Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận đề tài: tìm hiểu về thông đỏ ( taxus wallichiana zucc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.83 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
KHOA DƯỢC
 0 
TIỂU LUẬN
Đề tài:
TÌM HIỂU VỀ THÔNG ĐỎ
(Taxus wallichiana Zucc)
Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện
PGS.TS Nguyễn Viết Thân Châu Thị Hà My
Lớp D
3A
Huế, tháng 4/2013
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây thông đỏ đã được biết đến từ rất lâu trong dân gian như một loại dược liệu
quý. Trong y học cổ truyền Ấn Độ, lá và vỏ thông đỏ được dùng trị hen, viêm phế quản,
tiêu hoá , cành và vỏ dùng trị bệnh thực tích, giun đũa, nước sắc của thân non dùng trị
bệnh đau đầu…Trong y học dân gian Trung Quốc, thông đỏ có tác dụng tiêu ích, thông
tim mạch, giảm đau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, thông đỏ dùng để trị bệnh tim và gỗ cây thông đỏ
được dùng để trị bệnh tiểu đường.
Năm 1967, Monroe E. Wall Mansukh C. Wani phân lập từ thông đỏ (Taxus
Brefolia) chất paclitaxel. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ phát hiện hoạt chất này có tính năng
cản trở việc phân hủy bình thường của vi ống, ổn định vi ống, từ đó ức chế phân bào.
Công ty Bristol Myers Squibb đã dùng hoạt chất trên chế ra thuốc có tên thương mại là
taxol. Năm 1992, FDA chính thức phê duyệt dùng taxol điều trị ung thư buồng trứng, vú,
phổi và ung thư cổ tử cung. Trong 10 năm, BMS thu về khoảng 11 tỷ USD từ taxol.
Chất docetaxel chiết từ thông đỏ (Taxus wallichiana) tương tự paclitaxel, ít độc
hơn. Công ty Sanofi -Aventis Pháp chế ra thuốc trị các ung thư trên với tên thương mại
taxotere. Taxotere có hiệu lực với cả ung thư vú di căn, không đáp ứng với hóa trị
anthracyclin, còn được châu Âu dùng trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Doanh số trên
dưới 2 tỷ USD/năm.
Mới đây, cũng từ thông đỏ, các nhà khoa học đã chế ra phẩm sinh học thế hệ mới


như herceptin cho ung thư vú, cimavax-egf cho ung thư phổi, song còn hạn chế và chưa
phổ biến. Giá thuốc, giá xét nghiệm khá cao, khó phù hợp với số đông người bệnh. Do
vậy với các ung thư trên, đến thời điểm này, hóa trị bằng taxol, taxotere vẫn giữ vị trí
chủ lực. Tại Việt Nam, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, năm 2006 đã chi 19 tỷ đồng mua
các biệt dược này.
Hiện nay, taxol, taxotere đã hết hạn bảo hộ độc quyền. Việc sản xuất hai thuốc
generic từ thông đỏ đang là nhu cầu được đặt ra đối với nhiều nước, trong đó có nước ta.
Triển vọng thông đỏ ở nước ta là vô cùng to lớn. Thông đỏ Việt Nam là Taxus
wallichiana Taxaceae, cùng loại và có hàm lượng hoạt chất cao như thông đỏ Pháp mà
Sanofi Aventis dùng sản xuất taxotere. Hiện thông đỏ được phân bố ở các vùng như TP.
Đà Lạt (Lâm Đồng)… trên độ cao 1.700m nhưng rất thưa thớt.
Theo nhận định của TS. Dương Tấn Nhật, Phân viện phó Phân viện Sinh học Đà
Lạt thì “giá trị của cây thông đỏ chỉ được khuấy động lên ngay thời điểm tìm thấy chúng
tại Việt Nam, nhưng cũng chỉ ở mức cảnh báo về nguy cơ tuyệt chủng, đặt vấn đề bảo tồn
chứ chưa nói đến phát triển” .Cách nay khoảng 5 năm, theo thống kê của ngành lâm
nghiệp, quần thể thông đỏ trưởng thành (hàng nghìn năm tuổi) ở Lâm Đồng còn khoảng
300 cây. Nhưng hiện nay, với những gì đã diễn ra liên quan đến quần thể thông đỏ cuối
cùng này, con số cá thể còn lại chưa đến vài chục cây.Muốn sản xuất thuốc generic taxol,
taxorete cầnlượng nguyên liệu lớn cây thông đỏ. Theo tính toán,từ 1250 kg vỏ thân đã
chiết xuất ra 28 kg cao toàn phần và 10 g Taxol tinh khiết.
Đây là một bài toán nan giải không chỉ với các ngành chức năng mà còn đối với
các nhà khoa học phải tìm ra phương pháp,quy trình công nghệ để bảo tồn,phát triển
nguồn gen quý giá này.
1. TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT
1.1.1 Mô tả thực vật
Tên khoa học: Taxus wallichiana Zucc.
Tên Việt Nam: Thông đỏ lá dài, sam hạt đỏ lá dài.
Giới (regnum) : Plantae
Ngành (divisio) : Pinophyta

Lớp (class) : Pinopsida
Bộ (ordo) : Pinales
Họ (familia) : Taxaceae
Chi (branch) : Taxus
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CÂY THÔNG ĐỎ (TAXUSWALLICHIANA ZUCC.)
Cây thân gỗ trung bình, lá xanh, cao đến 20m.
Thân có vỏ màu hồng xám, phân nhiều mảnh, khi non màu lục. Lá mọc so le, thường xếp
hai dãy như một lá kép, hình dải rất hẹp, dáng cong, dài 2.5 – 3.5 cm, rộng 2 – 3 mm, gốc
thuôn, đầu nhọn, mặt trên lõm như long thuyền, mặt dưới có hai dãy lỗ khí. Cụm hoa đơn
Hình 3: Thân thông đỏ
Hình 2: Gỗ thông đỏ Hinh 1: Lá thông đỏ
tính, khác gốc, nón đực và nón cái mọc ở kẽ lá. Quả hình trứng, vỏ cứng, có hạt, bao bọc
bởi áo màu đỏ để hở đầu.
Sự phân loại chi Taxus rất khó khăn và vẫn còn nhiều tranh cãi vì những câythuộc
chi Taxus rất giống nhau. Dưới đây là bảng phân loại của Krussmann (ngườiĐức) được
khá nhiều người chấp nhận.
Bảng 1: Phân loại chi Taxus
Tên thông thường Tên phân loại theo Krussmann
European yew hay English yew
Himalayan yew
Chinese yew
Japanese yew
Pacific yew
Mexiean yew
Florida yew
Canadian yew
Taxus baccata L.
T. wallichiana Zucc.
T. celebica (Warburg) Li
T. cuspidata Sieb. et Zucc.

T. brevifolia Nutt.
T. globosa Schlechtd.
T. floridana Nutt.
T. canadensis Marsh.
T. x media Rehd.
T. x hunnewelliana Rehd.
Ngoài ra, nhóm Chinese yew còn có Taxus chinensis Rehd., Taxus yunnanesis
Cheng et L. K. Fu, Taxus mairei (Lemee and Lev.) Hu ex Liu.
1.1.2. Phân bố, sinh thái
Hình 5: Quả và lá thông đỏ Hình 4: Quả và lá thông đỏ
Chi Taxus có 7-8 loài trên thế giới, phân bố rải rác ở vùng ôn đới ẩm, vùng cận
nhiệt đới và nhiệt đới núi cao bắc bán cầu. Ở Việt Nam chi Taxus có 2 loài là Taxus
chinensis thường gọi là “thông đỏ lá ngắn” và Taxus wallichiana Zucc. gọi là “thông đỏ
lá dài”.
Thông đỏ lá ngắn: phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam. Ở Việt
Nam, cây phân bố rải rác ở vùng núi thuộc tỉnh Lào Cai (Hoàng Liên Sơn), Hà Tây (Ba
Vì), Nghệ An (Quỳ Châu), Hòa Bình (Mai Châu), độ cao: 900 – 1600m.
Thông đỏ lá dài: phân bố ở Nepan (vùng núi Himalaya), phía bắc Myanmar, Đông
– Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippin và Việt Nam. Ở Việt Nam, loài này
cũng chỉ thấy ở một số vùng núi cao thuộc tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng (Đà Lạt, Đơn
Dương), Hà Giang (Thái An – Quản Bạ), độ cao phân bố từ 1400 – 1600m hoặc hơn.
Nhìn chung, cả hai loài thông đỏ đều thuộc cây gỗ cỡ trung bình, mọc rất rải rác
trong kiểu rừng kín thường xanh ẩm trên đỉnh núi đá vôi hay granit. Chúng được coi là
cây khỏa tử chịu bóng hoặc ưa sáng, thường mọc dưới tán một số cây gỗ thuộc các họ
Long não (Lauraceae), Mộc lan (Magnoliaceae), Hồi (Illiaceae)…
Thông đỏ thường ra lá non vào mùa Xuân – Hè, nón đực xuất hiện sớm hơn nón
cái từ cuối mùa đông, nhưng đến giữa mùa xuân năm sau cả nón đực và nón cái mới nở.
Thông đỏ sinh trưởng chậm, tái sinh tự nhiên từ hạt khó. Tuy vậy, nếu trên đỉnh núi có
vài cây to, vẫn có thể thấy những cây con mọc từ hạt. Vài năm gần đây, một số cơ sở
nghiên cứu ở Hà Nội và Đà Lạt đã thí nghiệm thành công việc nhân giống thông đỏ bằng

cành.
1.3. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
1.3.1. Thành phần hóa học có trong lá
Năm 1997, Nguyễn Hữu Toàn Phan và cộng sự đã công bố tách được haihợp chất
là 10-deacetylbaccatin III (1) và 19-hydroxybaccatin III (2)từ lá thôngđỏ (Taxus
wallichiana Zucc.) thu hái tại tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.[1]
Năm 2007, cũng từ lá thông đỏ (Taxus wallichiana Zucc.) thu hái tại tỉnhLâm
Đồng, Nguyễn Thị Thanh Tâm đã cô lập được bảy hợp chất:10-deacetylbaccatin III (1),
19-hydroxybaccatin III (2), taxinine B (3), taxuspine F(4), 10-deacetyltaxuspine F (5), p-
zydroxybenzaldehid(6),7-(β-xylosyl)-10-deacetyltaxol [1]
1.3.2. Thành phần hóa học có trong thân và rễ
Năm 1995, Sunil K. Chattopadhyay và cộng sự đã cô lập được 3 hợp chất là:
2-acetoxy-brevifoliol (7), 2-deacetoxy-5-decinnamoyltaxinine J (8) và2-
deacetoxytaxinine J (9). Ba hợp chất này cũng được tách ra từ lá năm 1999.[1]
Năm 1981, Miller R. W. và các cộng sự đã cô lập được 1β-hydroxybaccatin I(10);
taxol (12)từ thân cành và rễ của Taxus wallichiana.[1]
Taxol (paclitaxel), một alkaloid diterpenoid thiên nhiên từ vỏ cây(12)[7]
1.2. ĐỘC TÍNH VÀ TÍNH CHẤT DƯỢC LÝ
1.2.1. Độc tính
Cao nước lá thông đỏ, cho chuột cống trắng cái uống liều 100 và 500 mg/kg,trong
những ngày 1-7 sau khi giao hợp có tác dụng ức chế sự thụ thai 60% và 80% tương ứng.
Vỏ cây, lá và hạt thông đỏ có tác dụng độc như: nôn, tiêu chảy, mê sảng, có tác
dụng ức chế tim làm giảm lực co cơ tim, giảm nhịp tim và phong bế nhĩ thất do tác dụng
ức chế kênh natri và canxi.
1.2.2. Tác dụng dược lý theo kinh nghiệm dân gian
Thông đỏ là nguồn dược liệu rất quý trong y học. Từ lâu, trong y học cổ truyền Ấn
Độ, cao lá khô và cao vỏ thông đỏ được dùng trị hen, viêm phế quản, nấc, tiêu hoá ;
cành và vỏ dùng trị bệnh thực tích, giun đũa; nước sắc của thân non dùng trị bệnh đau
đầu
Trong y học dân gian Trung Quốc, thông đỏ được coi là có tác dụng tiêu ích,

thông tim mạch, giảm đau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân dùng để trị bệnh tim. Đặc biệt gỗ
cây thông đỏ được dùng để trị bệnh tiểu đường.
2. HIỆN TRẠNG:
Cách nay khoảng 5 năm, theo thống kê của ngành lâm nghiệp, quần thể thông đỏ
trưởng thành (hàng nghìn năm tuổi) ở Lâm Đồng còn khoảng 300 cây. Nhưng hiện nay,
với những gì đã diễn ra liên quan đến quần thể thông đỏ cuối cùng này, con số cá thể còn
lại chỉ rất ít.
Đang bị tàn phá nghiêm trọng.
Theo ông Hứa Vĩnh Tùng - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lâm sinh Lâm Đồng
(thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam) khẳng định: "Quần thể thông đỏ Taxus
wallichiana Zucc ở núi Voi có đường kính lớn nhất và số lượng nhiều nhất VN. Chúng ta
có nhiều loài thông đỏ, nhưng loài Taxus wallichiana Zucc chỉ có duy nhất ở Lâm Đồng
và có giá trị rất lớn trong y học". Ông Lê Xuân Tùng - Trưởng phòng Nghiên cứu khoa
học (Trung tâm Nghiên cứu lâm sinh Lâm Đồng), người có công trình khoa học nghiên
cứu về loài thông này trong nhiều năm, cho rằng: "Thông đỏ này sinh trưởng rất chậm
(đường kính 30cm phải mất 150 năm); cây rất quý, chất taxol chiết xuất từ loài cây này
có thể chữa được một số bệnh. Đây là loài cây đơn tính khác gốc, có cây đực cây cái
riêng, nếu bị chặt một trong hai thì khả năng tái sinh rất ít. Những cây cả ngàn năm tuổi
như thế này mà bị chặt hạ thì quả là kinh hoàng".
Do mê tín: Tin đồn người chết được chôn trong quan tài làm bằng thông đỏ sẽ rất
linh thiêng, phù hộ cho gia đình, , khiến bọn lâm tặc và người dân địa phương lẻn vào
quần thể thông đỏ quý hiếm nhất của Việt Nam để cưa xẻ cây quý.
Các cơ quan chức năng không quan tâm
Dù tất cả những lý lẽ, lập luận đều rất chặt chẽ và thuyết phục để thấy sự cần thiết
về việc hình thành vùng nguyên liệu thông đỏ tại Việt Nam, nhưng cho đến nay vấn đề
này vẫn không thu hút được sự quan tâm của nhà nước cũng như các bộ chủ quản có liên
quan đến loại cây này.
Theo TS Dương Tấn Nhật, Phân viện phó Phân viện Sinh học Đà Lạt, những giá
trị của cây thông đỏ chỉ được khuấy động lên ngay thời điểm người ta tìm ra nó tại Việt
Nam, nhưng cũng chỉ ở mức cảnh báo về nguy cơ diệt vong của loài cây này và đặt vấn

đề làm sao bảo tồn chứ không nói đến vấn đề phát triển, không xem đây là một vấn đề xã
hội.
Sau đó, thông đỏ gần như đã bị lãng quên. Những dự án về cây thông đỏ phần lớn
được các nhà khoa học tâm huyết thực hiện bằng những nguồn kinh phí chắp vá hoặc kêu
gọi tài trợ với nguồn kinh phí hỗ trợ rất ít ỏi từ các tổ chức khoa học, chưa có bất cứ một
chương trình nào lấy nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước.
3. GIẢI PHÁP:
TS Dương Tấn Nhật cho biết: Cho đến nay, Phân viện Sinh học Đà Lạt đã nghiên cứu
thành công nhiều chương trình liên quan đến cây thông đỏ như: nhân giống hữu tính, vô
tính; nuôi cấy tế bào thông đỏ…Các nhà khoa học tâm huyết đã nghiên cứu thành công
nhiều vấn đề hữu ích để nhân rộng và phát triển cây thông đỏ.
Bằng phương pháp cấy mô, các nhà khoa học của Viện công nghệ sinh học và thực
phẩm, ĐH Công nghiệp TP HCM vừa nhân giống thành công cây thông đỏ.
Nhóm đã tạo ra được cây con có rễ. Tiến sĩ Đàm Sao Mai cho biết, tỷ lệ nhân giống tự
nhiên của cây thông đỏ rất thấp, chỉ khoảng 0,1% vì cây có trái nhưng không có hạt.
Viện Công nghệ sinh học – thực phẩm là nời đầu tiên trong cả nước tạo ra được
cây thông đỏ con có rễ. Số lượng cây thông đỏ ở Việt Nam hiên nay còn rất ít, đây là một
trong những giống cây quý hiếm cần được bảo tồn.
Tiến sĩ Mai cho biết thêm, Viện đã hợp tác với một số nơi để phát triển cây thông đỏ
này.
Nhiều đề tài nghiên cứu thông đỏ được triển khai điển hình như:
Đề tài:
Bùi Thị Tường Thu, Trần Văn Minh
PTNTĐ phía Nam về CNTBTV, Viện Sinh học Nhiệt đới- Hội nghị KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ 2007
NGHIÊN CỨU NUÔI CẤY PHÁT SINH VÀ TÁI SINH
PHÔI somaTHÔNG ĐỎ (Taxus wallichiana Zucc) in vitro.
Cây thông đỏ dòng Taxus sp. var wallichiana (Zucc.) Hook là loài cây b ản địa của
Việt Nam, còn sót lại không quá 16 cây tại Cao nguyên lâm viên Liang Biang, có đường
kính thân trên 75cm, là loài cây sinh trưởng chậm. Bảo tồn và phát triển cây thông đỏ Đà

Lạt là một yêu cầu cấp thiết đối với loài cây quý hiếm có giá trị chiết xuất taxol phòng
chống bệnh ung thư. Phương thức nhân giống truyền thống hiện nay l à gieo hạt hoặc
giâm cành hoặc ghép cành (Ho, 1998). Tuy nhiên, hạt mau mất sức nẩy mầm và số lượng
hạt cho một mùa trái rất thấp; hơn nữa cây giâm cành thường có hiện tượng sinh trưởng
chậm và ngã nghiêng (plagiotropically) và không thẳng đứng (Chang etal, 2001). Nuôi
cấy vi nhân giống cây thông đỏ dòng Taxus media và Taxus mairei đó được ghi nhận
trong những năm gần đây (Cerdeira, 1994; Chang etal, 1998), tuy nhiên cây con in vitro
sinh trưởng chậm và bảo lưu cục bộ tính ngả nghiêng. Nuôi cấy phôi soma là một kỹ
thuật nuôi cấy in vitro để vượt qua khả năng nẩy mầm kém của hạt giống và hạn chế vấn
đề sinh trưởng chậm cây con in vitro nhất là đối với cây thân gỗ lá kim (Gupta & Durzan,
1987). Kết hợp kỹ thuật nuôi cấy phát sinh, tái sinh phôi soma và dòng hóa in vitro sẽ
hạn chế ở mức thấp nhất tính bảo lưu ngả nghiêng cục bộ bằng kỹ thuật vi nhân giống
nâng cao hiệu suất nhân nhanh cây thông đỏ invitro (Amos & McCown, 1981; Chee,
1995)
Vật liệu
Vật liệu được đưa vào nuôi cấy phát sinh tế bào soma là thân và lá cây thông đ ỏ
đã được dòng hóa in vitro. Tế bào soma thu nhận được qua nuôi cấy từ thân được đưa
vào nghiên cứu nuôi cấy tăng sinh trên môi trường agar và lỏng. Dịch huyền phù thu
nhận được sau 6 tuần nuôi cấy được xác định mật độ và được sử dụng trong nuôi cấy
phát sinh và tái sinh phôi soma. Mục tiêu của thí nghiệm là tìm môi trường thích hợp cho
nuôi cấy phát sinh tế bào soma và khả năng tăng sinh khối.
Kết quả
Môi trường nuôi cấy cơ bản có bổ sung TDZ thích hợp cho nuôi cấy tăng sinh tế
bào soma trên môi trường agar và môi trường lỏng; tổ hợp chất điều h òa sinh trưởng
TDZ+ABA bổ sung vào môi trường nuôi cấy thích hợp cho phát sinh v à tái sinh phôi
soma.[5]
Theo TS Nhật, cho đến nay, chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ về việc nhân giống
bằng phương pháp vô tính giâm hom. Việc trồng trọt, nghiên cứu điều kiện sinh thái cho
cây phát triển cũng đã được Trung tâm Nghiên cứu lâm sinh Lâm Đồng thực hiện với 3ha
thông đỏ được trồng ở trại thực nghiệm Mang Linh. Đây là một điều kiện rất tốt để Việt

Nam có thể hình thành và phát triển thông đỏ thành vùng nguyên liệu quý giá.[4]
4.KẾT LUẬN:
Thông đỏ là một nguồn nguyên liệu vô cùng quý giá và khả năng tái sinh hẹp nên
chúng ta cần phải có những biện pháp bảo tồn nguồn gen này 1 cách hợp lí, cần tiến hành
đa dạng các biện pháp nuôi cấy tế bào đơn, nhân giống bằng phương pháp vô tính… để
thu được những sản phẩm thứ cấp có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu cuộc sống cũng
như việc sử dụng Taxol để điểu trị ung thư (từ thông đỏ).
Thời gian gần đây ở xã Hiệp Thạnh (Đức Trọng) và vùng lân cận bỗng râm ran
những lời đồn: các tác phẩm nghệ thuật được điêu khắc bằng gỗ thông đỏ sẽ mang lại
nhiều may mắn cho người sở hữu, đặc biệt người chết được chôn trong quan tài làm bằng
thông đỏ sẽ rất linh thiêng phù hộ cho gia đình, dòng họ khoẻ mạnh, phát tài phát lộc,
tránh được tai ương,…các tin đồn thất thiệt này khiến bọn lâm tặc và người dân địa
phương lẻn vào quần thể thông đỏ quý hiếm nhất của Việt Nam thuộc khu vực núi Voi
(Hiệp Thạnh) hiểm trở để cưa xẻ cây quý. Do đó các cơ quan có chức năng cần có biện
pháp bảo vệ chặt chẽ nguồn gỗ quý này.
Giá trị của cây thông đỏ là không thể bàn cải nhưng thông đỏ đang đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng rất cao, vậy nên mỗi người trong chúng ta phải có ý thức bảo vệ
nguồn gen quý cũng như phát triển nó nhiều lên. Do vậy cần có sự đồng thuận, hỗ trợ và
chung tay góp sức của nhiều người cũng như các ngành chức năng có liên quan đến việc
bảo tồn cũng như phát triển quy mô lớn với loại cây này.
Đối với chính quyền địa phương:
- Tuyên truyền cho người dân hiểu được hết giá trị to lớn của loài cây quý hiếm này.
- Khuyến khích đinh canh định cư, hạn chế việc định canh định cư để tránh việc đốt rừng
làm nương rẫy.
- Giao đất, giống cây về cho người dân phát triển ở nơi mình đang sinh sống.
- Có chính sách ưu tiên trong việc thu mua lại cây thông đỏ cho người dân khi thu hoạch
cũng như ưu tiên đối với người trồng nó.
Đối với các cơ quan chức năng nhà nước:
- Triển khai việc nhân giống cây thông đỏ bằng cách chiêt, dâm cành hoặc nuôi cấy mô.
- Lập ra tổ chức bảo vệ, bảo tồn và nhân giống cây thông đỏ.

- Kiến nghị lên cơ quan cấp trên đưa thông vào loài được bảo tồn với nguy cơ cao nhất.
- Muốn sản xuất thuốc generic taxol, taxorete cần lượng nguyên liệu lớn và nhà máy chiết
xuất quy mô không nhỏ. Dù có lợi thế đi sau, tránh được vấp váp mò mẫm, thì cũng phải
có một dự án tầm cỡ cấp nhà nước với kinh phí lớn có nhiều bộ, ngành tham gia. Không
như vậy thì dù có tâm huyết đến mấy cũng không thể làm được. Giải bài toán khó này
phải chờ quyết sách của các nhà quản lý.
Đối với người dân địa phương:
- Có ý thức bảo vệ tài nguyên quôc gia, không nên chặt phá bữa bãi cây thông đỏ cũng như
đốn hạ khi chưa được phép của địa phương.
- Nhận giống cây thông đỏ về trồng ở địa phương nơi mình sinh sống
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]TRẦN THỊ THU HIỀN. Nghiên cứu thành phần hóa học của rễ cây thông đỏ (Taxus
wallichiana Zucc.) họ Thanh tùng (Taxaceae). – TP.HCM. : Đại học Khoa học Tự nhiên,
2012.
[2] hp://en.wikipedia.org/wiki/Taxus_wallichiana
[3]Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, tập 9, số 5-2006
[4] />thanh-cong-loai-thong-chua-chat-tri-ung-thu.aspx
[5]Bùi Thị Tường Thu, Trần Văn Minh
PTNTĐ phía Nam về CNTBTV, Viện Sinh học Nhiệt đới- Hội nghị KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ 2007
[6]hp://suckhoedoisong.vn/2011072510038589p-1c19/bien-thong-do-thanh-than-
duoc-kho-hay-de.htm
[7] hp://en.wikipedia.org/wiki/Paclitaxel

×