Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

đối chiếu câu bị động trong tiếng anh và tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.66 KB, 22 trang )

.
HaNoi Open University
HaNoi Open University
Faculty Of English
Faculty Of English

.
TÊN MÔN HỌC:

NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
TÊN ĐỀ TÀI:

ĐỐI CHIẾU CÂU BỊ ĐỘNG
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Phạm Tất Thắng

Hà Nội 2013
Page 1

Mục lục
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài………………………………………….4
2. Mục đích nghiên cứu…………………………………… 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………… 5
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………5
5. Bố cục…………………………………………………….5
Chương 1: Cơ sở lí luận
1.1 Khái niệm……………………………………………….6
1.1.1 Khái niệm về ngôn ngữ học đối chiếu……… 6
1.1.2 Khái niệm về ngôn ngữ học so sánh…………6
1.2 Lịch sử hình thành………………………………………7


1.2.1 Giai đoạn 1……………………………………7
1.2.2 Giai đoạn 2……………………………………8
1.2.3 Giai đoạn 3……………………………………8
Chương 2: Mô tả câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt.
2.1 Quan niệm về câu bị động trong
trong tiếng Anh và tiếng Việt……………………………9
2.1.1 Khái niệm về câu bị động
trong tiếng Anh……………………………… 9
2.1.2 Khái niệm về câu bị động
Page 2
trong tiếng Việt…………………………………9
2.1.3 Chức năng dụng học của câu bị động………….13
2.2 Một số dạng câu bị động điển hình
trong tiếng Anh và tiếng Việt………………………………14
Chương 3: Sự tương đồng và khác biệt trong câu bị động
của tiếng Anh và tiếng Việt.
3.1 Sự tương đồng…………………………………………….17
3.2 Sự khác biệt………………………………………………18
3.2.1 Theo khía cạnh các yếu tố ngôn ngữ……………… 18
3.2.2 Yếu tố ngoài ngôn ngữ………………………………19



Page 3
Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương thức giúp con người truyền tải thông tin với nhau
trong cuộc sống. Nó đa dạng và biến hóa vô vàn dựa trên các lối nói
khác nhau và cách suy nghĩ của từng người. Từ một câu, người nói có
thể dùng nhiều cách khác nhau để truyền tải tới người nghe như cách

nói trực tiếp, cách nói gián tiếp… Trong bài tiểu luận này, tôi muốn đề
cập tới một lối nói khác “ cách nói bị đông”. Đây được coi là một trong
những đề tài mà rất nhiều nhà ngôn ngữ học đã và đang nghiên cứu.
Trong bài nghiên cứu này tôi chỉ trình bày một khía cạnh xoay quanh
dạng câu bị động trong tiếng Việt đồng thời so sánh đối chiếu câu bị
động trong tiếng Anh.
2. Mục đích nghiên cứu.
Thế giới ngày tiến bộ, đất nước Việt Nam nói riêng đang trên đà phát
triển. Vì vậy việc hội nhập và tiếp nhận những điều mới mẻ bổ ích là rất
quan trọng. Hiện nay, tiếng Anh được coi là ngôn ngữ của toàn cầu,vì
vậy nhu cầu học và dạy tiếng anh ngày càng tăng lên. Mục đích chọn đề
tài “ so sánh và đối chiếu cách nói bị động trong Tiếng Anh và Tiếng
Việt” nhằm giúp những người học và dạy ngoại ngữ nhận thấy sự khác
biệt, hệ thống hóa kiến thức và cách dụng dạng bị động trong tiếng Anh
tiếng Việt cho người sử dụng ngôn ngữ,đặc biệt là sinh viên chuyên
ngành tiếng Anh.
Trong cùng một văn bản và văn cảnh thực hiện phát ngôn qua đố rút
ra một số kết luận về điều kiện sử dụng dạng bị động một cách linh hoạt
về cấu trúc ngữ pháp và logic ngữ nghĩa, đồng thời đưa ra một số dạng
thức ngôn ngữ đặc biệt được quy về dạng bị động trong tiếng Anh.
Page 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tôi chỉ tìm ra sự giống và khác nhau của
câu bị động, các loại câu bị động trong tiêng Anh và tiếng Việt nói
chung và minh họa bằng cách chỉ ra ví dụ trích đoạn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin dữ liệu.
- Phân tích tổng hợp so sánh đối chiếu.
5. Bố cục tiểu luận
Bố cục:

- Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Khái niệm.
1.1.1 Khái niệm ngôn ngữ học đối chiếu.
1.1.2 Khái niệm ngôn ngữ học so sánh.
1.2 Lịch sử hình thành
Qua 3 giai đoạn:
+1.2.1 Giai đoạn thứ nhất.
+ 1.2.2 Giai đoạn thứ hai.
+ 1.2.3 Giai đoạn thứ ba.
- Chương 2: MÔ TẢ CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG
ANH VÀ TIẾNG VIỆT.
2.1 Quan niệm câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt.
2.2 Một số dạng bị động điển hình trong tiếng Anh và tiếng
Việt.
- Chương 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CÂU
BỊ ĐỘNG CỦA TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1 Sự tương đồng.
3.2 Sự khác biệt.
Page 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong quá trình sử dụng ngoại ngữ và dịch thuật, văn bản là công cụ
không thể thiếu. Hiện nay, các thể loại văn bản Tiếng Việt và Tiếng
Anh đang được sử dụng nhiều nhất trong giao tiếp. Ngữ pháp văn bản
Tiếng Việt và Tiếng Anh là mục tiêu và đối tượng cần chú ý nhất trong
quá trình dạy và học tiếng Anh, cũng như dịch thuật Anh – Việt và Việt
– Anh.
1.1 Khái niệm.
1.1.1 Khái niệm ngôn ngữ học đối chiếu.
Ngôn ngữ học đối chiếu còn có tên gọi khác là phân tích đối chiếu
hay nghiên cứu đối chiếu.

Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành của ngôn ngữ học,
nghiên cứu so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định
những điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ đó, không tính đến
vấn để các ngôn ngữ đó có quan hệ nguồn gốc hay thuộc cùng một loại
hình hay không.
1.1.2 Khái niệm về ngôn ngữ học so sánh.
Ngôn ngữ học so sánh ra đời do trường phái ngôn ngữ học Praha đề
xướng vào năm 1924. Từ đó đến nay, nó phát triển khá mạnh ( vào năm
1950, 1960) phát triển mạnh vào châu Âu. Ngôn ngữ học so sánh chủ
yếu tìm sự giống và khác nhau giữa ngôn ngữ, tập trung vào tìm hiểu
nguồn gốc.
1.2 Lịch sử hình thành
1.2.1 Giai đoạn thứ nhất
Page 6
Ngôn ngữ học so sánh phát triển mạn mẽ vào cuối thế kỉ thứ 19.
Nhiệm vụ của nó giai đoạn này là xác định nguồn gốc và quá trình
phát triển của các ngôn ngữ thế giới.
Theo các nghiên cứu ban đầu, cần thiết phải có các tài liệu ngữ
pháp đối với các văn bản mang đặc tính chuyên ngành dưới dạng đối
chiếu giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học hoặc nghiên cứu tiếp
nhận một cách nhanh chóng các kiến thức tiên tiến bằng ngoại ngữ.
Hơn thế nữa, trên cơ sở ngữ pháp được học, người học có thể nâng
cao trình độ kiến thức chuyên môn bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình và
làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
Thực tế lịch sử phát triển của tri thức khoa học thể hiện một quá
trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ về
nghiên cứu đối chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển
biện chứng lịch sử đó.
Thuật ngữ "đối chiếu" thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc
phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ.

Mục đích của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là làm sáng tỏ những nét
tương đồng và không tương đồng hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét không
tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu
của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại.
Trong các tài liệu bằng tiếng Nga, thuật ngữ "đối chiếu ngôn
ngữ" (phương pháp đối chiếu, ngôn ngữ học đối chiếu) được đưa vào sử
dụng khá sớm bởi các nhà ngôn ngữ học như E.D.Polivanov (1933),
V.D.Arakin (1946), V.H.Jaxeva (1960), V.G.Gak (1961), N.P.Fedorov
(1961), O.C.Akanova (1966) và v.v. Từ 1970 đến nay, trong ngôn ngữ
Page 7
học hiện đại, thuật ngữ được sử dụng nhiều hơn cả là "ngôn ngữ học đối
chiếu" (contrastive linguistics).
1.2.2 Giai đoạn thứ hai
Vào thời điểm này nó có tên gọi là ngôn ngữ học so sánh loại hình.
Nhiệm vụ của nó là tìm và phân loại các ngôn ngữ phụ thuộc vào các đặc
điểm giống và khác nhau của cấu trúc ngôn ngữ và nó tìm ra những phổ
niệm( khái niệm) của các ngôn ngữ. Trong các tài liệu bằng tiếng Anh,
lúc đầu được phổ biến là thuật ngữ "so sánh" (comparative) với nội dung
đối chiếu. Từ năm 1960 trở về đây, thuật ngữ "ngôn ngữ học đối chiếu"
(contrastive linguistics) bắt đầu được sử dụng phổ biến, dần dần thay thế
cho thuật ngữ "so sánh" (comparative). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học
Anh, các thuật ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài.
Ví du, trong các công trình của Haliday, Mackintơn, Tơrevưn và
một số tác giả khác, thuật ngữ "so sánh" (comparative) vẫn được sử dụng
đến năm 1961, còn Elie đã dùng thuật ngữ "comparative" với nghĩa đối
chiếu cho đến năm 1966.
1.2.3 Giai đoạn thứ ba.
Vào giai đoạn này, nó được gọi là ngôn ngữ đối chiếu. Vào những
năm 50 của thế kỉ 20 ,ngôn ngữ học phát triển mạnh mẽ. nhiệm vụ chính
của giai đoạn này là khắc phục những lỗi trong quá trình học của người

bản địa.
Theo từ điển nhiều tập Oxford (1933), tính từ "comparative" được
định nghĩa căn cứ vào cách dùng của từ này khoảng cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX. Nội dung nghĩa thường nhấn mạnh đối chiếu những điểm
khác nhau giữa hai hoặc hơn hai đối tượng được khảo sát, theo thời gian,
thuật ngữ "đối chiếu" được sử dụng với nghĩa mở rộng để chỉ đúng hiện
thực nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ.
Page 8
Trong các tài liệu bằng tiếng Pháp, việc sử dụng thuật ngữ "đối
chiếu" cũng diễn ra tương tự: thời kì đầu sử dụng thuật ngữ "comparée"
và các từ phái sinh của nó. Sau đó, thuật ngữ "contrastive" được thay thế
cho "comparative" mang nghĩa đối chiếu và ngày càng được sử dụng
rộng rãi (Potie 1971, Duboa 1973, Gato 1974, Pioro 1977 và v.v.). Hiện
nay, trong các tài liệu bằng tiếng Pháp thường sử dụng phổ biến thuật
ngữ "linguistique contrastive" (hoặc differentielle).
CHƯƠNG 2 MÔ TẢ CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT.
2.1 Quan niệm về câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt.
2.1.1 Khái niệm về câu bị động trong tiếng Anh.
Trong tiếng Anh khái niệm thể được coi là một phạm trù ngữ
pháp, tiếng Anh có 2 thể: thể chủ động và bị động.Thể bị động
(passive voice) là một khái niệm phạm trù rất phổ biến trong ngữ
pháp tiếng Anh, một phạm trù ngữ pháp mà tân ngữ của động từ đứng
ở vị trí của chủ ngữ.có thể khẳng định thể bị động là một hiện tượng
ngôn ngữ đã được miêu tả khá chi tiết và đầy đủ trong tiếng Anh.
Sơ đồ chuyển câu chủ động sang câu bị động:
Subject Verb Object

Subject Be+ V-pp Object
Cấu trúc rút gọn:

BE + V-PP
Page 9
Qua đó ta có thể dễ dàng nhận biết đâu là câu bị động và khi
chuyển từ thể chủ động sang bị động, tân ngữ của động từ trong câu chủ
động trở thành chủ ngữ của câu bị động.
Ví dụ:
Chủ động : My father waters this flower.
S V O
Bị động : This flower is watered by my father.
S Be+ V-pp O
Nhìn vào ví dụ trên ta thấy sự hoán đổi vị trí và vai trò trong câu
của các bộ phận chủ ngữ, tân ngữ, vị ngữ trong câu.
Cụ thể :
- My father đóng vai trò là chủ ngữ (câu chủ động)  vai trò là vị ngữ (
câu bị động)
- This flower đóng vai trò là tân ngữ( câu chủ động)  vai trò là chủ
ngữ ( câu bị động)
- Water là động từ chính ở dạng nguyên thể ( câu chủ động)  vai trò là
động từ ở dạng phân từ ( câu bị động).
Nói nôm na, có sự chuyển đổi chủ ngữ, vị ngữ ,động từ ,và các
thành phần khác trong câu, chuyển đổi thì trong câu bị động của Tiếng
Anh.
2.1.2 Khái niệm về câu bị động trong tiếng Việt.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ phân tích tính, lấy ngữ pháp chủ từ và
trật tự từ làm phương thức ngữ pháp cơ bản, các từ Tiếng Việt không đổi
hình thái,kể cả động từ. Do vậy, không thể căn cứ vào dạng thức của
động từ hoặc ngữ pháp để xác định dạng thức chủ động hay bị động. Nếu
căn cứ hoàn toàn vào cấu trúc ngữ pháp cũng không được bởi trong
Page
10

Tiếng Việt nhiều trường hợp cấu trúc của câu chủ động không thể phân
biệt được.
Một số tán thành Tiếng Việt có cấu trúc câu bị động, trong khi
một số lại phủ nhận.
Theo các ý kiến phủ nhận, họ cho rằng: thứ nhất:Tiếng Việt thuộc
loại hình đơn lập, phân tích tính, động từ Tiếng Việt là một ngôn ngữ
thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính, động từ tiếng Việt không có các
chỉ tố đánh dấu về ngôi, thời, thức, dạng…, nên không tồn tại câu bị
động như các ngôn ngữ biến hình (tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.). Để
chuyển được một câu từ dạng chủ động sang dạng bị động thì các ngôn
ngữ biến hình phải dùng đến sự biến đổi hình thái của động từ( eg: do-
did- done,etc ). Tiếng Việt vốn là một ngôn ngữ không có hiện tượng
biến hình từ nên không thể đáp ứng được tiêu chí hình thái học khắt khe
này của dạng bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp. L.C.
Thompson (1965: 217) cũng cho rằng những cấu trúc có được và bị chỉ
là sự chuyển dịch tương đương từ những cấu trúc bị động trong ngôn
ngữ Châu Âu. Ông gọi đó là cách diễn đạt bị động logic chứ không coi
chúng là một phạm trù ngữ pháp tách biệt.
Ngoài tiêu chí hình thái học một số tác giả còn dựa vào đặc điểm
tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề chứ không phải thiên chủ ngữ để
phủ nhận sự có mặt của phạm trù bị động trong tiếng Việt. Họ cho rằng
trong các ngôn ngữ thiên chủ đề thì không thể xuất hiện bị động bởi bị
động là đặc trưng của các ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Theo các tác giả,
tiếng Anh và các thứ tiếng Châu Âu khác là những ngôn ngữ “thiên chủ
ngữ”, còn tiếng Việt có đủ những thuộc tính của một ngôn ngữ “thiên
chủ đề”, vì thế rất khó có thể có cấu trúc bị động.
Page
11
Những tác giả ủng hộ quan điểm tiếng Việt không có dạng bị động
và câu bị động còn dựa trên quan niệm rằng các động từ bị và được là

những động từ ngoại động chính danh, nên không thể coi chúng là dấu
hiệu ngữ pháp biểu hiện quan hệ bị động.).
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến ủng hộ rằng, Tiếng Việt có thức
bị động.Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng trong tiếng Việt mặc dù
không có phạm trù bị động với tư cách là một phạm trù hình thái học
nhưng vẫn có cấu trúc bị động hay câu bị động. Nguyễn Phú Phong
(1976) thừa nhận “bị động” như là một phạm trù ngữ pháp tách biệt
trong Tiếng Việt. Ông biện luận rằng có thể xác lập một cặp câu chủ
động – bị động tiếng Việt tương ứng về mặt chuyển dịch với cặp câu chủ
động – bị động trong tiếng Pháp, và chỉ rõ mối quan hệ hình thức giữa
các thành phần của mỗi cặp câu trong những thuật ngữ chung. Ông cũng
cho được, bị, do là những trợ từ bị động. Hoàng Trọng Phiến (1980)
quan niệm “trong Tiếng Việt phương thức đối lập bị động và chủ động
không phải bằng con đường ngữ pháp thuần tuý mà bằng con đường từ
vựng – ngữ pháp”. Theo tác giả, quan hệ cú pháp trong câu bị động tiếng
Việt được biểu hiện như sau:
- Bổ ngữ đối tượng trong câu chủ động trở thành chủ ngữ trong câu bị
động tương ứng.
- Vị ngữ bao gồm các từ bị, được, do kèm theo động từ ngoại động.
- Chủ thể ở câu chủ động không bắt buộc phải xuất hiện trong câu bị
động tương ứng.
Một nhà nghiên cứu khác: Lê Xuân Thại cho rằng, cấu trúc câu bị động
trong Tiếng Việt có thể không hoàn toàn giống với các như các nước
phương Tây. Nhưng cũng có những loại câu có thể gọi là câu bị động với
những đặc điểm sau đây:
Page
12
- Chủ ngữ của câu biểu thị đối tượng hành động chứ không phải là chủ
thể hành động.
- Vị ngữ của câu bị động do các động từ bị, được đảm nhận.

- Sau vị ngữ là một cụm chủ – vị.
Ví dụ: Thành phố Hà Nội bị máy bay giặc tàn phá.
Ngoài ra, tác giả cũng thừa nhận các câu bị động có những biến thể
bằng/ bị/ được, kiểu:
(1) Cái bàn này đã được sửa chữa.
(2) Ngôi nhà này xây bằng gạch.
2.1.3 Chức năng dụng học của câu bị động.
Theo nhiều nhà nghiên cứu ,có những lý do dụng học nhất
định khiến cho các ngôn ngữ sử dụng các câu bị động thay thế
cho câu chủ động trong một số tình huống giao tiếp.
Trước hết, câu bị động được sử dụng trong những tình huống mà người
nói không muốn đề cập đến tác thể (agens). Các lý do của việc tránh đề
cập đến tác thể được mô tả trong các công trình nghiên cứu khá phong
phú. Đó có thể là vì :
- Người nói không biết rõ tác thể,
Ví dụ: He was killed in the war. (Anh ấy bị giết trong chiến tranh.)
- Người nói biết nhưng không muốn đề cập đến tác thể (vì muốn
giữ bí mật, vì lịch sự, vv):
Ví dụ: Mai was informed that her car was broken
(Mai được thông báo rằng xe của cô ấy đã bị hỏng)
- Tác thể đã được nhắc đến ở câu trước hoặc sau đó, ví dụ:
Robbers broke into houses. All money was lost
(Bọn cướp đột nhập vào nhà, toàn bộ tiền bạc mất hết.)
Page
13
- Tác thể có thể được người nghe ngầm hiểu nhờ tình huống:
Ví dụ: The plane was brought down safety.
(Máy bay đã (được) hạ xuống an toàn)
- Tác thể được hiểu là mọi người hay dư luận nói chung:
Ví dụ: It is said that he will get marriage

(Người ta đồn rằng anh ấy sắp cưới vợ)
Lý do thứ hai khiến các ngôn ngữ sử dụng câu bị động là người nói
không muốn đề cập đến bản thân hành động mà chỉ muốn nhấn mạnh
đến kết quả do hành động đó mang lại đối với bị thể:
Ví dụ: All the trees have been cut down.
( Tất cả cây đã bị chặt hết rồi)
Ở đây, việc sử dụng cấu trúc bị động không chỉ tạo cho câu có được
sự liên kết chặt chẽ, lô gích về chủ đề mà còn loại bỏ bớt các thông tin
trùng lặp, dư thừa trong phát ngôn.
2.2 Một số dạng câu bị động điển hình trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Tiếng anh Tiếng việt
-Câu bị động chuyển đổi theo các
thì tương ứng.
-VD:
My house is repainted by him / This
information was informed
- Câu bị động có chứa "bị/ được" có
sự xuất hiện của chủ thể hành động

đối thể hành động.
• Câu bị động chứa bị được
như một động từ độc lập, sau
nó không xuất hiện một
Page
14
đông từ nào khác.
VD: "Con được điểm 10".
• Câu bị động có chứa "bị
/được" đứng trước một động
từ, trở thành yếu tố bổ sung

ý nghĩa thụ động cho động
từ đó.
VD:"Fan K-Pop bị dư luận phản
đối"
- Cấu trúc bị động với chủ từ ảo cho
một mệnh đề ( To be said that/ It is
believed that).
-VD:
“It is said that there is a ghost in
this house”.
- Câu bị động có chứa "bị/được"
nhưng không có sự xuất hiện của tân
ngữ.
-VD:
"Ngôi làng đã có cách đây mấy
trăm năm".
- Dạng bị động với động từ có 2 tân
ngữ. Việc chọn giữa 2 cấu trúc bị
động phụ thuộc vào việc ta muốn
nhấn mạnh thông tin nào.
-VD:
He was given a nice present on his
birthday / A nice present was given
to him on his birthday.
- Câu bị động không có sự xuất hiện
của "bị/được".Tuy nhiên có thể
thêm”bị/ được” vào câu này.
-VD:
Căn phòng ngăn làm hai / Căn
phòng được ngăn làm hai.

-Dạng bị động được theo sau bởi -Câu bị động không diễn tả ý nghĩa
Page
15
động từ nguyên mẫu.
VD:
She is allowed to visit her son twice
của hoạt động mà diễn tả ý nghĩa
trạng thái tồn tại.
-VD:
“Tôi bị mất tiền".
- Câu bị động với tân ngữ là bổ
ngữ.
-VD:
She was called stupid
- Câu bị động với động từ nguyên
mẫu bị động. Dạng câu này thường
được dùng cùng với các từ đặc biệt
và động từ khiếm khuyết.VD: She
must be punished.
- Câu bị động với động từ nguyên
mẫu quá khứ.VD: It must have been
rained.
- Dạng bị động ở thể truyền khiến
(Have something done).VD: He has
his car washed.
-Dạng bị động nguyên mẫu có "to".
-VD:
There is nothing to be done.
- Dạng bị động với cấu trúc "ing
form"

-VD:
Human love being praised
Page
16
- Dạng "ing- form" với ý nghĩa bị
động.
-VD:
The grass need cutting

CHƯƠNG 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CÂU
BỊ ĐỘNG CỦA TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT.
3.1 Sự tương đồng.
Tiếng anh Tiếng Việt
- Câu bị động chuyển đổi theo
các thì tương ứng
Cấu trúc: trợ động từ (be) +
động từ chính ở dạng phân từ.
VD1: She was taken to
hospital after accident
VD2 :That cakes are made by
my mother
- Sử dụng các từ ngữ như được
, bị ,do
Cấu trúc: bị ,được, do + động từ
( nội động). các từ bị, được ,do giúp
ta xác định được dấu hiệu của thể
bị động
VD1: Cô ấy được đưa đến bênh
viện sau vụ tai nạn.
VD2: Những chiếc bánh này do mẹ

tôi làm.
- Dạng bị động ẩn do có sử - Câu bị động không xuất hiện
Page
17
dụng mệnh đề quan hệ
VD: Using travel guideline,
information ( which are )
supplied by travel agencies
từ “ bị, được” ( trong một số
trường hợp sau)
VD: Số liệu dân số Việt Nam dựa
trên các cuộc điều tra .
3.2 Sự khác biệt
3.2.1 Theo khía cạnh các yếu tố ngôn ngữ.
Để xác định hình thức bị động trong câu của tiếng việt chủ yếu dựa vào ý
nghĩa từ vựng hoặc tình trạng ngữ pháp của một số từ :” được/ bị/ phải.
tuy nhiên, trong một vài trường hợp, ý nghĩa bị động được hiểu như là ý
nghĩa ngữ nghĩa trong toàn bộ câu:
Ví dụ : (1) thuyền đẩy ra xa.
(2) nhà đã xây xong.
Hai câu trên, xét về ngữ pháp thì đúng. Nhưng theo góc độ ngữ
pháp, nó không được hợp lý vì thuyền và nhà là hai vật thể và nó không
thể tự thực hiện được hành động. Để hiểu được những dạng câu như thế
này, người đọc và người nghe phải ý thức được rằng đó chính là ý nghĩa
bị động.
Câu bị động trong tiếng Anh được nhận dạng bằng hình thái ngữ pháp
theo đặc điểm của ngôn ngữ tổng hợp tính nhưng khi có nghĩa "bị động"
được nhận ra mà không cần đến hình thái ngữ pháp quy định.Yếu tố bị
động được hiểu ngầm trong văn cảnh của lời nói hay văn bản.
3.2.2 Yếu tố ngoài ngôn ngữ.

Page
18
Trong cả Tiếng Việt và Tiếng Anh, thức bị động được dùng với mục
đích nhấn mạnh vào thực tế, hành động, hay kết quả của một chuỗi hành
động
cấu trúc câu bị động đóng vai trò quan trọng trong tiếng Anh ,đặc biệt là
trong các công trình học thuật. Trong nội dung của học thuật, thì nó chỉ
đề cập tới hành động mà không đề cập tới người gây ra hành động .
Trong khi đó, người Việt Nam thì lại thích sử dụng cấu trúc câu chủ
động hơn. Tuy nhiên, khi dịch văn bản từ Tiếng Anh sang Việt, người
phiên dịch sẽ giữ nguyên cấu trúc câu vì khi dịch sang văn bản Tiếng
Việt , nó không giữ được nét nghĩa ban đầu.
Ví dụ: - An initial safety assessment is made by experts, with
public comment invited.
Nên dịch là: các chuyên gia đánh giá đầu tiên về độ an toàn có tham
khảo ý kiến công chúng.
- A rewiew of all the fiding is undertaken.
Dịch là: Tổng kết tất cả những phát hiện.
Bên cạnh đó, chúng ta nhận thấy rằng, hầu như bất cứ sự vật nào đều
có thể viết thông qua thể chủ động nhưng trong các văn bản miêu tả, sử
dụng thể bị động khiến câu văn đặc biệt hơn.
Ví dụ:
Active: Jame Watt invented the steam engine in 1784.
Passive: The steam engine was invented by Jame Watt in 1784.
Trên thực tế, có một số điểm thú vị khi sử dụng “ bị, được, do” trong
tiếng Việt.
Ví dụ:
Tôi nấu ăn hơi bị ngon đấy.
Page
19

Có thể, khi nhìn ví dụ trên,có nhiều người nhầm tưởng đó là cấu trúc
của thể bị động vì xuất hiện từ “ bị” trong câu. Nhưng thực ra, trong câu
trên, không hề có chút liên hệ nào với thể bị động cả. Có thể người nói
muốn nhấn mạnh về sự “ nghi ngờ” về khả năng nấu ăn của mình.câu
này thể hiện ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Những từ “ hơi,
bị”làm cho câu có ý nghĩa tiêu cực hơn.
Tuy nhiên , từ “ được” được sử dụng theo sau một động từ nhằm diễn tả
ý nghĩa của một kết quả tốt của một hành động.
Ví dụ:
Tôi được điểm 10 môn toán.
Cuối cùng, tôi muốn nói đến thói quen của người Việt khi dịch câu
với từ “ bị, được” sang tiếng Anh. Ở mức độ bình thường, “bị, được”
được cường điệu hóa trong dịch Anh-Việt. Từ đó dẫn đến hậu quả,
những câu có từ “ bị,được” đều có khuynh hướng chuyển sang như câu
bị động.
Ví dụ:
Tôi bị phạt : I was punished.
Xe bị hỏng: The car was broken down.
Họ cho rằng, phạm vi của từ “bi, được” rộng hơn so với cách sử dụng
của họ trong câu bị động. Do đó, ghi chú cẩn thận phải được trao cho
người mới bắt đầu học tiếng Anh để tránh gây nhầm lẫn lâu dài.
KẾT LUẬN
Mặc dù nghiên cứu về câu bị động, chúng ta có thể thấy rằng ,ngôn ngữ thật
là phức tạp và đa dạng. Bên cạnh những điểm tương đồng, điểm khác nhau
Page
20
quan trọng giữa thức bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt là động từ trong
tiếng Việt không tự bao hàm một ý niệm rõ ràng trong ngữ pháp. Trong khi
đó,động từ tiếng Anh được chia rõ ràng thành hai loại : nội động từ và ngoại
động từ. Trong tiếng Việt thì không có sự phân biệt rõ ràng như vậy. Do vây,

đối tượng trong câu tiếng việt chưa được xác định rõ ràng. Vấn đề tôi đề cập ở
đây có thể chư đầy đủ nhưng tôi hy vọng nó có thể cung cấp một số thông tin
hữu ích cho ngươi học ngôn ngữ bằng văn bản và thay đổi câu trong hoàn
cảnh cụ thể. Hơn thế nữa, nên nghiên cứu thêm về thể bị động.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Page
21
1. Nguyễn Đình Hùng, Một số vấn đề về câu bị động trong tiếng việt và
tiếng anh, trường cao đẳng sư phạm Quảng Bình.
2. Ngôn ngữ hoc đối chiếu, Nguyễn Mạnh Hùng.
3. Kĩ thuật dịch Anh-Việt, Nguyễn Mạnh Hùng, MA.
4. Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đỗi chiếu các ngôn ngữ, Nxb ĐH &
THCN, 1998.

Page
22

×