Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

đề tài: nội dung, giá trị của luật nhà nước(hiến pháp) qua các lần sửa đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.99 KB, 18 trang )

z
Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội
……@&?……
Bài Tiểu Luận
Bộ Môn Cơ Bản
Họ Tên : Nguyễn Văn Chung
Lớp : QTM02K4 Số Sinh Viên :
Đề Tài:
Nội dung, giá trị của Luật nhà nhà nước
(Hiến Pháp) qua các lần sửa đổi
Hà Nội,2012
1

2
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
3
Mục Lục
Chương Trang
Chương I : Khái quát về sự ra đời của Hiến pháp ………… 5
Chương II : Lịch sử lập hiến Việt Nam ……………………… 7
Chương III : Hiến pháp Việt Nam qua các thời kì ………… 8
I. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 ……………… 8
II. Hiến pháp Việt Nam năm 1959 ………………. 10
III. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 ……………… 12
IV. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ………………. 14
Chương IV : Kết Luận …………………………………………… 15

4
Chương I :
Khái quát về sự ra đời của Hiến Pháp


- Theo lịch sử, xã hội loài người đã tồn tại hơn 50 nghìn năm, Nhà nước và
pháp luật cũng đã có gần 3 nghìn năm. Nhưng Hiến pháp được hiểu như ngày
nay là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia để quy định tổ chức quyền lực Nhà nước,
quy định các quyền tự do, dân chủ và các nghĩa vụ của công dân chỉ bắt đầu xuất
hiện vào thời kỳ cách mạng tư sản. Sự ra đời của Hiến pháp gắn liền với việc
khẳng định thắng lợi của cách mạng tư sản, đồng thời đánh dấu sự chấm dứt của
chế độ cai trị độc đoán, chuyên quyền, sử dụng bạo lực công khai và trắng trợn
đã từng tồn tại hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, chế độ chiếm hữu nô lệ.
Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến không hề biết tới Hiến
pháp.
- Dưới chế độ phong kiến, vua hay hoàng đế - đại diện giai cấp thống trị phong
kiến-được coi là con trời ("thiên tử"), thâu tóm trong tay toàn bộ quyền lực nhà
nước: quyền đặt ra pháp luật, quyền cắt cử quan lại để cai quản đất nước, quyền
xét xử tối cao. Đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân được gọi là "thần dân" đã
bị tước đoạt cả các quyền tối thiểu nhất của con người, vua cho sống thì được
sống, vua bắt chết thì phải chết.
- Để hạn chế quyền lực vô hạn định của giai cấp thống trị phong kiến mà đại
diện là nhà vua, tiến tới lật đổ chế độ thống trị hà khắc, độc đoán, chuyên quyền
phong kiến, giai cấp tư sản đã phát động cuộc cách mạng tư sản, đưa ra các
khẩu hiệu: về chủ quyền nhân dân; về các quyền tự do, bình đẳng, công bằng,
bác ái nên được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ và tham gia vào cuộc
cách mạng này.
- Cách mạng tư sản thắng lợi, Hiến pháp ra đời là sự kiện chính trị-xã hội quan
trọng, khẳng định sự thống trị của giai cấp tư sản tiến bộ, đang lên và là lực
lượng đại diện cho một phương thức sản xuất mới -phương thức sản xuất TBCN,
một chế độ cai trị mới - chế độ dân chủ tư sản, đồng thời đánh dấu sự rút lui khỏi
vũ đài chính trị của giai cấp phong kiến cùng với chế độ cai trị độc đoán, chuyên
quyền của nó.Ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt
để, thì ở đó toàn bộ quyền lực Nhà nước được chuyển giao cho giai cấp tư sản
và quyền lực này được tổ chức bằng hình thức chính thể cộng hòa mà Hiến pháp

là văn bản pháp lý chính thức ghi nhận. Còn ở đâu, giai cấp tư sản không giành
được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó giai cấp tư sản phải nhượng bộ và
5
thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến, ở đó quyền lực Nhà nước được chia sẻ
giữa hai giai cấp thống trị này và hình thức chính thể quân chủ đại nghị được ghi
nhận bởi một văn bản pháp lý có tên gọi là Hiến pháp (cũng vì thế chính thể này
còn gọi là quân chủ lập hiến).
- Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản ở
nước Anh (1640-1654) là đạo luật năm 1653 về "Hình thức cai quản Nhà nước
Anh, Xcốtlen, Ailen và những địa phận thuộc chúng" (một trong các bộ phận hợp
thành Hiến pháp không thành văn của nước Anh), trong đó quy định hình thức tổ
chức quyền lực mới. Tiếp đến là các bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 (Hiến
pháp thành văn đầu tiên trên thế giới), Hiến pháp của Pháp năm, Hiến pháp Ba
Lan năm 1791, Hiến pháp Na-uy năm 1814, Hiến pháp Bỉ nam 1831, Hiến pháp
Ac-hen-ti-na năm 1853, Hiến pháp Luych-xăm-bua năm 1868, Hiến pháp Thuỵ Sỹ
năm 1874 v.v. Đến cuối thế kỷ thứ 18, ở nhiều nước châu Âu đã có Hiến pháp và
sự ra đời các bản Hiến pháp nói trên đánh dấu bước khởi đầu lịch sử lập hiến
của nhân loại.
- Hiện nay, trên thế giới có khoảng 190 nước có Hiến pháp và sự hiện diện của
Hiến pháp được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một Nhà nước dân
chủ hiện đại.
6
Chương 2
Lịch sử lập hiến việt nam
- Tư tưởng lập hiến ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy
nhiên, vào những năm đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân
chủ tư sản Pháp (1789), ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa (1911) và chính
sách duy tân mà Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng ở Nhật Bản…nên trong giới trí

thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến.
- Có hai khuynh hướng chủ yếu về lập hiến là:
+ Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới
sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong
đó bảo đảm : quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế
Việt Nam cần hạn chế và quyền của "dân An nam" về tự do, dân chủ được mở
rộng. Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập
hiến năm 1923) và Phạm Quỳnh.
+ Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc
và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập
đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại
diện cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước
Nguyễn Ai Quốc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã
chứng minh chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn.
Chương 3
Hiến pháp Việt Nam qua các thời kì
7
Trước năm 1945, Việt Nam không có hiến pháp. Từ sau khi thành lập nhà nước
cộng hòa đầu tiên, lịch sử Việt Nam ghi nhận 4 bản Hiến pháp đã được ra đời,
trong các năm 1946, 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi vào năm 2001).
I. Hiến pháp năm 1946
A. Hoàn cảnh ra đời:
- Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
- Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chủ tịch đề ra sáu nhiệm
vụ cấp bách của Chính phủ, mà một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng
và ban hành bản Hiến pháp. Vì theo Người: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân
chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta
không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ.

Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" (Hồ Chí Minh. Toàn tập, T.4, tr.8).
- Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban
dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng
11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý
kiến. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển
cử ngày 6/1/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
B. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1946:
Hiến pháp 1946 gồm : lời nói đầu, 7 chương với 70 điều.
- Lời nói đầu Hiến pháp 1946 xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai
đoạn này là "bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
trên
nền tảng dân chủ". Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc cơ bản xây dựng
Hiến pháp là: "- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp,
tôn giáo; - Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ
và sáng suốt của nhân dân"
- Chương I: Chính thể (gồm 3 điều) xác định rõ: nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
- Chương II: Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (gồm 18 điều), trong đó quy định
các quyền rất cơ bản như : quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bầu cử, ứng
cử; quyền tư hữu tài sản; các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân; quyền phúc
quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia… Công dân
có các nghĩa vụ: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật.
8
- Từ chương III đến chương VI : quy định về Nghị viện nhân dân, về Chính phủ,
Hội đồng nhân dân và Uy ban hành chính, về cơ quan tư pháp. Nghị viện nhân
dân được xác định là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, do công dân Việt nam từ 18 tuổi trở lên bầu ra theo nguyên tắc phổ
thông, tự do, trực tiếp và kín, nhiệm kỳ 3 năm. Nghị viện có những quyền hạn
quan trọng như: giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu
quyết ngân sách, bầu Ban thường vụ Nghị viện, bầu Chủ tịch nước, biểu quyết

chức danh Thủ tướng và danh sách các Bộ trưởng…Hiến pháp quy định Chính
phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, gồm Chủ tịch nước và nội
các. Nội các gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Chế định Chủ tịch
nước theo Hiến pháp năm 1946 có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà
nước, vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu Chính phủ (cơ quan
hành pháp cao nhất), là nghị viên của Nghị viện nhân dân, được Nghị viện bầu,
nhưng lại có quyền ban hành sắc lệnh có giá trị gần như luật, có quyền yêu cầu
Nghị viện thảo luận và biểu quyết lại dự luật của nghị viện đã thông qua; Chủ tịch
nước còn là tổng chỉ huy quân đội…Chủ tịch nước có quyền hạn rất rộng lớn,
nhưng "không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ tội phản quốc" (Điều 50 Hiến
pháp 1946).
Hiến pháp còn quy định về 4 cấp chính quyền địa phương là cấp bộ, tỉnh (thành
phố, thị xã), huyện và xã. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương tổ chức hai loại cơ
quan là: Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban hành chính (UBHC), trừ cấp bộ và
huyện chỉ có UBHC .
Các cơ quan tư pháp theo Hiến pháp năm 1946 gồm: Toà án tối cao, các tòa án
phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
- Chương VII: sửa đổi Hiến pháp.
C. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 1946:
- Là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà và cũng là bản Hiến pháp
đầu tiên của một Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân ở Đông Nam châu Á.
Hiến

pháp đã ghi nhận thành quả đấu tranh của nhân dân ta giành độc lập, tự
do cho dân

tộc, lật đổ chế độ thực dân-phong kiến ở nước ta. Đây là sự kiện
đánh dấu sự "đổi đời"

của đất nước và của nhân dân ta.

- Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy định

mang tính tiến bộ, tính nhân văn sâu sắc.
- Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt
động của một "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự sáng
tạo ra

một hình thức chính thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế định Chủ
9
tịch nước phù

hợp với điều kiện chính trị-xã hội rất phức tạp ở nước ta giai đọan
này.
Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được Hiến
pháp 1946 quy định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
II. Hiến pháp năm 1959
A. Hoàn cảnh ra đời:

- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã phải ký Hiệp
định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng đất
nước còn

tạm chia làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này
là: xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Hiến pháp năm 1946 "đã

hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình
mới và nhiệm vụ cách mạng mới


hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy,
chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy".

(Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi năm 1959).
- Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc
sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí

Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân
thảo luận, đóng

góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày
31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến

pháp này.
B. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959 :
Hiến pháp 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 điều, chia thành 10 chương.
- Chương I " Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" quy định về hình thức
chính thể của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân, xác
định tất

cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp khẳng định
nước Việt nam

là một khối thống nhất không thể chia cắt, khẳng định nguyên
tắc bình đẳng và đoàn


kết dân tộc…
- Chương II "Chế độ kinh tế và xã hội" là chương mới so với Hiến pháp năm
1946, trong đó quy định về đường lối chính sách phát triển kinh tế, các hình
thức sở

hữu ( của Nhà nước, tập thể, của người lao động riêng lẻ và của nhà
tư sản dân tộc),

về chính sách của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế…
- Chương III "Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân". Ở chương này, Hiến
pháp năm 1959 đã kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1946
về các

quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định những quyền và
10
nghĩa vụ mới

như : quyền người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già
yếu, bệnh tật, hoặc mất

sức lao động (Điều 32), quyền tự do nghiên cứu khoa
học, sáng tác văn học nghệ thuật

(Điều 34), quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29),
nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản

công cộng (Điều 46)…
Từ chương IV đến chương VIII quy định về tổ chức bộ máy Nhà nước :

Quốc

hội, Chủ tịch nước, Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uy ban hành
chính địa phương các cấp, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. So với
Hiến

pháp năm 1946, bộ máy Nhà nước có những điểm mới cơ bản là: Hiến
pháp quy định

4 cấp chính quyền ( trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã),
các đơn vị hành chính

nói trên đều tổ chưc HĐND và UBHC , các cơ quan dân
cử được đề cao, được xác

định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở mỗi cấp;
UBHC cấp nào do HĐND cấp đó bầu

ra. Chế định Chủ tịch nước tách khỏi
Chính phủ, quyền hạn của Chủ tịch nước hạn

chế hơn rất nhiều so với Hiến
pháp năm 1946 ( không còn quyền đứng đầu Chính phủ,

không còn quyền ban
hành sắc lệnh, quyền yêu cầu Quốc hội thảo luận và biểu quyết

lại dự luật đã
thông qua, không là tổng chỉ huy quân đội, chỉ thống lĩnh các lực lượng


trang…). Hiến pháp 1959 quy định thành lập hệ thống Tòa án tương ứng với

cấp chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên, do cơ quan dân cử cùng
cấp bầu; quy

định thành lập hệ thống Viện kiểm sát độc lập, theo nguyên tắc
tập trung thống nhất

để thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật và
công tố…
C. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 1959
- Hiến pháp năm 1959 ghi nhận thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất
nước của nhân dân ta, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam
(tức Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay) trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
- Hiến pháp năm 1959 là Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta, đặt cơ sở
pháp lý nền tảng cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Hiến pháp năm 1959 là cương lĩnh đấu tranh để thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà ( Xem: Tìm hiểu Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. NXB Sự
thật, Hà Nội, 1976, tr.35-45).
III. Hiến pháp năm 1980
11
A. Hoàn cảnh ra đời:
- Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra
một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử
lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống
nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976 đến 3/7/1976),
Quốc hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về
việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 vị

do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch.
- Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương, Dự thảo Hiến pháp đã được lấy ý
kiến, thảo luận trong cán bộ và nhân dân. Ngày 18/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc
hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp 1980 được xây
dựng và thông qua trong không khí hào hùng và tràn đầy niềm tự hào dân tộc sau
Đại thắng mùa xuân 1975, với tinh thần "lạc quan cách mạng" và mong muốn
nhanh chóng xây dựng thắng lợi CNXH tiến tới CNCS ở nước ta, nên không tránh
khỏi các quy định mang tính chủ quan, duy ý chí và quan niệm giản đơn về CNXH
của bản Hiến pháp này.
B. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980:
Kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Hiến
pháp năm 1980 gồm Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
- Chương I của Hiến pháp quy định về chế độ chính trị của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam, trong đó xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước
chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới chủ nghĩa cộng
sản (Điều 2); lần đầu tiên Hiến pháp 1980 thể chế hóa chính thức vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội không chỉ trong Lời nói
đầu như Hiến pháp 1959, mà còn có một điều riêng quy định rõ về vấn đề này
(Điều 4)….
- Chuơng II quy định về chế độ kinh tế, trong đó quy định Nhà nước tiến hành
cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, thiết
lập và củng cố chế độ sở hữu XHCN nhằm xây dựng một nền kinh tế quốc dân
chủ yếu có hai thành phần là : kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh
tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể (Điều 18); Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân theo kế hoạch thống nhất (Điều 33)…
- Các chương III đến chương IV quy định về Văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ
thuật và về bảo vệ Tổ quốc XHCN.
12
- Chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Kế thừa và

phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 về các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1980 quy định thêm một số quyền mới
của công dân, như : quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội
(Điều 56), quyền học không phải trả tiền (Điều 60), khám bệnh và chữa bệnh
không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62). Về các nghĩa vụ của
công dân, Hiến pháp 1980 quy định thêm : công dân có nghĩa vụ tham gia xây
dựng quốc phòng toàn dân (Điều 77), nghĩa vụ tuân theo kỷ luật lao động, bảo vệ
an ninh chính trị, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội (Điều 78), nghĩa
vụ lao động công ích (Điều 80)…Do quan niệm giản đơn về CNXH, cũng như
bệnh chủ quan, duy ý chí khi thông qua Hiến pháp 1980, nên nhiều quyền của
công dân đề ra quá cao, không phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế
- xã hội và vì thế các quyền này không mang tính khả thi.
- Từ chương VI đến chương X quy định về bộ máy Nhà nước . Tổ chức bộ máy
Nhà nước theo Hiến pháp 1980 mang đậm dấu ấn của quan điểm về quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động. Quan điểm này được xem như sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ nội dung và tinh thần các quy định của Hiến pháp này, nhưng
ảnh hưởng mạnh mẽ và rõ nhất là tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Đó là việc áp dụng chế độ làm việc tập thể trong hoạt động của các cơ quan Nhà
nước không chỉ các cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND ), mà còn cả nguyên thủ
quốc gia cũng là tập thể (bỏ chế định Chủ tịch nước, thiết lập chế định Hội đồng
Nhà nước được quy định là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc
hội và là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCN Việt Nam), các cơ quan chấp hành
và điều hành ở trung ương (Hội đồng Bộ trưởng) cũng như ở địa phương (UBND)
đều làm việc theo chế độ tập thể. Hiến pháp 1980 đề cao một cách quá mức vai
trò, thẩm quyền của các cơ quan dân cử ở trung ương và địa phương, như :
Quốc hội có quyền tự "định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét
thấy cần thiết"; "HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương", " quyết
định các chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng và phát triển địa phương về mọi
mặt"…
C. Ý nghĩa của Hiến pháp 1980:

Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng Hiến pháp 1980 vẫn có ý nghĩa quan
trọng trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
- Hiến pháp 1980 Hiến pháp của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thống nhất,
Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
- Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành
13
quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể hiện
ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
- Hiến pháp 1980 thể chế hóa cơ chế " Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý".
IV. Hiến pháp năm 1992
A. Hoàn cảnh ra đời :
- Như trên đã trình bày, Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong
hoàn cảnh đất nước chan hoà khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa
xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp
của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 60-70 đã khẳng định
đây là thời kỳ xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH.
Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước.
Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và
phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại…, đặc biệt là đổi
mới về kinh tế.
- Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại, tháng
12/1988 Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu Hiến pháp 1980, bỏ
hết những câu chữ chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc…để thực
hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước vốn
là kẻ thù xâm lược và đã từng gây tội ác đối với nhân dân ta. Tiếp theo, để dân

chủ hóa đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị
trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30 tháng 6/1989 tại kỳ
họp thứ 5 nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sửa đổi 7 điều
Hiến pháp 1980 để quy định thêm công dân có quyền tự ứng cử làm đại biểu
Quốc hội, đại biểu HĐND; quy định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ
cấp huyện trở lên. Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Uỷ ban
sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp
1988
B. Nội dung Hiến pháp 1992:
- Hiến pháp 1992 bao gồm lời nói đầu, 147 điều trong 12 chương.
14
- Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" (điều 2). Trong chương V, các quyền
cơ bản của công dân được quy định, trong đó bao gồm quyền tự do ngôn luận
(điều 69), quyền tự do tôn giáo (điều 79), quyền bất khả xâm phạm về thân thể
(điều 71), quyền tự do đi lại và cư trú (điều 68), quyền tự do kinh doanh (điều
57), quyền tác giả (điều 60), và các quyền khác. Trong chương V cũng ghi rõ
rằng "Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất"
(điều 76).
- Hiến pháp 1992 được bổ sung vào ngày 25 tháng 12 năm 2001
C. Ý nghĩa của Hiến pháp 1992:
- Hiến pháp 1992 là Hiến pháp thể chế hóa đường lối đổi mới do Đảng đề
xướng và lãnh đạo, khẳng định quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng và kiên
định đi theo con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
- Hiến pháp 1992 là cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh đổi mới về kinh tế, đổi
mới hệ thống chính trị, thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân, cải

cách bộ máy Nhà nước , từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chương 4
Kết Luận
Hiến Pháp Việt Nam thể hiện một số đặc trưng cơ bản sau đây:
1. Tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc luôn luôn quyện chặt vào nhau
trong các thiết chế, chế định của nền lập hiến phù hợp với tình hình, nhiệm vụ
đấu tranh cách mạng của từng giai đoạn;
2. Nhiệm vụ xây dựng, kiến thiết nước nhà trên nền tảng dân chủ gắn liền với
giữ nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất và luôn được các bản
Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) thể hiện một cách đặc thù nhưng nhất
quán theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến";
3. Bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân theo hướng ngày càng mở
rộng trở thành chế định cơ bản lần lượt vươn tới, bao quát tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội theo đà phát triển ngày càng đi lên của xã hội;
15
4. Thể hiện định hướng nhất quán của nhà lập hiến trong việc xác định nguyên
tắc "tất cả quyền lực ở trong nước đều thuộc về nhân dân", để từ đó ấn định một
bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình của từng giai đoạn
phát triển, nhưng luôn nhất quán với chủ trương rất đúng đắn đã được định hình
ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên là "thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng
suốt của nhân dân" 1.
5. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội qua 4 bản Hiến pháp với nội dung quy định và các phương thức
thể hiện khác nhau, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử tương ứng khi
xây dựng và ban hành mỗi bản Hiến pháp
Tài liệu tham khảo
16
1. SGK .
2. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946

3. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959
4. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1980
5. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1992
6. Từ điển bách khoa toàn thư wikipedia,
17
18

×