiên như huyện Hoàng Su Phì của tỉnh Hà Giang nói chung.
- Mở rộng diện tích trồng giống lúa J02 trong vụ xuân tại huyện Hoàng
Su Phì không những mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho nông
dân mà còn nâng cao hệ số sử dụng đất của huyện Hoàng Su Phì.



Số hóa bởi trung tâm học liệu
4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Năng suất lúa được quyết định bởi các yếu tố cấu thành năng suất như:

số bông/m
2
(N), số hạt/bông (n), tỷ lệ hạt chắc (F) và khối lượng 1000 hạt
(W). Mối quan hệ phụ thuộc trên có thể biểu diễn bằng công thức:
Y= N * n * W * F * 10
-5
(tấn/ha)
Các yếu tố cấu thành năng suất có liên quan mật thiết với nhau. Số
bông/m
2
phụ thuộc vào tỷ lệ đẻ nhánh, mật độ cấy. Khi cây đẻ nhánh mạnh thì
số bông tăng. Khi số bông/m
2
tăng quá cao thì bông lúa bé đi, số hạt/bông
giảm, tỷ lệ hạt chắc/bông và khối lượng hạt cũng giảm. Để đạt được năng suất
cao cần điều khiển cho lúa có số bông tối ưu, đảm bảo số hạt/bông nhiều, tỷ lệ
hạt chắc cao và khối lượng hạt lớn (Nguyễn Văn Hoan, 2006)[14].
- Yếu tố ảnh hưởng đến số bông/m
2
: Số bông/m
2
được quyết định bởi 2
yếu tố chủ yếu là mật độ cấy và tỷ lệ nhánh đẻ (Nguyễn Văn Hoan, 2006)[14].
Muốn cho lúa đẻ nhánh tốt thì ngoài cấy mạ khỏe, đúng thời vụ, việc bón
phân thúc đẻ và thúc đòng ảnh hưởng có tính chất quyết định. Thời kỳ đẻ
nhánh cần được bón đủ đạm, lân và kali; thời kỳ làm đòng cần bón đạm và
kali (Lê Vĩnh Thảo, 2004 [26]).
- Yếu tố ảnh hưởng đến số hạt/bông: Số hạt/bông là do số lượng hoa
phân hóa và số lượng hoa thoái hóa quyết định (Nguyễn Văn Hoan,
2006)[14]. Tỷ lệ hoa phân hóa liên quan chặt đến chế độ chăm sóc, trong đó

phân đạm có vai trò quan trọng làm tăng số lượng hoa phân hóa, giảm số
lượng hoa thoái hóa, tăng kích thước vỏ trấu. Bón thúc đạm khi bắt đầu phân
hóa đòng còn làm tăng quá trình phân hóa gié. Số gié cấp I, đặc biệt là số gié

Số hóa bởi trung tâm học liệu
5

cấp II nhiều thì số hoa/bông cũng nhiều, đây là điều kiện cần thiết đảm bảo số
hạt/bông lớn (Nguyễn Văn Hoan, 2006 )[14].
- Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ hạt chắc: Tỷ lệ hạt chắc phụ thuộc vào số
hạt/bông, nếu số hạt/bông quá lớn thì tỷ lệ hạt chắc thấp. Ngoài ra tỷ lệ hạt
chắc còn phụ thuộc vào lượng tinh bột tích lũy trong cây và đặc điểm giải
phẫu của cây lúa (Nguyễn Văn Hoan, 2006)[14]. Trong các nguyên tố đa
lượng, đạm và kali ảnh hưởng mạnh đến tỷ lệ hạt chắc vì đạm làm tăng khả
năng quang hợp và quá trình tổng hợp chất hữu cơ, kali thúc đẩy sự vận
chuyển chất khô về cơ quan tích lũy (Yang và cs., 1999)[52].
- Yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng hạt: Khối lượng hạt phụ thuộc vào
kích thước hạt và kích thước của nội nhũ. Vào giai đoạn phân bào giảm nhiễm
gặp điều kiện ngoại cảnh thuận lợi và chế độ dinh dưỡng, đặc biệt là dinh
dưỡng đạm, kali phù hợp thì nhận được kích thước hạt lớn, sau đó tích lũy
được nhiều tinh bột thì khối lượng hạt thóc cao. Sau trỗ nếu thiếu ánh sáng,
dinh dưỡng kém, đặc biệt là thiếu kali và quá trình vận chuyển chất khô vào
hạt bị cản trở làm giảm khối lượng hạt (Nguyễn Văn Hoan, 2006)[14].
Như vậy để ruộng lúa đạt năng suất cao cần áp dụng các biện pháp kỹ
thuật tổng hợp, trong đó nghiên cứu để xác định công thức bón phân bón và
mật độ cấy hợp lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
1.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
1.2.1.1. Nghiên cứu về bón phân cho lúa
Theo Patrick và cs., (1968)[45], Kobayashi (1995) [42]: Khi nghiên cứu

khả năng cạnh tranh của 2 giống lúa Hokuriki 52 và Yamakogame cho biết: Các
giống lúa phản ứng với điều kiện phân bón khác nhau. Giống có tính thích ứng
cao trong điều kiện tự nhiên ít phân và tăng số lượng cây con ở mỗi đối tượng,
trong khi đó các giống cạnh tranh yếu bị thất bại nghiêm trọng trong điều kiện

Số hóa bởi trung tâm học liệu
6

trồng trọt bình thường, điều đó có nghĩa là giống khoẻ (Hokuriki 52) sẽ làm hại
nhiều cho giống yếu (Yamakogame) khi có đủ phân bón.
Theo Shi (1986)[48] cho rằng: Phân bón có tác dụng thúc đẩy hoạt
động quang hợp. Kết quả nghiên cứu các giống lúa Indica có phản ứng với
phân bón là tăng diện tích lá lớn hơn so với giống lúa Japonica nhưng lại phản
ứng yếu hơn khi hàm lượng phân bón tăng. Khi bàn về năng suất tác giả cho
biết: năng suất là kết quả của những giống có phản ứng tốt với phân bón và
biện pháp kỹ thuật. Ở vùng ôn đới, giống Japonica thường cho năng suất cao
vì nó phản ứng tốt với phân bón.
Theo kết quả nghiên cứu của Sinclair (1989)[47]: Hiệu suất bón đạm
cho lúa rất khác nhau: 1kg N cho từ 3,1 - 23 kg thóc.
Các công trình nghiên cứu của De Datta (1978)[40] Koyama
(1981)[43], Sinclair (1989)[47], Vlek (1986)[49] về đặc điểm bón phân cho
các giống lúa đều đi đến kết luận: Giống mới yêu cầu về phân bón nhất là lân
cao hơn giống cũ. Bón lân làm tăng khả năng hút đạm và kali. Là cơ sở để
tăng năng suất cây trồng. Để đánh giá khả năng cung cấp lân của đất cho cây
trồng, người ta dựa vào hàm lượng lân tổng số, phân lân bón cho lúa có hiệu
quả đứng thứ 2 sau đạm, nhưng trong một vài trường hợp, ở những đất nghèo
màu thì phân lân lại làm tăng năng suất nhiều hơn đạm. Tuy nhiên bón phân
lân cùng với đạm là điều kiện tốt để phát huy hiệu quả cao của phân lân. Khi
cây bị thiếu lân cây non có bộ lá hẹp, thường bị cuộn lại, sức đẻ nhánh giảm
và đẻ muộn, giai đoạn đẻ nhánh kéo dài. Ở thời kỳ lúa đẻ nhánh và tròn mình

phân lân có ảnh hưởng tốt đối với cây lúa, nó làm cho trọng lượng của phần
trên mặt đất của cây lúa tăng khá lớn, sau đó đến thời kỳ chín mức tăng của
trọng lượng thân cây giảm. Ở những chân đất tương đối phì nhiêu, hiệu quả
của phân lân đối với năng suất lúa không lớn. Bón lân làm cho lúa cứng cây
và tăng khả năng chống đổ.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
7

Theo Yang (1999)[52] ở nhiều nước trên thế giới thường hay bón phân
chuồng và phân ủ cho lúa để làm tăng độ phì nhiêu cho đất như Trung Quốc,
Ấn Độ, Việt Nam, Malaysia và các nước vùng Đông Nam Á. Trong thời gian
gần đây phân khoáng đã được dùng phổ biến và phân chuồng được dùng bón
lót làm tăng năng suất lúa và tăng hiệu quả của phân khoáng. Thí nghiệm của
Ying (1998)[53] cho thấy sự tích luỹ đạm, lân và kali ở các cơ quan trên mặt
đất của cây lúa không kết thúc ở thời kỳ trỗ mà còn được tích luỹ tiếp ở các
giai đoạn tiếp theo của cây.
Theo Sarker (2002) [46] khi nghiên cứu ảnh hưởng lâu dài của lân đối
với lúa được đánh giá: “Hiệu suất của lân đối với năng suất hạt ở giai đoạn
đầu cao hơn giai đoạn cuối và lượng lân hút ở giai đoạn đầu chủ yếu phân
phối ở các cơ quan sinh trưởng. Do đó, phải bón lót để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng cho cây lúa”.
Phân bón có tác dụng rất lớn đến năng suất lúa. Muốn đạt năng suất,
sản lượng cao cần bón phân đúng liều lượng đúng cách. Ngay những thập kỷ
70, 50% sản lượng nông nghiệp tăng lên ở các nước phát triển là nhờ sử dụng
phân bón (FAO - 1994).
Bón đạm với liều lượng cao thì hiệu suất cao nhất và bón vào lúc lúa đẻ
nhánh, sau đó giảm dần. Với liều lượng thấp thì bón vào lúc lúa đẻ nhánh và
trước trỗ 10 ngày có hiệu quả cao. Có hai đỉnh về hiệu suất đỉnh thứ nhất xuất
hiện ở giai đoạn lúa đẻ nhánh, đỉnh thứ hai xuất hiện ở 19 - 9 ngày trước trỗ,

nếu lượng đạm nhiều thì không có đỉnh thứ 2.
Tác giả đã đề nghị: Nếu lượng đạm ít sẽ bón vào 20 ngày trước trỗ.
Khi lượng đạm trung bình bón hai lần lúc lúa con gái và 20 ngày trước trỗ
bông, khi lượng đạm nhiều bón vào lúc lúa con gái.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã kết luận: Với cùng một mức năng suất,
lúa lai hấp thu lượng đạm và lân thấp hơn so với lúa thuần, ở mức năng suất 75

Số hóa bởi trung tâm học liệu
8

tạ/ha lúa lai hấp thu đạm thấp hơn lúa thuần 4,8% hấp thu P
2
0
5
thấp hơn 18,2%.
Nhưng hấp thu K
2
0 cao hơn 30%. Với ruộng lúa cao sản thì hấp thu N cao hơn
lúa thuần 10%, hấp thu K
2
0 cao hơn 45% còn hấp thu P
2
0
5
bằng lúa thuần.
1.2.1.2. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy trên thế giới
Mật độ cấy là số khóm cấy/m
2
. Lúa cấy được tính bằng khóm, lúa gieo
được tính bằng hạt mọc. Về nguyên tắc thì mật độ gieo hoặc cấy càng cao thì

số bông càng nhiều. Trong một giới hạn nhất định, việc tăng số bông không
làm giảm số hạt trên bông, nhưng nếu vượt qua giới hạn đó thì số hạt trên
bông bắt đầu giảm đi do lượng dinh dưỡng phải chia sẻ cho nhiều bông. Theo
tính toán thống kê cho thấy tốc độ giảm số hạt/bông mạnh hơn tốc độ tăng của
mật độ cấy, vì vậy cấy dầy đối với lúa lai gây giảm năng suất nhiều hơn so
với lúa thường. Tuy nhiên, nếu cấy quá thưa đối với giống có thời gian sinh
trưởng ngắn thì khó đạt được số bông tối ưu cần thiết theo dự định.
Mật độ cấy là một biện pháp kỹ thuật quan trọng nó phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, dinh dưỡng, đặc điểm của giống…Khi nghiên cứu về vấn đề
này S. Yoshida (1978)[50] đã kết luận: Trong điều kiện dễ canh tác, lúa mọc
tốt thì nên cấy mật độ thưa, ngược lại phải cấy dày. Giống lúa cho nhiều bông
thì cấy dày không có lợi bằng giống bông to. Vùng lạnh nên cấy dày hơn
vùng nóng ẩm, mạ dảnh to nên cấy thưa hơn mạ dảnh nhỏ, lúa gieo muộn nên
cấy dày hơn so với lúa gieo sớm.
Nghiên cứu về khả năng đẻ nhánh S. Yoshida (1978) [50] đã khẳng định:
Trong ruộng lúa cấy, khoảng cách thích hợp cho lúa đẻ nhánh khỏe và sớm thay
đổi từ 20 x 20 cm đến 30 x 30 cm. Theo ông việc đẻ nhánh chỉ xẩy ra đến mật
độ 300 cây/m
2
, nếu tăng số dảnh cấy lên nữa thì chỉ có những dảnh chính cho
bông. Năng suất hạt tăng lên khi mật độ cấy tăng lên 182 - 242 dảnh/m
2
. Số
bông trên đơn vị diện tích cũng tăng theo mật độ nhưng lại giảm số hạt/bông.
Mật độ cấy thực tế là vấn đề tương quan giữa số dảnh cấy và sự đẻ nhánh.
Thường gieo cấy thưa thì lúa đẻ nhánh nhiều còn cấy dầy thì đẻ nhánh ít.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
9


Các tác giả sinh thái học đã nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất và
quần thể ruộng cây trồng và đều thống nhất rằng: các giống khác nhau phản
ứng với mật độ khác nhau, việc tăng mật độ ở một giới hạn nhất định thì năng
suất tăng nhưng vượt qua giới hạn đó năng suất không tăng mà còn giảm
xuống. Qua thực tế thí nghiệm nhiều năm đối với nhiều giống lúa khác nhau
S. Yoshida (1978) [50] cho rằng: Trong phạm vi khoảng cách 10 x 10 cm đến
50 x 50 cm khả năng đẻ nhánh có ảnh hưởng đến năng suất. Ông đã thấy rằng
năng suất của hạt giống IR - 154 - 451 (một giống đẻ nhánh ít) tăng lên với
việc giảm khoảng cách 10 x 10cm. Còn IR
8
(giống đẻ nhánh khỏe) năng suất
đạt cực đại ở khoảng cách cấy là 20 x 20 cm.
Các tác giả người Trung Quốc đã sử dụng tổ hợp lai 2 dòng PA
64S/9311 để nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của tổ hợp lai. Các tác giả sử dụng hai công thức cấy
thưa (90.000 khóm/ha) và công thức cấy truyền thống của Trung Quốc
(300.000 khóm/ha). Kết quả nghiên cứu cho thấy:
+ Số nhánh đẻ ở công thức cấy thưa giảm đáng kể so với công thức
cấy dầy vào thời điểm trước 10/5, nhưng đến sau 25/5 thì sự sai khác chỉ
còn rất nhỏ.
+ Kích thước nhánh đẻ ở công thức cấy thưa lớn hơn công thức cấy dầy
6,86%, tỷ lệ kết hạt thấp hơn 2,35% và khối lượng 1000 hạt cũng thấp hơn
0,86g. Năng suất của công thức cấy thưa giảm 17 - 19%.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu bón phân cho lúa ở Việt Nam
Theo Bùi Đình Dinh (1999) [9] cho rằng: Phân bón có từ rất lâu đời cùng
với sự ra đời của nền nông nghiệp và bắt đầu bằng việc sử dụng các loại phân
hữu cơ. Từ trước Công Nguyên con người đã quan tâm đến việc bón phân hữu
cơ cho ruộng, ở Trung Quốc đã biết bón phân xanh và phân bón đã được bắt đầu
sử dụng từ các phân của động vật và mở rộng ra các loại phân hữu cơ khác.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
10

Nông dân Việt Nam đã dùng phân hữu cơ từ rất lâu đời, từ việc phát
nương làm rẫy, đốt rơm rạ trên nương để lại lớp tro rồi chọc lỗ bỏ hạt. Việc
cày vặn ngả dạ (làm dầm) mục đích để rơm rạ được ủ nát thành phân ngay tại
ruộng, người nông dân đã biết tận dụng ngay tại chỗ nguồn phân bón kết hợp
với thu gom phân trâu bò, tro bếp để bón ruộng.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân đạm đến sự sinh trưởng và phát
triển của cây lúa, Bùi Huy Đáp (1999)[11] cho biết: “Phân hoá học cung cấp
từ 1/3 đến 1/2 lượng phân đạm cho lúa”. Những năm gần đây việc bón phân
chuồng cho lúa không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cây nên con người
đã sử dụng phân đạm hoá học để bón. Mỗi giống lúa khác nhau cần một
lượng phân bón nhất định vào các thời kỳ cây đẻ nhánh, đẻ nhánh rộ và giảm
dần khi lúa đứng cái.
Theo Lê Văn Căn (1964)[4] ở đất phù sa Sông Hồng nếu bón đơn thuần
phân đạm mà không kết hợp với phân lân và kali vẫn phát huy được hiệu quả
của phân đạm, lượng phân lân và kali bón thêm không làm tăng năng suất
đáng kể, nhưng nếu cứ bón liên tục sau 3 - 4 năm thì việc phối hợp bón lân và
kali sẽ làm tăng năng suất rõ rệt trên tất cả các loại đất. Phân đạm là nguyên
tố dinh dưỡng cần thiết nhất nên việc sử dụng phân đạm đã làm tăng năng
suất rất lớn. Tuy nhiên phân đạm có thể tạo lập độ phì nhiêu cho đất nên khi
sử dụng không cân đối giữa đạm với nguyên tố khác sẽ làm suy thoái đất. Qua
nghiên cứu về phân bón cho thấy: ở Việt Nam, trên đất phèn nếu không bón
lân, cây trồng chỉ hút được 40 - 50 kg N/ha, nếu bón lân cây trồng sẽ hút 120 -
130 kg N/ha. Do vậy, để đảm bảo đất không bị suy thoái thì về nguyên tắc
phải bón trả lại cho đất một lượng dinh dưỡng tương tự lượng dinh dưỡng mà
cây trồng đã lấy đi. Tuy nhiên, việc bón phân cho cây trồng lại không chỉ hoàn
toàn dựa vào dinh dưỡng cây trồng hút từ đất và phân bón, mà phải dựa vào

lượng dinh dưỡng dự trữ trong đất và khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây.
Lúa yêu cầu đạm ngay từ lúc nảy mầm và gần như đến cuối cùng của
thời kỳ sinh trưởng sinh thực. Tỷ lệ đạm trong cây so với trọng lượng chất

Số hóa bởi trung tâm học liệu
11

khô ở các thời kỳ như sau: Thời kỳ mạ 1,54%, đẻ nhánh 3,65%, làm đòng
3.06%, cuối làm đòng 1,95%, trổ bông 1,17% và chín 0,4%.
Đối với nhiều loại đất, ngay từ đầu cần phải bón đạm kết hợp với lân
mới cho năng suất cao. Cũng theo nghiên cứu của Lê Văn Căn (1968)[4]:
Sự tích luỹ đạm, lân, kali ở các cơ quan trên mặt đất không kết thúc ở thời
kỳ trỗ mà còn được tiến hành ở giai đoạn tiếp theo của cây. Tuy nhiên, từ
khi cây bắt đầu đẻ nhánh đến làm đòng, cây lúa phản ứng mạnh với dinh
dưỡng N, K
2
O ở mức độ cao.
Theo Đào Thế Tuấn (1970)[28] trong thí nghiệm 3 vụ liền ở đất phù sa
Sông Hồng đã rút ra kết luận: “Vụ lúa chiêm cũng như vụ lúa mùa, chia đạm
ra bón nhiều lần để bón thúc đẻ nhánh, nếu bón tập trung vào thời kỳ đầu đẻ
nhánh thì số nhánh tăng lên rất nhiều về sau lụi đi cũng nhiều và thiếu dinh
dưỡng. Nếu bón tập trung vào cuối thời kỳ đẻ nhánh thì số nhánh lụi đi ít
nhưng tổng số nhánh cũng ít vì vậy cần chú ý cả ai mặt. Trong trường hợp
đạm bón tương đối ít thì nên bón tập trung vào thời kỳ đẻ nhánh rộ.
Theo các công trình đã nghiên cứu, muốn đạt năng suất 50 tạ/ha/vụ cần
bón 100 - 120 kg N/ha. Lượng đạm này lấy từ các loại phân vô cơ và hữu cơ
bón cho lúa.
Cây lúa cần đạm ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng, nhưng chủ yếu bón
vào thời kỳ bón lót, bón thúc khi đẻ nhánh và bón khi lúa bước vào thời kỳ
đòng. Tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng của cây lúa mà bón, khi bón phải dựa vào

thời tiết, khí hậu, mùa vụ. Cần tập trung lượng đạm vào thời kỳ đẻ nhánh vì
đây là thời kỳ khủng hoảng đạm lớn nhất của cây lúa. Nếu bón đạm tập trung
vào thời kỳ đẻ nhánh sẽ kích thích cây lúa đẻ nhiều và tập trung, do đó số
nhánh hữu hiệu tăng lên. Đây chính là yếu tố quyết định năng suất của lúa.
Hầu hết các công trình nghiên cứu cho thấy: Nếu chỉ bón đơn độc đạm
cho cây lúa thì cây sinh trưởng quá mạnh và chỉ đạt được năng suất khá trong
vài vụ đầu, dần dần năng suất sẽ bị giảm, nếu bón kết hợp với lân và kali thì
cây lúa sinh trưởng cân đối, cho năng suất cao và ổn định. Trong bón phân,

Số hóa bởi trung tâm học liệu
12

phương pháp bón cũng rất quan trọng. Cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật
trong khi bón phân thì hiệu quả mới cao, cây lúa mới hút được dinh dưỡng tối
đa. Theo Bùi Huy Đáp (1980)[10]: Lân được hút chậm hơn đạm trong thời kỳ
dinh dưỡng đầu và được hút nhanh từ khi phân hoá đòng đến lúa vươn lóng.
Phần lớn lân trong gạo là tích luỹ trong thân và lá trước khi trỗ rồi chuyển về
bông vì sau khi trỗ lúa thường không hút nhiều lân nữa, khi bón quá nhiều
lân, đất sẽ giữ lân lại, do đó ruộng ít bị xẩy ra hiện tượng thừa lân. Ruộng lúa
ngập nước sẽ làm tăng độ dễ tiêu của lân, tăng hiệu quả của phân bón cho cây
lúa. Cây lúa hút lân trong suốt thời kỳ sinh trưởng vì vậy có thể bón lót hết
lượng lân dành cho cả vụ.
Theo Nguyễn Vi (1974)[34] khi bón phân lân với lượng không cao và
không bón đạm sẽ xúc tiến quá trình đẻ nhánh ban đầu nhưng lại kìm hãm quá
trình đẻ nhánh về sau. Vì vậy, khi bón phân lân đơn độc, số nhánh không tăng
mà lại lụi đi nhiều, do đó cần bón kết hợp đạm, lân và kali.
Việt Nam có hàng nghìn giống lúa được gieo trồng trong cả nước, có
nhiều bộ giống tốt phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Một số giống
lúa chất lượng cao như giống Tám thơm, lúa Dự, nàng thơm, Nếp Cái Hoa
Vàng, Nếp Cẩm, Nếp tú lệ, các giống Nếp Nương, Tẻ Nương…đã được đưa

vào cơ cấu gieo cấy ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Chúng ta đã nhập và thuần
hoá nhiều giống lúa tốt từ nước ngoài mà nay đã trở thành các giống lúa đặc
sản của Việt Nam có thương hiệu như: IR64 Điện Biên, Bao Thai Định Hoá,
Khaodômaly Tiền Giang.
Phân bón có tác dụng rất lớn đến năng suất lúa. Tại nước ta từ năm
1990 trở lại đây bình quân lương thực bội thu nhờ phân bón hàng năm là
38%. Việc bón đạm ở vụ xuân có ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất lúa, hiệu
suất sử dụng đạm cao nhất khi bón với lượng đạm 102 kgN/ha (16,6 kg
thóc/kgN). Ở vụ mùa ít ảnh hưởng đến năng suất lúa, còn với nguyên tố lân ở
vụ Xuân hiệu suất sử dụng lân cao nhất khi bón với lượng 120 kgP
2
0
5
(cho
2,99kg thóc/kg P
2
0
5
). Hiệu suất sử dụng kali cao nhất khi bón với lượng 60 kg

Số hóa bởi trung tâm học liệu
13

K
2
0 (4,02 kg thóc/kg K
2
0). Vụ mùa hiệu suất sử dụng lân cao nhất ở mức bón
60 kg P
2

0
5
/ha, hiệu suất sử dụng kali cao nhất ở mức bón 30K
2
0/ha.
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1994) [20] khi bón đạm từ 40 - 200 kg N/ha
cho năng suất lúa đạt từ 5 - 10 tấn/ha.
Theo cục Khuyến nông và khuyến Lâm (1998) [6] về vấn đề phân bón
cân đối và hợp lý cho cây trồng thì cứ 1 tấn (N + P
2
0
5
+ K
2
0) cho bội thu từ
10 -13 tấn thóc. Như vậy nếu tính trong 5 năm gần đây trung bình phân hoá
học đã làm tăng 25 - 27% tổng sản lượng lương thực ở nước ta.
Cùng với việc đưa các giống mới các biện pháp kỹ thuật mới vào sản
xuất thì việc sử dụng phân bón đã không ngừng được tăng lên đáng kể.
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu về mật độ cấy ở Việt Nam
Mật độ là số cây, số khóm trồng trên đơn vị diện tích. Với lúa cấy thì mật
độ được xác định bằng số khóm/m
2
, lúa gieo thẳng thì xác định bằng số hạt
mọc/m
2
. Trên đơn vị diện tích nếu mật độ càng cao (cấy dầy) thì bông càng nhiều
nhưng số hạt/bông càng ít (bông bé). Tốc độ giảm số hạt/bông mạnh hơn tốc độ
tăng của mật độ vì vậy cấy dày quá làm cho năng suất giảm nghiêm trọng. Tuy
nhiên nếu cấy với mật độ quá thưa đối với giống có thời gian sinh trưởng ngắn thì

rất khó hoặc không thể đạt được số bông tối ưu. Các thí nghiệm về mật độ thực
hiện ở giống Bắc ưu 64 cho thấy: Mật độ 35 khóm đạt được 320 bông/m
2
và số
hạt trung bình 1 bông đạt 130 hạt. Khi tăng mật độ lên 70 khóm/m
2
thì cũng chỉ
đạt được 400 bông/m
2
nhưng số hạt trung bình 1 bông giảm xuống chỉ còn 73 hạt.
Như vậy mật độ tăng lên 2 lần cũng chỉ tăng được 1,25 lần số bông, còn số
hạt/bông giảm tới 1,78 lần (Nguyễn Văn Hoan, 2006)[14].
Mật độ cấy thích hợp tùy thuộc vào giống, mùa vụ, tuổi mạ, điều kiện
đất đai, phân bón và tập quán canh tác của từng địa phương Theo Nguyễn
Thị Trâm (2007)[31] thì sử dụng mạ non để cấy thì sau cấy lúa thường đẻ
nhánh sớm và nhanh. Nếu cần đạt 9 bông hữu hiệu /khóm với mật độ 40
khóm/m
2
chỉ cần cấy 3-4 dảnh, mỗi dảnh đẻ 2 nhánh là đủ, nếu cấy nhiều
hơn, số nhánh đẻ có thể tăng nhưng tỷ lệ hữu hiệu giảm.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
14

Khi sử dụng mạ thâm canh, mạ đã đẻ 2- 5 nhánh thì số dảnh cấy phải
tính cả nhánh đẻ trên mạ. Loại mạ này già hơn 10 - 15 ngày so với mạ chưa
đẻ vì vậy số dảnh cấy cần phải bằng số bông dự định hoặc ít nhất cũng phải
đạt trên 70% số bông dự định. Sau khi cấy các nhánh đẻ trên mạ sẽ tích luỹ, ra
lá lớn lên và thành bông. Thời gian đẻ nhánh hữu hiệu chỉ tập trung vào 8 - 15
ngày sau cấy. Vì vậy cấy mạ thâm canh cần có số dảnh cấy/khóm nhiều hơn

cấy mạ non. Nguyễn Văn Hoan (1999) [14] cho rằng ở mật độ cấy dày trên 40
khóm/m
2
thì để đạt 7 bông hữu hiệu trên khóm cần cấy 3 dảnh (nếu mạ non)
với loại mạ thâm canh số nhánh cần cấy trên khóm được xác định lượng theo
số bông cần đạt nhân với 0,8.
Theo Nguyễn Thị Trâm (2001) [30] thì mật độ cấy càng cao thì số bông
càng nhiều. Tuy nhiên cấy quá thưa đối với giống ngắn ngày thì khó đạt được
số bông/đơn vị diện tích theo dự định, các giống lai có thời gian sinh trưởng
trung bình có thể cấy thưa. Ví dụ: Bắc ưu 64 có thể cấy 35 khóm/m
2
. Các
giống có thời gian sinh trưởng ngắn như Bồi tạp sơn thanh, Bồi tạp 77 cần cấy
dày 40 - 45 khóm/m
2
.
Nhiều kết quả nghiên cứu xác định rằng trên đất giàu dinh dưỡng mạ
tốt thì chúng ta cần chọn mật độ thưa, nếu mạ xấu cộng với đất xấu nên cấy
dầy. Để xác định mật độ cấy hợp lý thì có thể căn cứ vào 2 thông số là: Số
bông cần đạt trên m
2
và số bông hữu hiệu/khóm. Từ hai thông số trên có thể
xác định mật độ cấy phù hợp với công thức:
Số bông/m
2

Mật độ (số khóm/m
2
) =
Số bông/khóm

Theo kết quả đạt được trên những ruộng lúa thâm canh năng suất đạt
được trên 300 kg/sào thì khóm lúa cần có 7 - 10 bông (thí nghiệm trên Sán Ưu
Quế 99) thì mật độ là: Với 7 bông/khóm cần cấy 43 dảnh/m
2
, với 8 bông/
khóm cần cấy 38 dảnh/m
2
, với 9 bông/khóm cần cấy 33 dảnh/m
2
, với 10
bông/khóm cần cấy 30 dảnh/m
2
.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
15

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy và liều lượng đạm tới sinh
trưởng của lúa ngắn ngày thâm canh. Nguyễn Như Hà (1999) [12] kết luận:
Tăng mật độ cấy làm cho việc đẻ nhánh của một khóm giảm. So sánh số
dảnh/khóm của mật độ cấy thưa 45 khóm/m
2
và mật độ cấy dày 85
khóm/m
2
thì thấy số dảnh đẻ trong một khóm lúa ở công thức cấy thưa lớn
hơn 0,9 dảnh/khóm - 14,8% ở vụ xuân, còn ở vụ mùa lên tới 1,9
dảnh/khóm - 25%. Về dinh dưỡng đạm của lúa tác động đến mật độ cấy,
tác giả kết luận tăng bón đạm ở mật độ cấy dầy có tác dụng tăng tỷ lệ dảnh
hữu hiệu. Tỷ lệ dảnh hữu hiệu tăng tỷ lệ thuận với mật độ cho đến 65

khóm/m
2
ở vụ mùa và 75 khóm/m
2
ở vụ xuân. Tăng bón đạm ở mật độ cao
trong khoảng 55 - 65 khóm/m
2
làm tăng tỷ lệ dảnh hữu hiệu.
Nguyễn Thạch Cương (2000) [7] đã làm thí nghiệm với tổ hợp Bồi tạp
Sơn Thanh trên đất phù sa Sông Hồng và đi đến kết luận:
+ Trong vụ xuân: Với mật độ cấy 55 khóm/m
2
trên đất phù sa sông
Hồng cho năng suất cao nhất là 82,2 tạ/ha, trên đất phù sa ven biển cho năng
suất 83,5 tạ/ha, ở vùng đất bạc màu rìa đồng bằng mật độ 55 - 60 khóm/m
2

cho năng suất 77,9 tạ/ha.
+ Trong vụ mùa: Mật độ 50 khóm/m
2
, trên đất phù sa Sông Hồng cho
năng suất cao nhất là 74,5 tạ/ha, trên đất phù sa ven biển cho năng suất 74
tạ/ha, mật độ 55 khóm/m
2
trên đất bạc màu cho năng suất 71,4 tạ/ha.
Nhận xét về mối quan hệ diện tích dinh dưỡng và sự đẻ nhánh, Bùi
Huy Đáp (1999) [11] cho rằng sự đẻ nhánh của cây lúa có quan hệ chặt chẽ
với diện tích dinh dưỡng. Nếu diện tích dinh dưỡng càng lớn thời gian đẻ
nhánh càng dài.
Ngược lại, diện tích dinh dưỡng càng nhỏ thì thời gian đẻ nhánh càng

ngắn. Cấy dầy ở mật độ lúa cao sẽ không đẻ nhánh và một số cây mẹ sẽ lụi dần.
Nguyễn Văn Luật (2001) [22] nhận xét phương pháp canh tác cổ truyền
trước đây so với ngày nay: Trước năm 1967, người dân trồng lúa thường cấy
thưa với mật độ 40 x 40 cm hoặc 70 x 70 cm ở một vài ruộng sâu, còn ngày
nay có xu hướng cấy dầy 20 x 20 cm; 20 x 25 cm; 10 x 15 cm.

×