Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

xuất khẩu đồ gỗ của việt nam sang hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.38 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, Đảng và nhà nước ta
đã xác định xuất khẩu là bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội.
Trong vài năm trở lại đây, Ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã trải
qua một giai đoạn phát triển với những đổi mới và tiến bộ không ngừng. Từ một
nước xuất khẩu gỗ nguyên liệu là chủ yếu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một
nước xuất khẩu sản phẩm gỗ có tên tuổi trên thế giới và trong khu vực. Đặc biệt là
năm 2004 với kim ngạch xuất khẩu vượt mức 1 tỷ USD, tốc độ tăng 85%- là mức
tăng kỷ lục chưa có bất kỳ hàng xuất khẩu nào ngoài gỗ đạt được. Liên tiếp hai năm
sau đó ngành gỗ tiếp tục khẳng định vị thế của mình với kim ngạch xuất khẩu năm
2005 đạt 1,6 tỷ USD và năm 2006 đạt 1.9 tỷ USD. Xuất khẩu đồ gỗ đang trở thành
một ngành hàng xuất khẩu chủ lực, tạo bước đột phá trong cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn, tạo ra động lực tăng trưởng và phát triển
kinh tế quan trọng.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận trên và thực tiễn của toàn ngành, cùng với
nhận thức về tầm quan trọng của ngành hàng gỗ xuất khẩu chuyên đề lấy đề tài: “
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ” làm chuyên đề nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: tập trung làm rõ 3 vấn đề
•Hệ thống hoá lý luận về xuất khẩu đồ gỗ
•Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
•Đề xuất định hướng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Lý luận chung về xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ và các nhân tố ảnh hưởng
đến xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ.
1
+ Thực trạng và định hướng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ.
- Phạm vi nghiên cứu: đi sâu nghiên cứu xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa


Kỳ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đồng thời trong từng nội dung cụ thể, tiểu luận sử
dụng các phương pháp thống kê, diễn giải và so sánh, dự đoán và phân tích tổng
hợp để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được chia
làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang
Hoa Kỳ.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Chương 3: Phương hướng xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam sang Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ
VIỆT NAM SANG HOA KỲ
1.1 ĐỒ GỖ VÀ KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM
1.1.1 Những đặc điểm của sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu
Đồ gỗ là sản phẩm có nguồn gốc thuần tuý từ tự nhiên
Không giống các sản phẩm công nghiệp, đồ gỗ có nguồn gốc thuần tuý từ tự
nhiên với chất liệu hoàn toàn từ thực vật.Gỗ sau khi được khai thác, qua các khâu
chế biến từ xẻ thô, tạo phôi đến tinh chế qua các công đoạn sử dụng công cụ lao
động là cơ khí hay thủ công, thành sản phẩm hoàn chỉnh. Tuy nhiên, toàn bộ quá
trình đó không làm thay đổi tính chất tự nhiên của gỗ mà chỉ làm thay đổi về hình
dáng để thoả mãn một giá trị sử dụng nhất định theo nhu cầu của con người. Cho dù
2
trong đời sống hiện đại, người ta có thể kết hợp chất liệu gỗ cùng các chất liệu khác
như vải, da, inox, nhựa nhưng gỗ vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất và không thể thay thế
trong sản phẩm.

Đồ gỗ là sản phẩm mang tính nghệ thuật, phản ánh nét đặc trưng văn hoá.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ sử dụng gỗ để làm ra những
công cụ, vật dụng thông thường cho sinh hoạt vật chất mà còn sử dụng gỗ để sáng
tác nghệ thuật, thoả mãn khát khao sáng tạo, làm giàu thêm đời sống tinh thần. Đó
chính là các hoạt động điêu khắc, kiến trúc, thiết kế Đây cũng là giai đoạn con
người ghi dấu ấn sâu đậm hơn của mình vào lịch sử và khắc hoạ nên nét đặc trưng
văn hoá của dân tộc mình.
Các sản phẩm đồ gỗ truyền thống đều mang đậm nét văn hoá của từng dân tộc
trên thế giới. Người Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Đại Dương đều
có những sản phẩm gỗ đặc trưng riêng. Nét riêng ấy không chỉ bắt nguồn từ sự khác
nhau về văn hoá của từng châu lục mà còn xuất phát từ đặc điểm khác nhau của
từng loại cây gỗ ở các vùng khí hậu, đặc điểm sinh trưởng và tính chất của từng
chủng loại gỗ.
Tuy nhiên, khi thế giới loài người đã đạt đến sự phát triển cao như ngày nay,
sự giao thoa văn hoá trong xu hướng hội nhập, tự do hoá thương mại toàn cầu, đồ
gỗ không còn dừng lại ở các vật phẩm tiêu dùng thông thường mà được nâng lên
thành những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật, điêu khắc riêng có của từng quốc gia,
từng khu vực.
Đồ gỗ là sản phẩm vừa truyền thống, vừa hiện đại
Trong cuộc sống hiện đại, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật- công nghệ, đặc
biệt là cách mạng công nghệ thông tin đã làm thay đổi căn bản cuộc sống loài
người. Bên cạnh xu hướng ưa thích các sản phẩm công nghệ cao như máy vi tính,
điện thoại di động, các thiết bị thông minh, tự động hoá, con người càng muốn bảo
toàn những giá trị tinh hoa truyền thống của các sản phẩm gỗ.
Đồ gỗ vừa mang tính gần gũi với thiên nhiên lại mang đậm nét nghệ thuật
sang trọng và quyến rũ. Cuộc sống càng hiện đại con người lại càng muốn quay về
3
với thiên nhiên. Sản phẩm gỗ đáp ứng được cùng một lúc nhiều nhu cầu của con
người trong cuộc sống hiện đại: thân thiện, gần gũi với thiên nhiên mà lại sang
trọng, hiện đại, nghệ thuật có tính thẩm mỹ và văn hoá cao.

Đồ gỗ đang là mặt hàng có mức tăng trưởng cao và có sức hút mạnh mẽ trên
thị trường thế giới.
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ trên thế giới đang gia tăng rất nhanh,
bình quân 8%/năm. Các thị trường tiêu thụ gỗ lớn nhất thế giới tập trung ở các quốc
gia phát triển gồm Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Hiện Hoa Kỳ là quốc gia tiêu thụ đồ
gỗ nhiều nhất thế giới, tiếp theo là Đức, Pháp, Anh và Nhật Bản.
Trước tình hình đó, ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ của thế giới đang phát
triển rất nhanh, cả về số lượng và chất lượng. Các quốc gia sản xuất đồ gỗ hàng đầu
thế giới hiện nay là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Đức Các nước Đông
Nam Á là Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan cũng đang nổi lên là quốc gia
xuất khẩu đồ gỗ tiêu biểu của thế giới.
1.1.2 Những lợi thế và tiềm năng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam không ngừng gia tăng, có
mặt ở hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2004 đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam
được ghi tên vào “ Câu lạc bộ 1 tỷ USD” và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực
quốc gia. Đồng thời, mặt hàng này giúp tạo lập vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế khi các nhà nghiên cứu đưa Việt Nam vào danh sách “ Top 10 quốc gia xuất
khẩu đồ gỗ lớn nhất Châu Á” và “ Top 10 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất vào Mỹ”.
Những lợi thế và tiềm năng cơ bản là:
1.1.2.1 Nguồn lao động dồi dào, khéo léo, giá rẻ
Việt Nam là một nước đông dân (trên 82 triệu dân) và có dân số trẻ (lực lượng
lao động chiếm trên 50%). Hiện cả nước có khoảng trên 2.000 doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất- chế biến gỗ với lượng lao động trong toàn Ngành ước tính hơn 250.000
người, chiếm 0,16% lực lượng lao động nhưng lại tạo ra được 3,85% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước tính trong năm 2004.
Do trình độ phát triển kinh tế chưa cao nên chi phí lao động ở Việt Nam tương
4
đối rẻ, chỉ bằng 1/3 giá lao động ở Thái Lan, 1/100 so với lao động ở Châu Âu. Chi
phí nhân công trung bình trong Ngành công nghiệp chế biến gỗ đang ở mức 0,2-0,5
USD/ giờ. Lực lượng lao động này rất dồi dào và khéo tay, có khả năng tiếp thu

nhanh khoa học công nghệ. Chính yếu tố này đã giúp cho hàng Việt Nam có được
chất lượng cao tương đối và đủ điều kiện cạnh tranh về giá để bước vào các thị
trường như Hoa kỳ, EU và Nhật Bản. Đặc thù trong Ngành chế biến gỗ, nguyên liệu
và công nghệ sản xuất chiếm khoảng 60-70% giá trị chế biến, phần còn lại là do tay
nghề của người lao động tạo ra. Các sản phẩm của Việt Nam có tính vượt trội về độ
tinh xảo so với các sản phẩm sản xuất cùng loại được sản xuất từ Trung Quốc,
Malays, Indonesia khi chúng được sản xuất trên cùng một dây truyền công nghệ.
Hơn nữa, tay nghề người lao động giúp giảm tỷ lệ phế phẩm, nâng cao hiệu
quả của quá trình sản xuất.Trong khi đó, tỷ lệ phế phẩm trong Ngành sản xuất - chế
biến sản phẩm gỗ thế giới là khá cao.
1.1.2.2 Giàu tiềm năng về gỗ nguyên liệu
Việt Nam có ¾ diện tích lãnh thổ là đồi núi nên tài nguyên rừng cực kỳ phong
phú với rất nhiều loại gỗ quý. Tuy không thể so sánh về quy mô với những cánh
rừng nhiệt đới rậm rạp của Indonesia, Malaysia nhưng lợi thế về rừng của Việt Nam
hơn hẳn Trung Quốc, và nếu xét về chủng loại, chất lượng thì cũng không thua kém
gì rừng Indonesia, Malaysia.Năm 1943, tổng diện tích rừng nước ta vào khoảng
14,3 triệu ha.
Đặc điểm của gỗ rừng tự nhiên là gỗ cứng, màu sắc, hoa văn đẹp, độ bền cao
rất thích hợp cho sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ. Tuy nhiên, những năm gần đây Ngành
hàng này phát triển quá “nóng” nên tài nguyên rừng nhanh chóng bị cạn kiệt. Theo
cục phát triển Lâm nghiệp Việt Nam: năm 2001, tổng diện tích rừng chỉ còn khoảng
11,3 triệu ha, với trữ lượng hơn 550 triệu m
3
gỗ và 750 tỷ cây tre nứa, độ che phủ
33,2% và diện tích đất không có rừng vào khoảng 8 triệu ha. Theo tính toán của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để đạt được 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu
sản phẩm gỗ cần tới 3 triệu m
3
gỗ tròn nguyên liệu / năm. Nhưng nhà nước ta đã
giới hạn khai thác gỗ rừng tự nhiên chỉ khoảng 300.000 m

3
gỗ mỗi năm trong giai
5
đoạn từ 2000-2010 để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Những năm gần
đây do gia tăng mạnh xuất khẩu nhà nước đã cho phép khai thác tới 900.000 m
3
như
vậy vẫn thiếu hụt khoảng trên 2 triệu m
3
gỗ tròn. Bởi vậy nguồn nguyên liệu cho
sản phẩm gỗ xuất khẩu chuyển hướng từ chỗ dựa vào rừng tự nhiên là chính sang
dựa vào nguồn gỗ nhập khẩu và gỗ rừng trồng. Gỗ rừng trồng có đặc điểm là lớn
nhanh, năng suất cao, chóng tái sinh rất thích hợp cho sản xuất các loại ván ghép
thanh, ván ép, ván MDF, ván dăm…và làm nguyên liệu cho ngành giấy. Đây là
những loại nguyên liệu nhân tạo để sản xuất đồ gỗ công nghiệp xuất khẩu như ván
sàn, đồ nội thất, bàn ghế ngoài trời, thay thế một phần cho gỗ tự nhiên. Năm 1998,
Chính phủ ta đã ra quyết định về thực hiện chương trình trồng 5 triệu ha rừng,
trồng mới 3 triệu ha rừng kinh tế trong đó có 2 triệu ha rừng lấy gỗ và 1 triệu ha
cây công nghiệp (bao gồm cả cao su), nhằm tăng độ che phủ rừng đồng thời tạo
nguồn nguyên liệu ổn định đầu vào cho Ngành hàng gỗ. Một tiềm năng lớn đáng
chú ý xét vế cơ cấu gỗ có tỷ trọng rất cao về gỗ giá trị như gỗ quế, hương, lim.
Việt Nam vẫn tạm nhập nguyên liệu gỗ từ hai nước giàu tiềm năng về gỗ nguyên
liệu là Indonesia và Malaysia. Lợi thế của Việt Nam là ở gần hai nước này nên chi
phí vận chuyển thấp, cùng là thành viên ASEAN nên thuế suất nhập khẩu ưu đãi
hơn các nước khác.
1.1.2.3 Làng nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam với đông đảo đội
ngũ nghệ nhân có tay nghề tinh xảo
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện có 1.400 làng
nghề truyền thống trải khắp lãnh thổ Việt Nam trong đó có khoảng 342 làng nghề
gỗ mỹ nghệ truyền thống với sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất song hành

với Ngành công nghiệp gỗ chế biến. Những làng nghề lớn và nổi tiếng như Vân Hà
(Hà Nội), Hữu Bằng, Dư Vụ, Vạn Điểm, Chuyên Mỹ, Nhị Khê (Hà Tây), Bích Chu
(Vĩnh Phúc), Đồng Kỵ (Bắc Ninh), La Xuyên (Nam Định) Các cơ sở sản xuất,
xuất khẩu đồ gỗ có xu hướng tập trung về những thành phố lớn như Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh hay ngay tại các làng nghề. Việc phân bổ rộng khắp và khá đồng
6
đều của các cơ sở sản xuất, chế biến gỗ từ miền Đông Nam bộ đến Trung Trung bộ,
gần hệ thống giao thông, đặc biệt là các cảng biển là một trong những yếu tố quan
trọng để phát triển ngành gỗ.
Đồ gỗ truyền thống Việt Nam được đánh giá rất cao bởi tính nghệ thuật độc
đáo, mang đậm hồn Việt mà phản ánh nét tài hoa duyên dáng riêng có, được bạn bè
quốc tế rất ưa chuộng. Đồ gỗ truyền thống của Việt Nam tập trung chủ yếu ở đồ gỗ
mỹ nghệ với chất liệu chế tác là các loại gỗ rừng tự nhiên có chất lượng cao từ
những loại gỗ quý như trắc bá, lim, giáng hương, cẩm lai, sao, sến, táu…Song giá
trị chủ yếu kết tinh trong sản phẩm gỗ mỹ nghệ lại nằm trong lao động nghệ thuật
của các nghệ nhân làm ra các sản phẩm. Đó là những nét văn hoa trạm trổ, nét sơn
mài, khảm đồi mồi trên sản phẩm, nét vân gỗ được bàn tay khéo léo của người thợ
thể hiện trên sản phẩm. Đồ gỗ mỹ nghệ của Việt Nam được khách hàng đánh giá là
độc đáo, tinh xảo rất đặc trưng, có sức quyến rũ, đậm đà bản sắc văn hoá Việt.
1.1.2.4 Vị trí địa lý, khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho phát triển rừng (rừng
tự nhiên và rừng trồng)
Vùng Tây nguyên rộng lớn với đất đỏ bazan dọc theo dãy Trường Sơn rất
thuận lợi cho tăng trưởng và tái tạo rừng, cho nên nguồn rừng tự nhiên mặc dù trữ
lượng không cao song do tiềm năng lớn đối với phát triển rừng trồng trong thời gian
ngắn nhất là cây cao su, cây pơ-mu, chỉ cần 4 năm tăng trưởng là có thể khai thác
trong khi tại Bắc Âu phải cần tới 30 năm.
1.1.2.5 Môi trường đầu tư và kinh doanh chung
Mức độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua gia tăng đáng
kể, song song đó là những biện pháp, chính sách tích cực nhằm cải thiện môi trường
đầu tư trong nước. Chỉ tính riêng trong năm 2005, Việt Nam đã sửa đổi và thông

qua 29 luật.
Các chỉ tiêu kinh tế khác của Việt Nam cũng khá tốt. Vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài chiếm tới 20% các nguồn vốn đầu tư cần thiết của Việt Nam. Tốc độ
tăng trưởng GDP của quốc gia đảm bảo đạt trung bình năm trên 7,5%, lạm phát
7
khống chế dưới hai con số, bội chi ngân sách nhà nước kiểm soát dưới 5% GDP,
kim ngạch xuất khẩu đạt gần 60% GDP… theo đánh giá khách quan Việt Nam đã
đang và sẽ trở thành một đối tác ít rủi ro hơn đối với đối tác doanh nhân các nước.
1.1.2.6 Ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đang trong giai đoạn
tăng trưởng nhanh
Đồ gỗ đã trở thành một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất
quốc gia, đưa Việt Nam thành một trong 4 quốc gia xuất khẩu hàng gỗ chế biến lớn
nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Xét về năng lực chế biến, hiện nay cả nước có hơn 2.000 doanh nghiệp chế
biến gỗ với năng lực chế biến 2,2 - 2,5 triệu m3 gỗ tròn/năm phục vụ xuất khẩu
(gồm 450 công ty chuyên sản xuất hàng xuất khẩu: 120 công ty chuyên sản xuất
hàng ngoài trời, 330 công ty chuyên sản xuất hàng nội thất).
Xét về cơ cấu sơ hữu vốn, tham gia vào chế biến gỗ xuất khẩu có 374 doanh
nghiệp Nhà nước, 49 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ Singapore, Đài
Loan, Malaysia, Na Uy, Trung Quốc, Thụy Điển… với tổng vốn đăng ký trên 105
triệu USD.
Xét về cơ cấu lãnh thổ, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ đều tập trung ở 3
vị trí:
Thứ nhất, tại các thành phố lớn có nhiều điều kiện thuận lợi về đầu tư công
nghệ, hoàn thiện quy trình chế biến, là các trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu của
cả nước và khu vực, có các khu chế xuất, khu công nghiệp đang hoạt động hiệu quả
như là Tp. HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu
Hiện nay, Tp.HCM đã trở thành trung tâm chế biến gỗ lớn nhất nước, với số
doanh nghiệp sản xuất chế biến chiếm trên 50% trong tổng số 2.000 doanh nghiệp
và chiếm 70% năng lực chế biến. Tính từ năm 2000 đến năm 2006, nếu kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình 45 – 50%/năm, riêng Tp.HCM đạt tốc độ
bình quân 70%/năm. Tuy nhiên do phát triển quá nhanh, lao động lành nghề thiếu
nghiêm trọng, vay vốn khó khăn, 80% gỗ nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu, rừng chỉ
có khoảng 35 nghìn ha (trong khi Đông Nam bộ có gần 1,6 triệu ha) nên mới chỉ có
8
khoảng 25% số doanh nghiệp đổi mới dây chuyền hiện đại, phần lớn đang trong
tình trạng bị động, bấp bênh, có nguy cơ thua lỗ (do giá nguyên liệu gỗ tăng nhanh
hơn 10% so với giá bán thành phẩm), giá xăng dầu, điện nước tăng vọt
Thứ hai, khai thác nguyên liệu tại chỗ ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên
(Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc…)
Thứ ba, gần các làng nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống (phía Bắc: khu vực đồng
bằng sông Hồng, Bình Dương, Đồng Nai).
Xét về quy mô sản xuất-chế biến, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
trên 80% có số vốn hoạt động dưới 30 tỷ đồng, số lao động dưới 300 người (xét
theo qui định của Chính phủ). Tuy nhiên các doanh nghiệp này rất năng động, linh
hoạt nắm bắt nhu cầu thị trường.
Xét về trình độ chế biến, tình hình chung là các doanh nghiệp đang tập trung
đầu tư hiện đại hóa quy trình công nghệ chế biến, kết hợp giữa thủ công và cơ khí
dựa vào phương thức thuê mua tài chính Leasing, tuy hiện nay chưa đáp ứng được
những đơn đặt hàng lớn trên 100 container 40 feet/tháng/doanh nghiệp nhưng cũng
thoả mãn được phần nhiều yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm.
Xét về cơ cấu sản phẩm gỗ chế biến hướng tập trung vào nâng cao tỷ trọng sản
phẩm có giá trị gia tăng cao, trình độ gia công cao hơn với kỹ thuật áp dụng công
nghệ tẩm, sấy trang bị đạt tiêu chuẩn đặt ra của nhà nhập khẩu, chuyên môn hóa
theo 4 nhóm: mộc ngoài trời, mộc trong nhà, mộc mỹ nghệ, dăm gỗ.
Sắp tới đây Việt Nam sẽ triển khai sản xuất ván nhân tạo để làm hàng xuất
khẩu với nhà máy ván sợi MDF Gia Lai công suất 54.000m3 sản phẩm/năm, MDF
Sơn La 15.000m3, MDF Bình Thuận 10.000m3, nhà máy ván dăm Thái Nguyên.
1.2 THỊ TRƯỜNG ĐỒ GỖ HOA KỲ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN
XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ SANG HOA KỲ

1.2.1 Nghiên cứu khái quát về thị trường đồ gỗ Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) đạt gần 13 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 31% GDP toàn cầu. Kim
ngạch xuất, nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% GDP, lớn nhất thế giới. Năm
9
2006, Hoa Kỳ xuất khẩu hàng hoá trị giá hơn 1 nghìn tỷ USD, nhập khẩu trị giá 1,8
nghìn tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ liên tục tăng trong các năm
gần đây, đạt 3,5% năm 2006, tăng 4 lần so với 0,8% năm 2001.
HIện nay, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu gỗ, sản phẩm gỗ và đồ gỗ nội thất hàng đầu
thế giới, hàng năm nước này nhập một khối lượng trên 40 tỷ USD đồ gỗ và gỗ nội thất.
Năm 2002 Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng gần 16 tỷ USD gỗ và sản phẩm gỗ (HTS44) và
27 tỷ đồ nội thất và đồ gỗ (HTS 94). Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Công nghiệp
đồ nội thất (Furniture Inductry Research Institure) sức tiêu thụ đồ nội thất ở Mỹ sẽ tăng
25,5% trong giai đoạn 2000-2010, đạt mức 80,04 tỷ USD năm 2010.
Qua bảng 1.1, kim ngạch nhập khẩu đồ nội thất của Hoa Kỳ mã HTS 94 nhìn
chung tăng qua các năm từ 2001, với mức tăng bình quân giai đoạn 2001-2006 là 12,7%
Bảng 1.1: Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ và nội thất của Hoa Kỳ
mã HTS 94 giai đoạn 2001-2006.
Đvt: tỷ USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch 23,2 26,7 29,7 33,8 38 47,5
% tăng trưởng 15 11 13,5 11,3 12,5
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
Tình hình đó cũng diễn ra tương tự đối với mã HS-9403 (đồ nội thất bằng gỗ).
Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ mã HS-9403 tăng liên tục từ năm 2001 đến nay với tốc
độ tăng bình quân khá cao. Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ nội thất của Mỹ năm 2004
chiếm gần 40% mức nhập khẩu đồ gỗ nội thất toàn cầu (hơn 35,5 tỷ USD).
Bảng 1.2: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đồ gỗ mã HS-9403
của Mỹ giai đoạn 2001-2006
Đvt: tỷ USD

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch 10 11,6 12,8 14,4 16,5 19
% tăng trưởng 16 10,3 12,5 14,6 15,2
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
Phân tích cơ cấu mặt hàng gỗ nhập khẩu của Mỹ cho thấy những mặt hàng
10
nhập khẩu lớn nhất là: bàn ghế gỗ (chiếm 15% nhập khẩu của nhóm HTS94), phụ
tùng ghế dùng cho xe cộ bằng kim loại (13%), đồ gỗ nhà bếp (8%), bàn ghế văn
phòng (7%), gỗ tùng bách (39% nhập khẩu của nhóm HTS44). Phần lớn nhóm hàng
gỗ và gỗ chế biến được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, một phần
được chế biến để xuất khẩu và tái xuất khẩu.
Các quốc gia xuất khẩu chủ yếu gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường Mỹ bao
gồm: Trung Quốc chiếm phần lớn thị phần (khoảng 37%), Canada đứng thứ hai
(18%) và Mehico đứng thứ ba (17%).
Không chỉ nhập khẩu, Mỹ cũng là nước xuất khẩu gỗ và đồ gỗ hàng đầu thế
giới và ngành công nghiệp gỗ của Mỹ cũng rất năng động. Tổng số các công ty chế
biến gỗ ở Mỹ lên tới 86.000 công ty, trong đó có khoảng 19.000 công ty sản xuất
gỗ, 53.000 công ty sản xuất đồ gỗ và 14.000 công ty chế tạo nội thất. Oregon là
bang sản xuất đồ gỗ lớn nhất của Mỹ, trong khi bang North Caronia là bang sản
xuất đồ gỗ nội thất lớn nhất. Ngành công nghiệp gỗ của Mỹ rất chủ động trong việc
xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 5-6 tỷ USD. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, mức độ năng động của ngành công nghiệp gỗ bị giảm
sút, nguyên nhân chủ yếu là vì hàng hoá Mỹ bị đội giá do giá lao động cao và tỷ giá
đô la Mỹ ngày càng cao so với nhiều đồng tiền khác.
1.2.2 Xu hướng tiêu dùng đồ gỗ của người Mỹ
Người Mỹ không quan tâm nhiều đến chất liệu, màu sắc có tự nhiên hay
không, họ cần hoàn thiện sản phẩm một cách chu đáo, phong cách trang trí đơn giản
và màu sắc thích hợp, thể hiện qua cách đánh bóng, độ mịn bề mặt, bản lề và các
phụ kiện chắc chắn, độ khít sản phẩm, đóng mở tiện lợi dễ dàng.
Phong cách trang trí đóng một vai trò hết sức quan trọng để họ quyết định có

nên mua hay không. Hầu hết thiết kế nhà của người Mỹ đều mang phong cách hiện
đại nên đồ trang trí nội thất cũng phải phù hợp với phong cách đó. Hàng đồ gỗ
chạm khảm hoa lá hiếm khi thấy xuất hiện trên thị trường Mỹ, thậm chí những
đường cong, đường uốn cũng phải được giảm thiểu một cách tối đa. Trang trí chủ
yếu là các đường thẳng chìm hoặc nổi và các nắm tay cầm to hình tròn bằng gỗ
hoặc bằng đồng. Tất cả đều đi thành bộ với nhau như giường, bàn ghế, tủ áo quần,
11
tủ đựng thuốc…Một số sản phẩm rất được ưa chuộng gần đây là các loại tủ nhiều
ngăn (4-6 ngăn) có tay cầm hình tròn, khung ảnh và khung gương to bản…
Nói chung thị trường Mỹ không quá khó tính và nhiều khi mẫu mã sản phẩm
đã cũ kỹ đối với bang này nhưng lại bán rất chạy khi chuyển đến bang khác. Ngoài
ra, cách phân phối hàng thường kết hợp giữa việc bán hàng trên mạng và phân phối
tại các hệ thống cửa hàng bán lẻ nên các nhà nhập khẩu thường yêu cầu đối tác có
khả năng cung cấp số lượng lớn và rút ngắn thời gian giao hàng.Nếu một lô hàng
sản xuất mất hai tháng, thì thời gian từ khi đặt hàng đến tay người nhận và tung ra
thị trường mất khoảng từ 4-5 tháng là quá lâu, nhiều doanh nhân Mỹ yêu cầu rút
ngắn thời gian sản xuất một lô hàng xuống còn 20-25 ngày.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng Mỹ cũng thích đồ gỗ làm từ nguyên liệu gỗ
cứng, tốt nhất là gỗ của Bắc Mỹ hơn là đồ gỗ làm từ các loại gỗ mềm.Tuy nhiên,
theo kinh nghiệm của một số doanh nghiệp chế biến đồ gỗ Việt Nam thì người tiêu
dùng Mỹ có vẻ ưa chuộng vẻ đẹp bên ngoài, họ không thích “ tốt gỗ hơn tốt nước
sơn” mà ngược lại “ tốt nước sơn hơn tốt gỗ”. Họ không cần các sản phẩm được
làm bằng các loại gỗ tốt như lim, gụ…mà chỉ cần gỗ cao su, gỗ thầu đâu, thậm chí
là MDF (ván gỗ ép) nhưng nước sơn phủ bên ngoài phải thật đẹp. Để đạt được nước
sơn phủ lên các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu sang Mỹ khá phức tạp, khó hơn nhiều so
với yêu cầu của các thị trường EU, thường để hoàn tất chu trình sơn một sản phẩm
hoàn hảo cho thị trường Mỹ có khi phải sơn đến 10 lần.
1.2.3 Những định chế và đòi hỏi của thị trường
1.2.3.1 Những vấn đề chung về hải quan
Nhìn chung hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được phân thành 3 loại chủ yếu: hàng

hoá để sử dụng ngay, hàng hoá được lưu giữ trong kho hàng và hàng quá cảnh. Yêu
cầu nhập khẩu cho cả ba loại hàng này là như nhau, nhưng thời gian để hoàn tất các
thủ tục hải quan cho mỗi loại là khác nhau.
Để nhập khẩu hàng hoá, nhà nhập khẩu (thường là người mua hàng hay nhà
môi giới hải quan) ngoài việc phải trả một khoản lệ phí hải quan, phải trình những
giấy tờ khác gồm: Vận đơn, hoá đơn thương mại của nhà xuất khẩu, bản kê khai
hàng hoá chở trên tàu hoặc đơn xin và giấy phép đặc biệt cho giao hàng ngay, phiếu
12
đóng gói
Theo quy định của Hải quan Mỹ, sau khi xuất trình các chứng từ trên, hàng
hoá sẽ được thông quan nếu không có vi phạm gì về pháp luật hoặc hành chính. Hồ
sơ nhập khẩu sẽ được lưu và thuế nhập khẩu ước tính phải được thanh toán trong
vòng 10 ngày làm việc kể từ lúc giải phóng hàng hoá ở trạm hải quan được chỉ định.
Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, các thủ tục rời bến được cho là quá
nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Hải quan Mỹ đã thay đổi phân loại gỗ dán
(HS 4412) và nhiều loại đã bị tăng thuế từ 0% lên 8%. Còn với hàng gỗ nội thất
(HS94), thủ tục hải quan không quá khó khăn. Việc nhập khẩu hàng gỗ và gỗ nội
thất phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định
trong các bộ luật của các quy định liên bang.
Tất cả hàng hoá được nhập vào Mỹ phải được dán nhãn xuất xứ. Hải quan Mỹ
có một yêu cầu chung cho việc ghi nước xuất xứ vào tất cả các mặt hàng ngoại nhập
vào Mỹ. Các mặt hàng này phải được dãn nhãn dễ đọc với tên tiếng Anh của nước
xuất xứ trừ phi pháp luật có quy định khác. Trong các sản phẩm gỗ, chỉ gỗ xẻ, rào
gỗ, gỗ lát nền là không cần dán nhãn xuất xứ. Nhãn mác xuất xứ phải dễ đọc và
phải dán ở mặt dễ nhận thấy, đồng thời phải khó tẩy xoá và lâu bền cùng sản phẩm.
Tuy nhiên bất kỳ một biện pháp hợp lý trong dãn nhãn đều được chấp nhận kể cả
mác dính. Chỉ có một điều kiện duy nhất là mác dính đó phải luôn dính trên sản
phẩm và chỉ có thể bị phá huỷ bởi các hành động có chủ tâm.
Các hàng hoá được yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ nếu nhập vào Mỹ mà
không có nhãn mác xuất xứ sẽ phải nộp thuế phụ thu hoặc bị phá huỷ theo yêu cầu

điều của hải quan trước khi đưa vào Mỹ. Các nhà xuất khẩu nên dán nhãn xuất xứ
vào sản phẩm một cách chính xác để tránh bị phạt và nộp phí bổ sung tại Hải quan.
Quy định về thuế và thuế nhập khẩu
Mức thuế ở Mỹ nói chung là thấp. Đối với đồ gỗ thuộc mã HS44, thuế quan
thay đổi từ 0-10,7%. Trên thực tế, thuế đánh vào gỗ dán cao nhất (8 và 10,7%).
Thuế suất được áp dụng cho hàng gỗ nội thất (mã HS 94) đa số là 0% và có một số
mặt hàng đệm giường bằng lông vịt có mức thuế 9 và 13% (HTS 94043080 và
94049085 là 13%).
13
Một số công ty sản xuất gỗ làm sàn nhà đã phàn nàn về gánh nặng thuế phụ
thu đánh vào các nhà nhập khẩu, điều này sẽ làm tăng mức thuế nhập khẩu. Cụ thể:
+ Phí xử lý hàng hoá (MPF) (0,21%) theo giá FOB, trị giá từ 25 USD đến 485
USD. Phí này do Hải quan Mỹ và Puerto Rico thu
+ Thuế bảo quản cầu cảng (HMT) (0,125%) giá FOB.
+ Loại khác: Phí thanh quản và tiền đặt cọc (bond) nộp cho Hải quan
Biểu thuế nhập khẩu của Mỹ được đăng trên mạng của Uỷ ban Thương mại
Quốc tế của Mỹ là : www. usitc.gov.
Các chứng chỉ và tiêu chuẩn của Mỹ đối với mặt hàng đồ gỗ
Ổ rơm hay đồ bao bọc bằng gỗ khi nhập vào Mỹ phải có giấy chứng nhận vệ
sinh dịch tễ. Giấy chứng nhận này có thể do nhà xuất khẩu cung cấp. Giấy chứng
nhận cần xác nhận rằng các sản phẩm không bị nhiễm bệnh hay dịch của gỗ. Quy
định này do Văn phòng điều tra sức khoẻ động thực vật ban hành tại các điều khoản
của 7 CFR 300 và 7 CFR 319. Giấy chứng nhận xử lý nhiệt cũng được yêu cầu đối
với việc nhập khẩu các nguyên liệu đóng gói bằng gỗ.
Hiệp hội ngành gỗ CEI Bois đã chuyển đến ban tư vấn những phàn nàn liên
quan đến các khó khăn mà các thành viên gặp phải trong việc tuân thủ một số tiêu
chuẩn của Mỹ:
+ Gỗ thông xẻ khung: chất lượng của các bộ phận của gỗ xẻ phải được Uỷ ban
tiêu chuẩn gỗ Mỹ thử nghiệm và công nhận trên cơ sở vị trí địa lý của khu vực trồng.
+ Gỗ thông đã được cưa (HS 4407): Hệ thống ALS yêu cầu kiểm tra kỹ thuật

thiết yếu và giám sát chất lượng hàng tháng tại xưởng cưa đối với cấp độ xây dựng.
+ Gỗ ván sàn: Chi phí vận tải cao hơn do việc hạn chế khối lượng vận tải (21
tấn/xe chở). Theo các nhà xuất khẩu và nhập khẩu của Mỹ, quy định vận tải của Mỹ
không cho phép các xe có trọng lượng vượt quá 21 tấn.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như: các quy tắc vệ sinh dịch tễ và các yêu
cầu về chứng chỉ vệ sinh dịch tễ đối với đồ gỗ nội thất được nhồi đệm quá phiền
phức hay các quy định kiểm tra gỗ thông của Mỹ khác với quy định của EU.
Các công ty nhập khẩu chủ yếu phàn nàn về các quy tắc phân loại gỗ. Chương
trình phân cấp gỗ này do Uỷ ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ (ALSC) thực hiện. Uỷ ban này
bao gồm các nhà sản xuất, phân phối, sử dụng và người tiêu dùng, hoạt động như
14
một uỷ ban thường trực về tiêu chuẩn gỗ thông của Mỹ (tiêu chuẩn sản phẩm tự
nguyện PS 20). Uỷ ban này cũng phụ trách quản lý các chương trình uỷ nhiệm phân
loại cấp bậc gỗ được sản xuất theo PS20. Hệ thống tiêu chuẩn gỗ của Mỹ (ALS) là
một bộ phận thống nhất của nền kinh tế công nghiệp gỗ, là cơ sở cho giao dịch
thương mại của tất cả các loại gỗ thông tại khu vực Bắc Mỹ. Hệ thông này cũng đưa
ra các tiêu chuẩn chấp thuận gỗ và giá trị kiểu dáng gỗ thông qua việc xây dựng một
bộ luật chung cho toàn liên bang.
Như đã ghi nhận ở trên, chức năng của hệ thống ALS là để đảm bảo các tiêu
chuẩn gỗ thông của Mỹ. Uỷ ban ALSC theo thủ tục phát triển các tiêuc chuẩn hàng
hoá một các tự nguyện của Bộ Thương mại Mỹ, thông qua quá trình đồng thuận sẽ
thiết lập các tiêu chuẩn kích cỡ, các khoản điều tra, các chính sách, các yêu cầu dán
nhãn phân loại và các chế tài cho chương trình chứng nhận. Các hoạt động trên
được Uỷ ban ALSC thực hiện hoặc thông qua khuôn khổ do ALSC, PS20 và Uỷ
ban quy tắc phân loại quốc gia(NGRC) thành lập. Uỷ ban NGRC là một cơ quan có
thẩm quyền hoạt động theo quyết định của ALSC trong một số lĩnh vực cụ thể liên
quan đến việc đảm bảo các quy tắc phân loại quốc gia cho hàng gỗ kích thước lớn.
Thậm chí nếu các tiêu chuẩn của ALDS có vẻ như không bắt buộc thì các nhà
xuất khẩu hàng vào Mỹ cũng nên xem xét việc tôn trọng các tiêu chuẩn của Mỹ để
tiêu thụ hàng hoá của mình tại Mỹ. Việc tôn trọng các tiêu chuẩn này sẽ gây ra các

chi phí bổ sung cho các công ty xuất khẩu, bởi vì họ sẽ phải tiền hành những bước
thử nghiệm mới và phải lắp đặt máy móc mới.
Theo chính sách đối với gỗ ngoại nhập của ALSC, các văn phòng công ty
nước ngoài có thể được chứng nhận, phân loại hàng gỗ. Đối với gỗ có nguồn gốc
nước ngoài được phân loại theo hệ thống ALSC. Việc phân loại phải được thực hiện
trên cơ sở các thủ tục đã được ALSC quy định và các quy định phân cấp quốc gia
cho gỗ có kích thước lớn hoặc quy tắc phân loại do Văn phòng hoạch định quy tắc
Mỹ ban hành.
Cùng với chương trình chứng nhận gỗ chưa được xử lý, Uỷ ban ALSC cũng
quản lý chương trình dán nhãn chất lượng cho gỗ đã qua xử lý được sản xuất theo
15
tiêu chuẩn do Hiệp hội bảo tồn gỗ Mỹ ban hành và giám sát, chương trình dán nhãn
gỗ nguyên liệu đóng gói không có nguồn gốc công nghiệp do Hiệp ước bảo vệ gỗ
quốc tế quy định. Từ tháng 7/2001, chương trình đóng gói gỗ không có nguồn gỗ
công nghiệp đã được áp dụng
Theo một số công ty, cần phải bỏ nhiều chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn
phân loại của Mỹ. Để có thể xuất khẩu gỗ chưa được xử lý sang Mỹ, các tiêu chuẩn
của Mỹ yêu cầu tiệt trùng cụ thể và các thiết bị để tiệt trùng lại rất đắt. Hơn thế,
máy móc thiết bị sản xuất phải được văn phòng do Mỹ uỷ quyền kiểm tra. Các công
ty thường miễn cưỡng xuất trình kỹ thuật này bởi họ không biết liệu công việc kinh
doanh của mình với Mỹ có thành công hay không. Canada cũng áp dụng quy định
tương tự và chính tình trạng này đã làm hạn chế việc xuất khẩu của các nước vào thị
trường Bắc Mỹ.
Quy tắc về dán nhãn
Hàng gỗ nội thất cần được dán nhãn theo đúng luật dán nhãn và đóng gói hợp
lý CFR, mục 500-503.
Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý yêu cầu mỗi kiện hàng hoá tiêu dùng dành
cho hộ gia đình phải mang nhãn hiệu hàng hoá, theo đó:
+ Tuyên bố xác định hàng hoá
+ Tên và địa chỉ của nơi sản xuất, đóng gói hoặc phân phối

+ Khối lượng tịnh của sản phẩm về mặt trọng lượng, kích thước hay số đếm
(kích thước phải được đo bằng đơn vị inch và cm)
Liên quan đến đồ nội thất gia đình, Uỷ ban Thương mại Liên bang đã thông
qua một hướng dẫn cho ngành công nghiệp đồ gỗ gia dụng. Hàng nội thất và các bộ
phận của nó phải tuân thủ với các quy định cụ thể với mục đích bảo vệ người tiêu
dùng. Hướng dẫn này dự báo từng nhãn hàng hoá cụ thể miêu tả đồ gỗ và hàng nhái
cũng như nhãn hiệu liên quan đến đặc điểm của hàng hoá. Nhãn hiệu cần chứa đựng
các thông tin về kiểu dáng và nguồn gốc xuất xứ hàng hoá. Hướng dẫn này cũng
điều chỉnh việc sử dụng một số thuật ngữ cụ thể. Thông tin đầy đủ của cuốn hướng
16
dẫn này có thể tham khảo trên website của Uỷ ban Thương mại liên bang. Các quy
định này không bắt buộc phải tuân thủ đối với thủ tục Hải quan nhưng phải tuân thủ
nếu muốn bán hàng tại Mỹ.
Bên cạnh đó, đạo luật các chất có khả năng gây hại của Liên bang còn bổ sung
một số yêu cầu đối với hàng gỗ gia dụng dùng cho trẻ em (giường). Các nhà nhập
khẩu hàng nhồi đệm cần phải chú ý rằng một số nước đã quy định dán nhãn bổ sung
đối với đồ gỗ cho trẻ em hoặc các dạng khác của đồ gỗ nội thất.
1.2.3.5 Phân tích luật pháp
Các quy định của Mỹ về gỗ và đồ gỗ như sau:
HTS 44: gỗ và sản phẩm gỗ: Bao gồm gỗ củi, gỗ đốt lấy than, gỗ cây, gỗ
vun, mạt gỗ, gỗ làm đưòng ray, gỗ xẻ, gỗ băm, gỗ lạng, gỗ ván ép, gỗ ép từ vụn gỗ,
gỗ làm khung, gỗ đóng thùng hàng, gỗ mỏ, gỗ xây dựng, v.v.vvà các đồ dùng dụng
cụ bằng gỗ, như mắc áo, đồ gỗ nhà bếp.v.v
Đối với danh mục này việc nhập khẩu phải:
+ Phù hơp với quy định của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) về giám định hàng
tại cảng đến.
+ Phù hợp với luật liên bang về sâu bệnh ở cây.
+ Phù hợp với luật cách ly và kiểm dịch.
+ Phù hợp với quy định của Hội đồng thương mại liên bang (FTC) và Hội
đồng an toàn tiêu dùng (nếu là hàng tiêu dùng)

+ Phù hợp với các quy định về lập hoá đơn (đối với một số hàng gỗ)
+ Phù hợp với các quy định của FWS về giấy phép nhập khẩu, giấy phép
xuất khẩu của nước xuất xứ, các quy định về tài liệu giao hàng và hồ sơ theo dõi
(nếu là gỗ quý hiếm).
+ Nhập vào cửa khẩu/cảng theo địa chỉ của FWS và phù hợp với các quy định
của FWS và Hải quan về việc thông báo hàng đến và giám định tại cảng đến (nếu
thuộc loại quý hiếm)
+ Nhập khẩu gỗ cây phải xin giấy phép của APHIS thuộc USDA.
17
+ Nhập khẩu gỗ quý hiếm phải ghi nhãn (Marking) rõ ràng bên ngoài
container tên và địa chỉ người xuất khẩu và người nhập khẩu, mô tả chính xác
chủng loại gỗ.
HTS 94: Đồ nội thất: Bao gồm các loại ghế, đồ đạc dụng cụ trong bệnh viện;
các đồ đạc trong nhà, văn phòng, giường, tủ, bàn ghế, đệm; đèn và các tấm ngăn
xây dựng làm sẵn …Các đồ dùng này có thể làm hoàn toàn bằng kim loại, gỗ, nhựa,
hay làm khung có bọc da, vải hoặc các vật liệu khác.
Đối với danh mục hàng này, việc nhập khẩu phải:
+ Phù hợp các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban An toàn tiêu dùng
(CPSC) về an toàn tiêu dùng.
+ Đối với đệm: phù hợp với các tiêu chuẩn chống cháy theo luật về vải dễ
cháy FFA.
+ Đối với đồ thắp sáng gia dụng phải phù hợp các tiêu chuẩn Underwriter’s
Laboratory (UL),do CPSC quản lý.
+ Các đồ có thành phần là vải dệt phải ghi theo các quy định của TFPIA xác
định về nguồn gốc vải.
1.2.4 Hệ thống phân phối đồ gỗ trên thị trường Hoa Kỳ
Theo thống kê của tạp chí Furniture Today, tại thị trường nội thất Hoa Kỳ có
khoảng 69 kênh phân phối chia thành 11 nhóm: Nhóm các cửa hàng nội thất chính;
Nhóm các cửa hàng đồ nội thất dành cho các phân khúc chuyên biệt; Nhóm các nhà
phân phối, nhà bán sỉ; Nhóm cửa hàng chỉ dành cho các thành viên; Nhóm phục vụ

mua sắm tại nhà; Nhóm phục vụ mua sắm thông qua các hình thức thương mại điện
tử; Nhóm cho thuê; Nhóm kinh doanh tổng hợp; Nhóm thiết kế, trang trí nhà;
Nhóm kinh doanh hàng second-hand; Nhóm các cửa hàng không chuyên về hàng
trang trí nội thất.
Bán lẻ là kênh phân phối lớn nhất ở Hoa Kỳ: doanh thu của 100 nhà bán lẻ lớn
18
nhất Hoa Kỳ chiếm khoảng 20% doanh thu toàn liên bang, doanh thu của các chuỗi
cửa hàng nội thất chiếm khoảng 30%, doanh thu bán đồ nội thất của các siêu thị lớn
như Wal-Mart, Sears, K-Mart và Target chiếm khoảng 5% và doanh thu của các cửa
hàng bách hoá chiếm khoảng 4-5%.
Các nhà bán lẻ đồ nội thất lớn nhất Hoa Kỳ bao gồm: Rooms-To-Go, Pier
One, Ethan Allen, Berkshire-Hathaway Group, IKEA, La-Z-Boy, Levitz Furniture,
Ashley Home, American Signature và Haverty.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM
SANG HOA KỲ
2.1 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG HOA KỲ
2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong 6 năm trở lại đây đều có
mức tăng trưởng tốt với 3 con số, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu đồ gỗ của Việt Nam.Hiệp định thương mại Việt- Mỹ ký kết và có hiệu lực vào
cuối năm 2001 đã mở rộng cánh cửa giao thương cho thị trường hai nước.Nếu như
trước năm 2000, hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ phải chịu mức thuế rất cao hay
phần lớn xuất khẩu trung gian qua Đài Loan, thì nay Việt Nam đã có thể xuất khẩu
trực tiếp sang Hoa Kỳ với giá thấp hơn, qua đó giảm được tình trạng bị ép giá và
đồng thời dần khẳng định mình là nhà cung cấp sản phẩm đồ gỗ vào thị trường Hoa
Kỳ đầy tiềm năng so với các nước trong khu vực.
Bảng 2.4 : Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ
ĐVT: Triệu USD

Năm
KNXK đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ
(triệu USD)
Tốc độ tăng trưởng
(%)
2001 16,1 -
2002 44,7 177,6
2003 115,5 158,4
2004 318,9 176,1
2005 479,24 50,3
2006 744 55,2

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Giai đoạn từ 2001-2004, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ
có những bước phát triển đột phá. Nếu như từ những năm 1998 trở lại đây kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam đạt mức tăng trưởng trung
bình 64%/năm thì riêng năm 2002 kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã tăng lên 3
lần so với năm 2001, với tốc độ tăng trưởng 177,6%, năm 2003 tốc độ tăng trưởng
20
là 158,4 % và năm 2004 là 176,1 %. Sở dĩ có được sự tăng trưởng thần kỳ vậy là do
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ mới có hiệu lực, thuế nhập khẩu đồ gỗ từ Việt
Nam giảm mạnh trung bình từ 50-55% xuống còn 0-3%. Mặt khác, các công ty Hoa
Kỳ đang có xu hướng khai thác thêm nguồn hàng ngoài Trung Quốc để đối phó với
thuế chống bán phá giá đối với hàng đồ gỗ dùng trong phòng ngủ nhập từ nước này
và để tránh phụ thuộc quá nhiều vào một nguồn cung.
Trong hai năm trở lại đây 2005 và 2006, tốc độ tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu
có xu hướng chậm lại. Cụ thể năm 2005 tốc độ tăng kim ngạch đạt 50,3% và năm 2006 đạt
2006 đạt 55%. Nguyên nhân của sự tăng trưởng chậm lại là do giá nguyên liệu gỗ vào Việt
Nam tăng từ 20-22%, do nạn cháy rừng, lũ lụt, môi trường suy thoái…do chi phí cho cước
vận chuyển tăng vì giá dầu mỏ và nhiên liệu thế giới tăng. Bên cạnh đó là việc một số

doanh nghiệp sản xuất chế biến đồ gỗ Trung Quốc bắt đầu đầu tư ồ ạt sang sản xuất tại
Việt Nam để tránh hàng rào thuế nhập khẩu cao của Hoa Kỳ. Điều này vô tình đẩy các
doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Việt Nam thêm một đối thủ ngay cùng một sân chơi, các
doanh nghiệp Trung Quốc đã rất biết tận dụng nhân công Việt Nam, biết cách khai thác
bàn tay tài hoa của người thợ. Đặc biệt những quy trình công nghệ sản xuất hiện đại hơn
các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều.
Bảng 2.5: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ trong
tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
ĐVT: Triệu USD
Năm
Tổng KNXK đồ
gỗ của Việt Nam
KNXK đồ gỗ Việt
Nam sang Hoa Kỳ
Tỷ trọng KNXK đồ gỗ sang
Hoa Kỳ trong tổng KNXK đồ
gỗ của Việt Nam
2001 335 16,1 5,0
2002 436 44,7 10,3
2003 567 115,5 20,4
2004 1.139 318,9 28,0
2005 1.612 479,24 29,7
2006 1.933 744 38,5
21
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
giai đoạn 2001-2006
Trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
tăng nhanh kéo theo sự gia tăng của tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ cả nước. Nếu
như năm 2001 tỷ trọng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ mới chỉ

chiếm 5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của cả nước thì đến năm 2006 con
số này đã tăng lên 38,5%. Với mức tỷ trọng này Hoa Kỳ đã vươn lên giành vị trí số
một trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu của đồ gỗ Việt Nam, vượt qua hai thị
trường truyền thống là Nhật Bản và các nước EU.
2.1.2 Cơ cấu mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu
Đồ gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ được chia ra thành 10 nhóm cơ bản: đồ nội thất
văn phòng, đồ nội thất nhà bếp, đồ trang trí, đồ nội thất phòng ngủ, ghế, đồ nội thất
phòng ăn, cửa, gỗ ván và các loại khác. Nhìn chung về cơ cấu mặt hàng đồ gỗ xuất
sang Hoa Kỳ khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, cơ cấu xuất khẩu giữa các
nhóm mặt hàng này vẫn chưa có sự đồng đều và rất cần phải có sự nỗ lực điều
chỉnh để đạt được sự cân bằng hơn trong thời gian tới.
Bảng 2.6:Cơ cấu sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Năm 2004 2005 2006 TB
Nội thất phòng ngủ
Kim ngạch
( triệu USD)
80,363 143,292 285,696
tỷ trọng (%) 25,2 29,9 38,4 31,17
Cửa
Kim ngạch
( triệu USD)
3,189 5,272 10,416
22
tỷ trọng (%) 1 1,1 1,4 1,16
Đồ trang trí
Kim ngạch
( triệu USD)
4,467 7,188 14,136
tỷ trọng (%) 1,4 1,5 1,9 1,6
Thủ công mỹ nghệ

Kim ngạch
( triệu USD)
5,740 7,188 7,440
tỷ trọng (%) 1,8 1,5 1,0 1,43
Gỗ ván
Kim ngạch
( triệu USD)
25,512 23,962 5,208
tỷ trọng (%) 8,0 5,0 0,7 4,57
Nội thất nhà bếp
Kim ngạch
( triệu USD)
8,610 11,981 21,576
tỷ trọng (%) 2,7 2,5 2,9 2,7
Phòng khách, phòng ăn
Kim ngạch
( triệu USD)
64,737 104,474 169,632
tỷ trọng (%) 20,3 21,8 22,8 21,64
Ghế
Kim ngạch
( triệu USD)
38,268 64,218 105,648
tỷ trọng (%) 12 13,4 14,2 13,2
Nội thất văn phòng
Kim ngạch
( triệu USD)
51,024 71,407 30,504
tỷ trọng (%) 16 14,9 4,1 11,67
Loại khác

Kim ngạch
( triệu USD)
36,992 46,965 93,744
tỷ trọng (%) 11,6 9,8 12,6 11,33
(Nguồn: Hải quan Hoa Kỳ-www.customs. ustreas.gov)
Biểu đồ 2: Cơ cấu sản phẩm gỗ đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
23
Trong cơ cấu đồ gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ những
năm gần đây, nhóm hàng đồ nội thất phòng ngủ luôn có kim ngạch dẫn đầu với tỷ
trọng bình quân là 31,17%. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 285
triệu USD tăng 99% so với năm 2005 và chiếm 68% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ
nội thất phòng ngủ của cả nước. Đồ nội thất phòng ngủ tiếp tục là sản phẩm xuất
khẩu có thế mạnh của Việt Nam sang thị trường này.
Đứng thứ hai sau nhóm hàng đồ nội thất phòng ngủ là đồ nội thất phòng khách
và phòng ăn. Tỷ trọng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn trong tổng kim ngạch
đồ gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng có xu hướng tăng lên. Từ 20,3% năm 2004
lên 21,8% năm 2005, tiếp theo đó là 22,8% năm 2006. Với tốc độ tăng trưởng như
thế, tỷ trọng bình quân của nhóm hàng này trong ba năm qua đạt 21,64%
Tiếp theo là mặt hàng ghế gỗ, đây là mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất trong cơ
cấu mặt hàng gỗ nhập khẩu của Hoa Kỳ (chiếm 15% nhập khẩu của nhóm
HTS94).Trong thời gian gần đây Việt Nam cũng đã chú trọng đến nhóm hàng này,
thể hiện ở tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, tỷ trọng bình quân
trong ba năm gần đây đạt 13,2%
Nhóm hàng nội thất văn phòng và nhóm các mặt hàng đồ gỗ khác có tỷ trọng
gần xấp xỉ nhau qua các năm ( tỷ trọng bình quân của đồ nội thất văn phòng là
11,67% còn của đồ gỗ khác là 11,33%). Tuy nhiên nhóm hàng nội thất văn phòng
đang có xu hướng giảm tỷ trọng, năm 2006 chỉ chiếm 4,1% trong khi tại năm 2004
là 16%. Hiện nay, thị trường Hoa Kỳ đang có nhu cầu nhập khẩu rất lớn đồ gỗ văn
phòng, đồ gỗ cao cấp ở các công sở thì Việt Nam lại bỏ bê nhóm hàng này. Trong
thời gian tới các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam cần chú ý phát triển để ngày

càng đa dạng hoá các chủng loại mặt hàng trên thị trường đầy tiềm năng này, đồng
thời tránh nguy cơ bị đánh thuế chống phá giá.
2.1.3 Năng lực cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ
2.1.3.1 Về chất lượng và giá thành
- Về chất lượng sản phẩm
Một sản phẩm gỗ có chất lượng cao là sản phẩm phải đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu của thị trường quốc tế về các yếu tố chỉ tiêu kỹ thuật, các quy định pháp luật
24
liên quan đến việc khai thác và xuất khẩu gỗ như Chứng chỉ rừng FSC, Chứng chỉ
chuỗi hành trình sản phẩm CoC, đóng gói, ký mã hiệu, kiểu dáng- mẫu mã.
Về tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu gỗ, hiện nay nổi lên một vấn đề là các nhà
nhập khẩu đều đòi hỏi phải có các chứng chỉ FSC và CoC có mức chi phí khá cao
so với năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam vì phần lớn đều là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay, nhiều nhà doanh nghiệp Hoa Kỳ không nhập
khẩu đồ gỗ của Indonesia vì nước này thường sử dụng gỗ lậu. Vì thế có nhiều hợp
đồng chuyển qua Việt Nam nhưng rất tiếc nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có
Chứng chỉ rừng nên chưa đáp ứng được các đơn hàng lớn.
Về các chỉ tiêu kỹ thuật, đồ gỗ của Việt Nam đã được đánh giá khá cao trên thị
trường Hoa Kỳ, đáp ứng cơ bản về kích thước theo đơn đặt hàng, bề mặt sản phẩm,
độ khô, độ nhũ bóng mờ, xông khói tiệt trùng do máy móc chế tác đã được cải tiến
theo qui trình công nghệ, dây truyền sơn tĩnh điện hiện đại, công nghệ gỗ in vân…
Về mẫu mã, đồ gỗ Việt Nam ngày càng phong phú và phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng Mỹ nhưng so với các nước trong khu vực như Trung Quốc,
Indonesia, Malaysia, Thái Lan thì chưa có được ưu thế nên giá sản phẩm cùng loại
với các nước đó thường thấp hơn 10-15%. Nguyên nhân cơ bản là đa số các doanh
nghiệp vẫn còn thụ động, sản xuất theo mẫu của đối tác mà không đưa ra được thiết
kế mang tính đặc trưng cho sản phẩm Việt Nam, thiếu trầm trọng đội ngũ thiết kế
mẫu mã và chi phí đầu tư đủ mức cần thiết. Do vậy, sức cạnh tranh của sản phẩm
kém và giá bán chưa thể nâng cao. Bản thân các doanh nghiệp cũng chưa đầu tư
đúng mức cho các ấn phẩm thể hiện phong cách , mẫu mã và chất lượng của mình.

- Về giá cả xuất khẩu
Đồ gỗ Việt Nam, khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thường được chào bán
với hai loại giá: Giá FOB cảng đi và giá CIF cảng đến, trong đó giá FOB được sử
dụng phổ biến hơn cả. Sở dĩ như vậy vì các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ Việt
Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ thuê tàu biển để vận chuyển hàng
cũng như trong việc mua bảo hiểm cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển đến địa
điểm giao hàng cho người mua. Đây là một bất lợi bởi vì nếu bán với giá CIF,
25

×