Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.95 MB, 30 trang )

Nhóm thực hiện:
1. Nguyễn Thành Cương.
2. Nguyễn Thị Lưu.
3. Nguyễn Văn Thuần.

Sự suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay
bao gồm nhiều nguyên nhân như sự phá vỡ và mất
nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, sự
khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô
nhiễm môi trường, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và
các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp.
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng
một cách trực tiếp do việc phá hủy hay chia cắt,
nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong
đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các hoạt động
khác của con người. Dạng nguy hiểm nhất của
phá hủy môi trường và suy giảm đa dạng sinh
học là sự ô nhiễm.

Sự tác động của ô nhiễm môi trường đến sự
suy thoái đa dạng sinh học là rất lớn. Ô nhiễm
môi trường kéo theo sự suy giảm, nghèo kiệt
đa dạng sinh học ở các hệ sinh thái bị ô nhiễm.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do
thuốc trừ sâu, hóa chất và các chất thải công
nghiệp, chất thải sinh hoạt của con người và
các ô nhiễm gây ra bởi các nhà máy, ô tô, cũng
như các trầm tích lắng đọng do sự xói mòn đất
từ các vùng cao, sườn núi.


1. Ô nhiễm do sử dụng thuốc trừ sâu:

Sự nguy hại của thuốc trừ sâu được
khuyến cáo từ những năm 1962. Nồng độ
của DDT và các loại thuốc trừ sâu khác
tích luỹ trong cơ thể sinh vật, tăng lên
theo bậc cao dần của chuỗi thức ăn thông
qua quá trình tích tụ sinh học và khuếch
đại sinh học

Lạm dụng quá nhiều thuốc trừ sâu và phân bón.
Việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu để phòng
trừ các loài côn trùng gây hại cho cây trồng và
phun vào nước để diệt các ấu trùng muỗi đa
làm hại tới những quần thể khác sống trong
thiên nhiên, đặc biệt đối với những loài chim
ăn côn trùng, cá và các loại động vật khác bị
ảnh hưởng bởi DDT hay các sản phẩm bán
phân hủy của chúng.
VD: Khi nồng độ thuốc trừ sâu có độ độc lớn
tích luỹ đến mức cao trong các tế bào cơ thể
chim, như các loài diều hâu hay ó, thì chúng
yếu đi và có xu hướng đẻ ra những quả trứng có
vỏ mỏng hơn bình thường, vỏ này dễ vỡ trong
quá trình ấp. Do vậy, trứng không thể nở thành
con non và quần thể loài chim suy giảm một
cách đáng kể
Tại các hồ và các cửa sông, dư lượng DDT
và các loại thuốc trừ sâu khác được tích luỹ lại
trong cơ thể các loại cá lớn như cá heo và các

động vật biển khác. Trên các khu vực canh tác
nông nghiệp, các loài côn trùng có ích hay các
loài có nguy cơ bị tuyệt chủng cũng đều bị tiêu
diệt cùng với các côn trùng gây hại.
2. Ô nhiễm nước:

Ô nhiễm nước gây hậu quả xấu cho loài người như
hủy hoại các nguồn thực phẩm thủy sản như cá, ốc,
hến và làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Tương tự
như vậy, ô nhiễm nước còn gây tác hại to lớn cho các
quần xã sống dưới nước. Sông, hồ và đại dương
thường xuyên được sử dụng như một bãi thải các chất
thải công nghiệp, chất thải dân dụng. Thuốc trừ sâu,
thuốc trừ cỏ dầu thải, dầu bị rò rỉ, kim loại nặng, các
chất tẩy rửa có thể làm tổn thương hay giết chết các
sinh vật thủy sinh sống trong môi trường nước.
Ô nhiễm nguồn nước.
Ô nhiễm nặng gây chết cá ở sông hồ.

Nếu như các chất thải được chôn lấp vào khu vực của
hệ sinh thái trên cạn chỉ gây tác động cục bộ tại một
địa điểm nhất định, thì các chất thải độc hại vào môi
trường nước lan toả đi xa theo dòng chảy và lan rộng
trên một diện tích lớn. Các hóa chất độc, dù chỉ với
một liều lượng rất thấp thì dư lượng của chúng vẫn có
thể tồn đọng, tích luỹ dần vào trong cơ thể sinh vật
thủy sinh đến nồng độ gây chết do chúng phải lọc một
lượng lớn nước khi ăn. Các loài chim và thú ăn thịt
các sinh vật này sẽ là đối tượng tích luỹ các hóa chất
độc vào cơ thể của chúng.


Các khoáng chất vi lượng tuy rất cần cho cuộc sống
của động vật và thực vật nhưng chúng cũng có thể gây
hại khi xuất hiện ở nồng độ cao. Các chất thải của
người, các loại phân bón hóa học, các chất tẩy rửa và
các quá trình sản xuất trong công nghiệp thường
xuyên thải ra một lượng lớn nitrat, photphat vào hệ
sinh thái thủy vực, dẫn đến hiện tượng phú dưỡng
nước. nitrat và photphat với nồng độ cao sẽ gây ra sự
nở hoa của các loài tảo sống trên bề mặt nước.
Sự nở hoa của các loài tảo này có thể rất dày đặc đến
mức lấn chiếm cả các loài động, thực vật nổi và che
khuất những loài sống dưới tầng đáy. Khi lớp tảo bề
mặt quá dày, phần dưới của chúng sẽ bị chết và chìm
xuống đáy.
Số lượng vi khuẩn và nấm phân hủy lớp xác
tảo này sẽ tăng lên với cấp số nhân do nguồn
dinh dưỡng mới được cung cấp thêm, hậu quả
là chúng hấp thụ hầu hết lượng oxy hoà tan
trong nước. Thiếu oxy, hầu hết các loài động
vật sẽ chết. Kết quả quần xã bị suy giảm, chỉ
còn sót lại những loài thích nghi được với điều
kiện nước bị ô nhiễm hay nước có lượng oxy
hoà tan thấp.
3.Ô nhiễm không khí:
Các hoạt động của con người làm thay đổi và
làm ô nhiễm bầu không khí của trái đất. Các dạng
ô nhiễm không khí như:

Mưa axít: nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là

than hay dầu đa thải ra một lượng lớn các khí
NOx, SOx vào không khí, các khí này khi gặp
hơi nước trong không khí sẽ tạo ra axit nitric
và axit sulfuric. Các axit này liên kết với
những đám mây và khi tạo thành mưa làm
giảm độ pH của nước mưa xuống rất thấp.
Mưa axit sẽ làm giảm độ pH của đất và của
nước trong các hồ, ao, sông suối trên lục địa.
Rừng cây bị tàn phá bởi mưa axit
cá chết do độ axit trong hồ tăng
Mưa axit đã tiêu diệt nhiều loài động và thực
vật. Do độ axit của các hồ ao tăng lên, nhiều
cá con của nhiều loài cá và cả những con cá
trưởng thành cũng bị chết.
Độ axit tăng và nước bị ô nhiễm là nguyên
nhân chính làm suy giảm đáng kể các quần thể
động vật lưỡng cư trên thế giới. Đối với phần
lớn các loài động vật lưỡng cư, ít nhất một
phần trong chu kỳ sống của chúng phụ thuộc
vào môi trường nước, độ pH của nước giảm
làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết tăng
cao.

Sương mù quang hoá: Xe ô tô, các nhà máy
điện và các hoạt động công nghiệp thải ra các
khí hydrocacbon, khí NO. Dưới ánh sáng mặt
trời, các chất này tác dụng với khí quyển và
tạo ra khí ozon và các chất phụ phẩm khác, tất
cả khí này được gọi chung là sương mù quang
hóa (photo-chemical smog).

Nồng độ ozon cao ở tầng khí quyển gần mặt
đất sẽ giết chết các mô thực vật, làm cho cây
dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần xã sinh
học, giảm năng suất nông nghiệp. Các quần xã
sinh học trên toàn cầu cũng có thể bị phá hủy
hay bị thay đổi do các hợp chất chứa nitơ trong
không khí theo mưa và bụi lắng đọng tự do và
do đó có thể ảnh hưởng đến nguồn sản xuất
lương thực và thực phẩm.

Các kim loại độc hại: xăng có chứa chì, các
hoạt động khai mỏ, luyện kim và các hoạt động
công nghiệp khác thải ra một lượng lớn chì,
thiếc và nhiều loại kim loại độc hại khác vào
khí quyển. Các hợp chất này trực tiếp gây độc
cho cuộc sống của động và thực vật.
Ô nhiễm không khí do hoạt động của con người

×