Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Từ láy trong Thời xa vắng của Lê Lựu luận án thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.83 KB, 104 trang )


i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



HÀ THỊ CHUYÊN




TỪ LÁY TRONG “THỜI XA VẮNG” CỦA LÊ LỰU

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHẠM VĂN HẢO






THÁI NGUYÊN - 2013

ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kì công trình nào khác. Các thông tin, số liệu trích dẫn trong
luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn


Hà Thị Chuyên





iii
LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
PGS. TS Phạm Văn Hảo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
để tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn,
khoa Sau Đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều
kiện giúp đỡ tác giả nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi

hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả


Hà Thị Chuyên

iv
MỤC LỤC
Trang bìa phụ i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 7
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 7
1.1. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt 7
1.1.1. Phương thức ghép 7
1.1.2. Phương thức láy 8
1.2. Từ láy tiếng Việt 9
1.2.1. Đặc điểm hình thức 9
1.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa 13
1.2.3. Nhận diện từ láy và sáng tạo từ láy 17
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Lê Lựu 19
1.3.1. Con người và cuộc đời 19
1.3.2. Sự nghiệp văn chương 21
1.3.3. Tác phẩm “Thời xa vắng" 23
1.4. Tiểu kết chương 1 24
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG "THỜI XA VẮNG" CỦA LÊ

LỰU 25
2.1. Thống kê từ láy trong “Thời xa vắng” của Lê Lựu 25
2.2. Những từ láy Lê Lựu sử dụng 26
2.2.1. Về cấu tạo 26
2.2.2. Về ngữ nghĩa 33
2.3. Những từ láy do Lê Lựu sáng tạo 41
2.3.1. Số lượng 41

v
2.3.2. Cách tạo đơn vị 42
2.4. Tiểu kết chương 2 47
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ TỪ LÁY TRONG "THỜI XA VẮNG" CỦA LÊ
LỰU 49
3.1. Dẫn nhập 49
3.2. Giá trị của từ láy Lê Lựu sử dụng 49
3.2.1. Giá trị của từ láy trong miêu tả 49
3.2.2. Giá trị biểu cảm của từ láy 67
3.2.3. Giá trị của từ láy trong thể hiện phong cách nghệ thuật 75
3.3. Giá trị của từ láy do Lê Lựu sáng tạo 79
3.3.1. Giá trị của từ láy trong cảm nhận về không gian 79
3.3.2. Giá trị của từ láy trong cảm nhận về âm thanh 81
3.3.3. Giá trị của từ láy trong cảm nhận về con người 83
3.4. Tiểu kết chương 3 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp xã hội quan trọng nhất của con
người. Nó gồm hệ thống từ và các quy tắc kết hợp chúng. Trong đó từ có vai
quan trọng hơn cả bởi nó là phương tiện để trao đổi tư tưởng, tình cảm. Từ
không chỉ có vai trò quan trọng trong giao tiếp mà nó còn là chất liệu để nhà
văn sáng tạo nên các phẩm nghệ thuật. Do vậy khi sáng tác, các nhà văn, nhà
thơ đều rất chú trọng trong việc lựa chọn từ, thậm chí đắn đo cân nhắc kĩ
lưỡng trước khi quyết định dùng một từ nào đó. Giá trị cũng như sức sống của
một tác phẩm có thể tồn tại được với thời gian hay không một phần phụ thuộc
vào khả năng lựa chọn và tổ chức từ ngữ của tác giả.
1.2. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng Việt, nó
giúp sản sinh ra một khối lượng từ khá lớn bổ sung vào vốn từ vựng. Chính vì
vậy, từ láy tiếng Việt lâu nay đã và đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Đối với các sáng tác văn chương, giá trị của từ láy
được thể hiện ở giá trị tượng thanh, tượng hình cũng như giá trị biểu cảm. Vì
vậy khi nói về tác dụng của từ láy Đỗ Hữu Châu có nhận định “Mỗi từ láy là
một nốt nhạc về âm thanh chứa đựng trong mình một bức tranh cụ thể của
các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác…làm theo những ấn
tượng chủ quan, những cách đánh giá, những thái độ của người nói trước sự
vật, hiện tượng đủ sức thông qua các giác quan hướng nội và hướng ngoại của
người nghe mà tác động mạnh mẽ đến họ…” [6, tr. 54]. Như vậy có thể thấy từ
láy là một công cụ đặc biệt của nhà văn, nhà thơ trong quá trình sáng tác. Việc
tìm hiểu từ láy trong các tác phẩm trữ tình đã được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm và thông qua các công trình nghiên cứu một lần nữa đã khẳng định vai trò
quan trọng của từ láy. Tuy nhiên văn học bên cạnh thể loại trữ tình chúng ta
còn phải kể tới thể loại tự sự mặc dù giá trị của từ láy sẽ không lớn như trong

2
thể loại trữ tình. Nhưng nó cũng có những vai trò nhất định trong tác phẩm và
góp một phần không nhỏ đem lại tiếng nói riêng của một nhà văn.
1.3. Thời xa vắng là tác phẩm tiêu biểu đánh dấu tên tuổi của Lê Lựu

trong làng văn Việt Nam hiện đại, mở đầu cho khuynh hướng nhận thức lại
hiện thực của văn học Việt Nam sau 1975. Với cái nhìn thế sự, nhà văn đã
phản ánh chân thực hình ảnh người lính ở hai mảng đời sống: chiến tranh và
hòa bình, với tất cả sự vênh lệch của số phận, tình yêu, hạnh phúc. Có thể nói
Thời xa vắng là một trong những tác phẩm đầu tiên mang trong mình dấu hiệu
của đổi mới văn học.
1.4. Với mong muốn khảo sát đặc điểm và giá trị của lớp từ láy trong
thể loại tự sự, chúng tôi chọn Từ láy trong “Thời xa vắng” của Lê Lựu làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Thông qua nghiên cứu Từ láy trong
“Thời xa vắng” của Lê Lựu chúng tôi hi vọng sẽ đem đếm một cái nhìn toàn
diện hơn về tác phẩm Thời xa vắng và qua đó phần nào thấy được phong cách
của nhà văn Lê Lựu.
2. Lịch sử vấn đề
Trong vốn từ vựng tiếng Việt từ láy có một vị trí không thể phủ định vì
vậy từ láy đã và đang được nhiều học giả quan tâm. Sức hấp dẫn của từ láy
thể hiện qua số lượng công trình nghiên cứu và các tác giả nghiên cứu là khá
lớn. Các công trình nghiên cứu về từ láy chúng ta có thể tạm chia thành hai
nhóm chính.
- Các công trình nghiên cứu về từ láy:
Khi nói tới nghiên cứu về từ láy tiếng Việt chúng ta phải kể đến các
tác giả tiêu biểu như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng
Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cương, Nguyễn
Thiện Giáp, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thị Hai, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản,
Hữu Đạt…

3
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: các sách nghiên cứu
về tiếng Việt trong đó có từ láy, những chuyên luận về từ láy các tác phẩm là
các bài nghiên cứu trên các tạp trí ví dụ như: Trường từ vựng ngữ nghĩa và
việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật của Đỗ Hữu Châu đăng trong tạp

chí ngôn ngữ số 3, 1974. Từ láy trong tiếng Việt và sự cần thiết phải nhận
diện nó của Phan Văn Hoàng đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 4, 1985. Cách
xử lí những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu in trong
tạp chí ngôn ngữ số 1, 1971. Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại của Hồ
Lê, Nxb Khoa học Xã hội, 1976. Từ láy trong tiếng Vỉệt của Hoàng Văn Hành
Nxb Khoa học Xã hội, 1985. Về một hiện tượng láy trong tiếng Việt của
Hoàng Văn Hành đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 2, 1979. Về từ lấp láy của
văn học thế kỷ XVII đăng trong cuốn “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về
mặt từ ngữ”, tập 2 Nxb Khoa học Xã hội, 1981. Vấn đề từ láy trong tiếng Việt
của Hà Quang Năng in trong từ láy những vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb Khoa học
Xã hội, 1988… Như vậy chúng ta có thể thấy rằng số lượng công trình nghiên
cứu về từ láy tiếng Việt là khá lớn. Nhưng tựu chung lại các nhà nghiên cứu
đều đề cập tới đặc trưng của từ láy ở các mức độ khác nhau như: cơ trình cấu
tạo, đặc trưng ngữ nhĩa, giá trị biểu cảm.
- Các công trình nghiên cứu về vài trò của từ láy trong tác phẩm cụ thể:
Trong điều kiện những tư liệu có được chúng tôi nhận thấy đã có nhiều
tác giả chú ý tới đề tài nghiên cứu từ láy trong các tác phẩm văn học Việt
Nam như: “Hệ thống từ láy tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỉ XIX”
luận văn thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Hường Đại học sư phạm Thái
Nguyên (2004), “Tìm hiểu giá trị của từ láy trong sử dụng (Khảo sát qua thơ
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương)” luận văn thạc sĩ ngữ văn của
Nguyễn Thị Thu Hương Đại học sư phạm Hà Nội, “Từ láy trong thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu” luận văn thạc sĩ khoa ngôn ngữ của Hoàng Thị Lan Đại
học sư phạm - Đại học Thái Nguyên, “Vai trò của từ láy trong một số tác phẩm

4
văn chương” luận văn thạc sĩ khoa ngôn ngữ của Nguyễn Thị Thanh Hoà - Đại
học sư phạm- Đại học Thái Nguyên, khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Kim
Loan – Tìm hiểu về từ láy trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả đều chỉ ra giá trị gợi

hình, gợi cảm, tạo âm hưởng của từ láy song chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức
độ khái quát.
Như vậy có thể thấy vai trò của từ láy trong văn chương đã và đang là
mảnh đất màu mỡ thu hút sự quan tâm của các học giả. Tuy nhiên những
đóng góp trong nghiên cứu từ láy hầu như chỉ tập trung ở thể loại trữ tình còn
thể loại tự sự đây vẫn là một vấn đề mới mẻ. Vì vậy với những tài liệu thu
thập được cùng với sự hướng dẫn của PGS. TS Phạm Văn Hảo, chúng tôi
mạnh dạn đi sâu tìm hiểu vấn đề Từ láy trong “Thời xa vắng” của Lê Lựu để
giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm Thời xa vắng cũng như
đóng góp và vị trí của Lê Lựu đối với nền văn học nước nhà, đồng thời bước
đầu tìm hiểu vai trò, tác dụng của từ láy trong tác phẩm tự sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là từ láy trong Thời xa vắng
của Lê Lựu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các đặc điểm từ láy Lê Lựu sử dụng và
những từ láy do nhà văn sáng tạo ở các mặt cấu trúc, ngữ nghĩa và giá trị sử
dụng của chúng trong tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu.
4. Mục đích nghiên cứu
- Điều tra khảo sát thống kê, phân loại từ láy trong tác phẩm Thời xa
vắng của Lê Lựu.

5
- Khảo sát nghiên cứu đặc điểm từ láy trong tác phẩm Thời xa vắng của
Lê Lựu về các phương diện cấu tạo, đặc điểm ngữ pháp và đặc trưng ngữ nghĩa.
- Bước đầu phân tích làm sáng tỏ vai trò, giá trị của từ láy trong tác
phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu trong việc xây dựng các chi tiết nghệ thuật,
gợi tả tâm trạng, thái độ của nhân vật, giọng điệu nghệ thuật. Trên cơ sở đó
rút ra một số nhận xét về nét đặc sắc của từ láy trong văn xuôi Lê Lựu.

- Đóng góp bước đầu cho việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm văn chương
Thời xa vắng của Lê Lựu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để cung cấp những số liệu thống
kê chính xác về từ láy tạo cơ sở thực tế đáng tin cậy để từ đó đưa ra những
nghiên cứu tiếp theo. Sử dụng phương pháp này chúng tôi đưa ra nhưng con số
thống kê về từ láy trong toàn bộ tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu, phân loại
chúng về kiểu láy, tần số xuất hiện, khả năng biểu đạt giá trị nội dung của chúng.
5.2. Phương pháp phân tích ngôn từ nghệ thuật
Đây là phương pháp xuyên suốt luận văn. Chúng tôi sẽ trực tiếp phân
tích các từ láy thể hiện trong các câu, đoạn văn. Khi nhận xét, đánh giá về từ
láy chúng tôi đồng thời đưa ra những dẫn chứng cụ thể để chứng minh về
những đặc điểm và giá trị của từ láy trong tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần tìm hiểu thêm về từ láy tiếng Việt. Đây cũng là lớp
từ đặc biệt quan trọng được sử dụng nhiều trong ngôn từ nghệ thuật, tạo nên

6
nhưng giá trị đặc sắc cho những tác phẩm văn chương, ngôn ngữ văn chương
nói chung và ngôn ngữ của tác giả trong đó có Lê Lựu nói riêng.
Luận văn góp phần nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị sử dụng của
một lớp từ khi tham gia vào các văn bản cụ thể, để thấy rõ tài năng, nét riêng
của tác giả văn học nói chung và Lê Lựu nói riêng trong nghệ thuật sử dụng
ngôn từ.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Việc tìm ra những đặc điểm của từ láy trong Thời xa vắng của Lê Lựu
giúp cho việc nghiên cứu và phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn xuôi của

ông được đầy đủ, chính xác và toàn diện hơn.
Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu về ngôn ngữ trong
văn xuôi nói chung và tác phẩm Lê Lựu nói riêng. Qua đó chúng tôi hi vọng
đóng góp một phần nhỏ bé của mình trong việc tìm hiểu các sáng tác của ông.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm ba chương với những nội dung chính sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề liên quan.
Chương 2: Đặc điểm từ láy trong “Thời xa vắng” của Lê lựu.
Chương 3: Giá trị từ láy trong “Thời xa vắng” của Lê lựu







7
NỘI DUNG

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

1.1. Phƣơng thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà hệ thống ngôn ngữ tác động
vào các hình vị, nhằm sản sinh ra từ cụ thể cho các chức năng ở cấp độ hình
thái học của một ngôn ngữ. Nếu coi hình vị và từ là hai đơn vị quan trọng
trong cấp độ này thì khái niệm phương thức cấu tạo từ chính là cách làm cho
các hình vị, những đơn vị hình thái không độc lập, được gia nhập vào một cấu
trúc hình thái mang tính độc lập cao hơn, thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể

như định danh hoặc tham gia vào các cấu trúc cao hơn như nhiệm vụ cú pháp
của phát ngôn.
Nếu không kể đến phương thức từ hóa hình vị để tạo từ đơn [6, tr. 27]
như kiểu: {bàn} (hình vị) → “bàn” (từ); {học} (hình vị) → “học” (từ); {lá}
(hình vị) → “lá” (từ)… thì tiếng Việt có thể coi là kết quả tác động vào hình
vị theo hai phương thức chính là ghép và láy.
1.1.1. Phương thức ghép
Theo Đỗ Hữu Châu “Ghép là phương thức dùng hai hoặc hơn hai đơn
vị cấu tạo từ riêng rẽ ghép lại với nhau theo những quy tắc nhất định để được
một từ, gọi là từ ghép” [7, tr. 34].
Chúng ta thấy rằng phương thức ghép tác động vào những đơn vị cấu
tạo từ có sẵn, riêng rẽ với nhau trên cơ sở mối quan hệ về nghĩa giữa các các
đơn vị đó. Nhìn chung các đơn vị tạo thành một từ ghép đều mang ý nghĩa.
Ví dụ: nhà cửa, không phận, xe máy…
Mối quan hệ ý nghĩa trong từ ghép được chia thành hai loại: quan hệ
chính phụ và quan hệ đẳng lập tương ứng với nó ta có từ ghép chính phụ và từ
ghép đẳng lập.

8
Từ ghép chính phụ
Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào thành tố cấu
tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại,
chuyên biệt hoá và sắc thái hoá cho thành tố chính.
Ví dụ: tàu hoả, đường sắt, sân bay, hàng không, nông sản, cà chua,
máy cái, dưa hấu, cỏ gà, xấu bụng, tốt mã, lão hoá, xanh lè, đỏ rực, ngay đơ,
thằng tắp, sưng vù,
Từ ghép đẳng lập
Đó là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với nhau
về nghĩa. Ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng.
Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành

tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này
không trùng nhau. Ví dụ khi ta so sánh: ăn ≠ ăn ở ≠ ăn nói ≠ ở ≠ nói
Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa.
Trong hầu hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này vốn rõ nghĩa
nhưng bị bào mòn dần đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ
nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví dụ:
chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sầu muộn, chó má, gà qué, cá
mú, xe cộ, áo xống,
Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một
trong những điểm làm cho nó khác với từ ghép chính phụ.
1.1.2. Phương thức láy
Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm ta gọi đó là
phương thức láy và nó tạo ra các từ láy (còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm).
Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và
còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy
và phương thức láy của tiếng Việt.

9
Một từ sẽ được coi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành
phần ngữ âm được lặp lại, nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi
(còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp ở âm đầu, đối ở phần vần. Vì thế, nếu chỉ
có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành
ngành, thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy.
1.2. Từ láy tiếng Việt
1.2.1. Đặc điểm hình thức
Từ láy được cấu tạo theo phương thức hòa phối ngữ âm. Phương thức
này biểu hiện ở quy tắc điệp và quy tắc đối. Điệp và đối ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng: điệp là sự lặp lại, sự thống nhất về âm, nghĩa; đối là sự sai khác,
sự di biệt về âm và nghĩa. Đồng nhất và dị biệt có quy tắc chứ không phải tùy
tiện, là ngẫu nhiên.

Vì vậy khi xem xét từ láy, ngữ âm được coi là đấu hiệu cơ bản. Về mặt
cấu tạo, từ láy tiếng Việt được phân loại trên hai cơ sở sau:
- Số lượng âm tiết trong từ láy.
- Sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo của các thành tố
trong từ láy do cách hòa phối ngữ âm tạo nên.
Căn cứ vào số lượng tiếng trong từ láy, trong tiếng Việt có các kiểu từ
láy hai tiếng, từ láy ba tiếng, từ láy bốn tiếng mà trong truyền thống tiếng Việt
thường gọi là từ láy đôi, từ láy ba, từ láy tư.
1.2.1.1. Từ láy đôi
Về hình thức, từ láy đôi bao gồm hai âm tiết (tiếng) có quan hệ với
nhau về mặt ngữ âm. Theo Hà Quang Năng “từ láy đôi chiếm vị trí hàng đầu
không chỉ vì nó chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số từ láy tiếng Việt, mà
chính là vì ở từ láy đôi, các đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất của hiện tượng
láy cả ở bình diện thể hiện âm thanh, lẫn bình diện ngữ nghĩa đều được bộc lộ
đầy đủ” [41, tr. 21].

10
Căn cứ vào quy tắc điệp - đối về mắt hình thức ngữ âm chúng ta có thể
phân loại từ láy đôi thành: từ láy hoàn toàn hay từ láy bộ phận.
Từ láy hoàn toàn
Đó “là những từ láy có sự đồng nhất, tương ứng hoàn toàn giữa các
thành phần cấu tạo của hai thành tố” [41, tr. 21] như: đùng đùng, ào ào, chằm
chằm, bừng bừng,…Ở từ láy hoàn toàn có các thành tố giống hệt nhau về
thành phần cấu tạo, chỉ khác nhau về trọng âm, thể hiện ở sự nhấn mạnh và độ
kéo dài trong phát âm và trọng âm thường rơi vào tiếng thứ hai của từ láy.
Tuy nhiên từ láy hoàn toàn không phải là chỉ có sự lặp lại âm thanh
nguyên vẹn mà còn có lặp lại âm thanh có biến đổi theo những quy tắc hòa phối
ngữ âm và có tác dụng tạo nghĩa. Điều này thể hiện ở từ láy hoàn toàn như sau:
+ Từ láy hoàn toàn điệp phụ âm đầu và khuôn vần, thanh điệu được
chuyển đổi để tạo thế đối lập.

Do hiện tượng phát âm lướt nhẹ ở các phụ âm đầu nên có thể xảy ra
hiện tượng biến thanh theo quy tắc chặt chẽ. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây
là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực và bằng đứng
trước, trắc đứng sau.
Ví dụ: đau đáu, hong hóng, he hé, lia lịa,…
+ Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng khác nhau về âm cuối.
Do hiện tượng phát âm lướt nhẹ ở tiếng đầu tiên nên có thể xảy ra hiện
tượng biến vần theo quy luật chặt chẽ. Các phụ âm tắc vô thanh –p, -t, -k (thể
hiện bằng con chữ c và ch), sẽ chuyển thành các phụ âm vang mũi cùng cặp –
m, -n, -ng (thể hiện bằng con chữ ng và nh).
Ví dụ:
p - m: chiếp chiếp - chiêm chiếp
t - n: sát sát - san sát
k - n: vặc vặc - vằng vặc,

11
Sự chuyển đổi âm cuối ở từ láy hoàn toàn, cũng như sự biến đổi nêu
trên, nhằm tăng cường khả năng hoà phối ngữ âm tạo nên sự dễ đọc, dễ nghe,
vì vậy không mang tính bắt buộc.
Do quan niệm khác nhau, một số nhà nghiên cứu xem từ láy hoàn toàn
là từ láy trong sự lặp lại [8, tr. 56].
Láy bộ phận
Từ láy bộ phận là từ láy trong đó có sự phối hợp ngữ âm của từng bộ
phận âm tiết theo những quy tắc nhất định. “Trong tiếng Việt, kiểu láy bộ
phận là kiểu láy chính, xét cả số lượng từ, cả tính đa dạng, phong phú của quy
tắc phối hợp âm thanh” [41, tr. 56].
Đặc trưng của láy bộ phận là trong cấu tạo của nó tiếng gốc chỉ được
lặp lại một phần ở tiếng láy.
Nếu dựa vào bộ phận được láy chúng ta có thể chia láy bộ phận thành
từ láy âm và từ láy vần.

Từ láy âm: là những từ láy mà âm đầu được lặp lại, phần vần khác nhau,
phần thanh điệu có thể giống hoặc khác nhau (Ví dụ: khoan khoái, lấp lửng,…).
Từ láy vần: là những từ láy trong đó phần vần được lặp lại ở hai âm tiết,
phần âm đầu khác biệt (Ví dụ: bịn rịn, lận đận, lấm tấm,…). Khi vần đồng
nhất thì phần âm đầu khác biệt nhau theo xu hướng: trong mỗi cặp hai phụ âm
đầu phải khác nhau về phương thức và bộ vị cấu âm.
1.2.1.2. Từ láy ba
Từ láy ba là những đơn vị gồm ba tiếng có sự hòa phối ngữ âm (Ví dụ:
dửng dừng dưng, cỏn còn con, tất tần tật,…).
Số lượng từ láy ba không nhiều. Và “Loại láy ba được cấu tạo trên cơ
sở kiểu lặp lại hoàn toàn”. [4, tr. 114].
Từ láy ba được cấu tạo theo quy tắc sau:

12
+ Dị hoá phụ âm đầu: toé - toé loe - toé toè loe
+ Chuyển đổi phụ âm cuối theo /m-p, n-t, ng- k/: khít- khít khìn khịt.
+ Chuyển đổi thanh điệu: tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba phải đối lập
nhau về bằng trắc và âm vực. Tiếng thứ hai của từ láy ba phải mang thanh
bằng: Sạch – sạch sành sanh.
1.2.1.3. Từ láy tư
Từ láy tư là từ láy gồm bốn tiếng trong thành phần cấu tạo của nó. Tuy
nhiên đi vào cụ thể thì quan niệm của các nhà nghiên cứu còn khác nhau khá
nhiều. Nguyễn Văn Tu coi từ láy tư là “những từ ghép láy âm phức tạp” [50,
tr.72]. Nguyễn Tài Cẩn lại cho rằng từ láy tư là “Loại từ láy xây dựng trên cơ
sở từ láy đôi điệp âm”. Ví dụ: lơ thơ lẩn thẩn, lồm nhồm loàm nhoàm, lăng
xăng lít xít, hăm hăm hở hở,…[4, tr. 134].
Theo Hà Quang Năng: từ láy tư là một cấu trúc gồm bốn tiếng trong đó
chỉ có nhiều nhất một tiếng hoặc một cặp đôi hai tiếng liền nhau có ý nghĩa từ
vựng chân thực, có khả năng hoạt động độc lập, nằm trong sự hoà phối âm
thanh với cả tổng thể hoặc hai tiếng còn lại theo những quy luật nhất định tạo

nên ý nghĩa khái quát nào đó [41, tr. 39].
Từ láy tư có thể chia thành các nhóm nhỏ sau:
- Từ láy tư trong đó lặp lại hai lần từ láy đôi cơ sở, đồng thời đổi vần
của yếu tố thứ hai thành [a] hoặc [ơ] cho phù hợp với thanh điệu và âm vực
của vần bị thay thế.
Ví dụ: lập cà lập cập, hớt ha hớt hải,…
- Từ láy tư có sự tách biệt giữa hai tiếng ở phần láy và hai tiếng phần
gốc. Mỗi tiếng của từ láy đôi cơ sở được ghép thêm một tiếng ở phần láy điệp
vần với nó để tạo nên một cặp láy vần.
Ví dụ: Xăng xít- lăng xăng lít xít
Nhồm nhoàm – lồm nhồm loàm nhoàm

13
- Từ láy tư được tạo nên bằng cách láy lại trực tiếp từng tiếng trong từ
láy đôi cơ sở đúng theo thứ tự của tiếng láy đôi cơ sở.
Ví dụ: vội vang - vội vội vàng vàng
- Từ láy tư được cấu tạo từ hai từ láy đôi bộ phận có ý nghĩa từ vựng
tương ứng gần gũi nhau.
Ví dụ: tẩn mẩn tần mần, lôi thôi lếch thếch
- Ngoài ra chúng ta còn phải kể đến những từ láy tư không phải cấu tạo
trên cơ sở từ láy bộ phận mà cấu tạo từ từ đơn hoặc từ ghép.
Ví dụ: xa lắc xa lơ, trùng trùng điệp điệp,…
Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy tư rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở
nhiều nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau
nào đó về nghĩa. Điều này cần được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn.
1.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa
1.2.2.1. Từ láy đôi
Tìm hiểu nghĩa của từ láy là một điều cần thiết song rất khó khăn vì
phần lớn các nhà nghiên cứu từ láy tiếng Việt khi phân loại hay miêu tả đều
dựa trên tiêu chí hình thức cấu tạo của nó. Dựa vào tiêu chí nghĩa để phân loại

gặp nhiều khó khăn dẫn đến trong lịch sử nghiên cứu từ láy tiếng Việt còn tồn
tại nhiều kiểu phân loại khác nhau khi sử dụng tiêu chí này.
Dựa vào “sự tương quan âm - nghĩa” trong từ láy, Hoàng Tuệ chia từ
láy thành 3 nhóm khác nhau [51, tr. 21-24].
- Nhóm thứ nhất gồm các từ như: gâu gâu, cu cu,… “nói chung là các
từ mô phỏng tiếng vang”.
- Nhóm thứ hai gồm những từ như: làm lụng, mạnh mẽ, loanh
quanh,…. Đó là những từ “bao gồm một âm tiết- hình vị”.

14
- Nhóm thứ ba gồm những từ như: lác đác, bâng khuâng, bịn rịn, long
lanh,… Đó là những từ không bao gồm một âm tiết- hình vị, “nhưng lại là
những từ có biểu cảm rất rõ”.
Hoàng Văn Hành lại căn cứ vào tính có lý do của từ láy để chia từ
thành ba nhóm:
- Nhóm từ láy mô phỏng âm thanh như: bồm bộp, thánh thót, tí tách,…
- Nhóm từ láy biểu trưng hóa ngữ âm như: lênh đênh, lác đác, bâng
khuâng, lâng lâng,…
- Nhóm từ láy biểu trưng hóa ngữ âm và chuyên biệt hóa như: dãi dầm,
đau đớn, vàng vọt, xanh xao,… [26, tr. 73].
Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở tiếp nhận cách phân loại của các
nhà nghiên cứu khác, tác giả đã hiệu chỉnh lại hệ thống phân loại từ láy trên
cơ sở dùng một tiêu chí thỏa đáng hơn. Tiêu chí ấy theo tác giả là “đặc điểm
hình thái biểu trưng hóa ngữ âm của từ” vì nó thỏa mãn ba yêu cầu: có tính
đến mối tương quan âm - nghĩa trong từ láy; có tính đến vai trò ngữ nghĩa của
tiếng gốc và khuôn vần; có tính đến khả năng bộc lộ nghĩa, hay là giá trị ngữ
nghĩa của các kiểu láy khác nhau [26, tr. 73]. Dựa vào tiêu chí này, từ láy
được phân thành ba nhóm:
- Nhóm 1: Từ láy biểu trưng ngữ âm giản đơn giản từ “tượng thanh”, từ
“tiếng vang”.

Ví dụ: tí tách, lộp bộp,…
Từ láy thuộc nhóm này vừa mô phỏng âm thanh tự nhiên theo cơ chế
láy. Nghĩa của chúng có tính đơn nhất, là sự bắt chước, mô phỏng âm thanh tự
nhiên. Do đó, mối liên hệ âm - nghĩa không võ đoán.
- Nhóm 2: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu:
Ví dụ: lênh đênh, lác đác,…

15
Những từ láy này đều không xác định được tiếng gốc. Cả từ láy là một
chỉnh thể thống nhất. Đây chính là từ láy điển hình về giá trị biểu trưng hoá
ngữ âm, kết quả của sự hoà phối âm nghĩa giữa hai tiếng không có nghĩa tạo
ra một chỉnh thể ngữ nghĩa có giá trị biểu cảm rõ rệt.
- Nhóm 3: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa:
Ví dụ: chắc chắn, đỏ đắn, xinh xắn,…
Nhìn chung đó là những từ có thể xác định được yếu tố gốc và yếu tố
láy. Ý nghĩa của từ được hình thành trên cơ sở ý nghĩa của yếu tố gốc, còn
yếu tố láy đem lại một sắc thái ý nghĩa nào đó cho từ, làm cho ý nghĩa của cả
từ khác với ý nghĩa của các yếu tố gốc khi nó đứng riêng một mình.
Cách phân loại từ láy trên cơ sở ngữ nghĩa của tác giả Hoàng Văn Hành
đã thỏa mãn được mối tương quan giữa âm và nghĩa trong từ láy, quan tâm
đến vai trò của tiếng gốc và khuôn vần. Đồng thời cách phân loại này cũng
bộc lộ những giá trị ngữ nghĩa của các kiểu láy khác nhau.
Xem xét nghĩa của ba nhóm từ láy trên, tác giả nhắc đến vai trò của
khuôn vần. Khuôn vần là cấu trúc được cấu tạo bằng âm đệm, âm chính, âm
cuối, thanh điệu, giá trị biểu trưng của khuôn vần sẽ được xem xét theo các
âm chính trong sự phối hợp của nó với âm cuối trong từng khuôn vần cụ thể.
Như vậy chúng ta thấy khuôn vần có vai trò to lớn trong việc tạo nên ý nghĩa
của từ láy. Dựa vào khuôn vần chúng ta có thể tạo ra những từ láy theo mô
hình có sẵn.
Nghiên cứu về khuôn vần đã được nhiều tác giả đề cập đến như: Phi

Tuyết Hinh đã chỉ ra khoảng 60 khuôn vần mà có thể giải thích được nghĩa
trong tương quan với âm… Nguyễn Đại Bằng tìm nghĩa của khuôn vần theo
mô hình không gian, sinh vật… nhìn chung những khuôn vần đã nhận được
sự đồng tình rộng rãi: [a], [i], [u], [âp], [ê- a], [ung- inh], [ênh- ang], [ăn]…

16
Khuôn vần [a]: nguyên âm /a/ có âm lượng lớn nhất, độ mở rộng nhất
nên khuôn vần [a] có khả năng gợi tả những gì to lớn, mạnh mẽ, kéo dài (ha
hả, ngân nga, tất tả,…)
Khuôn vần [i]: nguyên âm /i/ thuộc nguyên âm hàng trước, không tròn
môi có độ mở hẹp nhất. Do đó khuôn vần [i] gợi ấn tượng nhỏ bé (li ti, lí nhí,…)
Khuôn vần [âp]: khuôn vần này là sự kết hợp của nguyên âm /â/ và phụ
âm /p/ động tác cấu âm này kết thúc là sự khép chặt của môi, vì thế nó có khả
năng gợi tả trạng thái khép lại, sập xuống, gập vào, sập xuống,… hoặc trạng
thái bám chặt, áp sát (mấp mô, bấp bênh,…). Số lượng các từ láy mang khuôn
vần [âp] là lớn nhất trong các dạng láy [41, tr. 60].
Khuôn vần [ăn]: diễn tả tính chất hay trạng thái đạt tới chuẩn mực.
Khuôn vần [ê - a]: đặc trưng cấu âm thay đổi theo hướng tăng cả độ mở và
độ vang đã gợi ấn tượng không gọn gàng, lặp lại, dài rộng, to lớn (lê la, khề khà,…)
Trong quá trình khảo sát từ láy để làm cơ sở cho đề tài chúng tôi nhận
thấy: các từ láy hoàn toàn có hình vị cơ sở gốc tính từ đứng sau, hình vị láy
đứng trước mang thanh bằng (thanh ngang hoặc thanh huyền) thường diễn tả
sự giảm nhẹ tính chất (ví dụ: đo đỏ, tim tím, dèm dẹp,…). Nếu hình vị láy
đứng trước có thanh trắc thì cường độ của tính chất lại tăng lên (ví dụ: dửng
dưng, cỏn con,…). Còn những từ láy hoàn toàn có hình vị cơ sở gốc động từ
thường diễn tả sự lặp đi lặp lại của động tác kèm theo sự giảm nhẹ cường độ
sự vật hiện tượng (ví dụ: rung rung, lắc lắc, cười cười,…). Những từ láy hoàn
toàn có hình vị cơ sở gốc danh từ thường diễn tả sự lặp đi lặp lại của sự vật,
hiện tượng (ví dụ: ngày ngày, đêm đêm…)
1.2.2.2. Từ láy ba, láy tư

So với từ láy đôi thì số lượng các từ láy ba, láy tư không nhiều, song về ý
nghĩa chúng đều mang đặc điểm chung: ý nghĩa được gia tăng, nhấn mạnh
hơn so với từ cơ sở.

17
Ví dụ: khít <khít khìn khịt
Mơ < lơ tơ mơ
Lằng nhằng < lằng nhà lằng nhằng
1.2.3. Nhận diện từ láy và sáng tạo từ láy
1.2.3.1 Nhận diện từ láy
Vấn đề nhận diện từ láy từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Khi đề cập tới vấn đề này còn nhiều ý kiến tranh luận xung quanh
nhóm từ có vỏ ngữ âm giống từ láy mà một trong hai yếu tố không còn rõ
nghĩa nữa như: chim chóc, chùa chiền,….ngoài ra còn có cả những đơn vị do
hiện tượng lặp từ tạo nên như: ngày ngày, đêm đêm, người người,… và những
từ định danh khác như: ba ba, cào cào, chuồn chuồn, Ở đây, để nhận diện
được từ láy chúng tôi tập trung xem xét và phân biệt giữa từ láy và từ ghép là
chủ yếu. Để phân biệt từ láy và từ ghép, chúng ta không thể căn cứ vào mặt
ngữ âm, vì chúng đều tương tự như nhau. Do vậy chúng tôi phân biệt dựa vào
mặt ngữ nghĩa. Nhưng để có cái nhìn chuẩn xác và khái quát nhất, thì phải
kết hợp đồng thời cả hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Để phân biệt từ ghép với
từ láy, chúng tôi lựa chọn phân biệt từ ghép nghĩa và từ láy. Từ ghép nghĩa là
kiểu từ phổ biến nhất trong các từ ghép tiếng Việt. Từ ghép nghĩa là những từ
gồm hai hình vị trở lên kết hợp với nhau. Các thành tố tạo nên từ ghép nghĩa
phần lớn là các hình vị có ý nghĩa từ vựng và có khả năng hoạt động độc lập
(ví dụ: non sông, nước non, ngọt ngào,…). Còn trong từ láy, một thành tố có
thể có ý nghĩa từ vựng và một thành tố không có ý nghĩa từ vựng, yếu tố có ý
nghĩa từ vựng có thể đứng trước hoặc đứng sau (ví dụ: chim chóc, hay ho, im
lìm, ngậm ngùi, ngập ngừng, lập loè, nhấp nhô,…) hoặc cả hai thành tố đều
không có ý nghĩa từ vựng mà chỉ có ý nghĩa cấu tạo từ (ví dụ: đủng đỉnh, lon

ton, lóng lánh, phau phau, nhởn nhơ,…).

18
Như vậy về cơ bản chúng ta đã nhận thấy rằng từ láy và từ ghép không hẳn
hoàn toàn khác nhau, bởi vì từ láy là một hình thức của từ ghép, song chúng
ta vẫn có thể phân biệt được từ ghép và từ láy thông qua khả năng khu biệt
nghĩa và đặc điểm cấu tạo.
Từ sự phân biệt từ láy và từ ghép trong tiếng Việt nêu trên, để có được sự
thống nhất khi xác định từ láy chúng tôi có một số quy ước sau:
Những từ ghép mà tình cờ giữa hai tiếng có các yếu tố ngữ âm giống nhau
như các từ: buôn bán, leo trèo, tranh giành,… không được coi là từ láy.
Khi khảo sát hiện tượng láy dưới góc độ đồng đại các từ kiểu như: hỏi han,
chùa chiền, tuổi tác,…(những từ mà một trong hai yếu tố không còn rõ
nghĩa), những từ gốc Hán như: hùng hổ, bàng hoàng, lưỡng lự,… cũng được
coi là từ láy.
Không có sự phân biệt giữa từ láy và dạng láy nên các đơn vị như: ai ai,
đêm đêm, người người,… cũng tạm thời được xếp vào danh sách từ láy.
Xét các hiện tượng láy trên quan điểm tâm và biên những từ như: rồng
rồng, đom đóm, bòng bong,… hay các từ kiểu như: bèo bọt, nghênh ngang,…
chúng tôi đều coi là từ láy.
1.2.3.2. Sáng tạo từ láy
Trong vốn từ vựng tiếng Việt ngoài hệ thống từ vựng có trong từ điển thì
dựa vào vùng miền chúng ta còn thấy tồn tại hệ thống từ địa phương, căn cứ
vào nghề nghiệp sẽ có nhóm từ nghề nghiệp, ngoài ra chúng ta còn phải kể
đến tiếng lóng… Do vậy chúng ta thấy song song tồn tại với vốn từ đã có
trong từ điển thì trong quá trình sử dụng có thể nảy sinh những từ mới do
người dùng sáng tạo ra. Trong quá trình sáng tác nhiều nhà văn dựa vào vốn
sống phong phú và khả năng cảm nhận tinh tế đã sáng tạo ra từ mới đặc biệt
là từ láy.


19
Từ láy được tạo ra trên cở sở phương thức láy do vậy việc sáng tạo từ
láy cũng đòi hỏi phải dựa vào phương thức láy. Trường hợp điển hình của
phương thức láy là sự tác động của phương thức cấu tạo từ gốc vào một hình
vị thứ hai, láy lại hình vị gốc. Cấu trúc mới tạo ra bao gồm hình vị gốc kết
hợp với hình vị láy tạo nên. Phương thức láy tác động vào một đơn vị cấu tạo
từ làm nảy sinh đơn vị mới có quan hệ thứ sinh với đơn vị gốc và chúng tuân
theo những quy tắc nhất định. Có thể dựa trên cơ sở gần nghĩa, hay những
quy tắc về thanh điệu. Ngoài ra có thể dựa vào khuôn vần để tạo ra những từ
láy theo mô hình có sẵn.
Sáng tạo từ láy là công việc mang màu sắc cá nhân rất rõ vì vậy nó còn
phụ thuộc vào vốn sống của mỗi người. Vì bản chất của từ láy gần với cảm
giác, đồng thời có cả sự đánh giá chủ quan của người dùng nên cùng một sự
vật hiện tượng mỗi người đứng ở cương vị khác nhau sẽ có những đánh giá
nhìn nhận không giống nhau. Do vậy việc sáng tạo từ láy đã thể hiện được
phong cách nghệ riêng của mỗi tác giả.
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng của Lê Lựu
1.3.1. Con người và cuộc đời
Nền văn học chống Mĩ đã sản sinh ra một thế hệ nhà văn - chiến sĩ, hay
nói hình tượng là một thế hệ “nhà văn mặc áo lính”. Thế hệ này đi thẳng từ chiến
tranh đến văn học, không hề mặc cảm và chỉ biết dấn thân vào bão táp lịch sử
với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Thế hệ này đã được đào luyện
qua “lửa đỏ và nước lạnh”, nhìn vào họ ta biết được “thép đã tôi thế đấy”. Lê
Lựu là một gương mặt, một chân dung sáng rõ trong thế hệ nhà văn này.
Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, xã Tân
Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình nông dân bình
thường như mọi gia đình nông dân Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ khác.
Xã Tân Châu là một vùng quê nghèo. Không chỉ xã Tân Châu, mà cả huyện

20

Khoái Châu trước đây đều nghèo. Những vụ lúa thường không đủ nuôi người,
người dân phải trồng thêm củ đao củ đót chống đói tháng ba ngày tám. Câu
ngạn ngữ xưa “Oai oái như phủ Khoái xin tương” đủ để hình dung về cái
nghèo của cả vùng quê ấy. Thêm nữa, cái làng của Lê Lựu lại ở ngoài đê,
trước đây dòng sông Hồng chưa được trị thủy, về mùa nước lên, năm nào
nước cũng dâng to gây ngập lụt. Những năm Cách mạng chưa thành công, đê
Châu Giang vỡ 18 năm liền Nói vậy để chúng ta hình dung làng quê của Lê
Lựu tuy có nét riêng nhưng khá điển hình cho làng quê tỉnh Hưng Yên.
Lê Lựu sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học. Cha ông
thuộc thế hệ thứ năm của một dòng họ khoa cử nên Lê Lựu được học tại
trường huyện của thị trấn Khoái Châu. Ông lớn lên giữa lúc “Dân có ruộng
dập dìu hợp tác”. Tất cả những niềm vui và nỗi buồn của làng quê thời kì ấy
ông đều chứng kiến. Bản chất là một nông dân mặc áo lính, ông luôn luôn
nghĩ về quê hương, chú ý đến những gì liên quan đến người nông dân và nông
thôn. Nông thôn và người nông dân là cội nguồn, là quê hương văn chương
của ông từ tác phẩm đầu tiên đến tác phẩm ông viết gần đây nhất, dẫu cả đời
ông gắn bó với quân đội, ăn lương của quân đội và làm việc cho quân đội.
Lê Lựu rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ đầu những năm sáu
mươi, lúc đó phong trào “Ba nhất” đang hừng hực khí thế. Tuổi trẻ háo hức,
từ một cậu bé được hòa vào không khí thi đua của công - nông - binh toàn
miền Bắc, Lê Lựu lao vào công việc, sống và tìm hiểu cuộc sống quân đội.
Cảm hứng về sự thay đổi của miền Bắc và của cá nhân ông đã thôi thúc ông
cầm bút ghi lại những điều mình thích, nói lên những điều mình muốn nói với
mọi người, với cuộc đời. Năm 1964, Lê Lựu trình làng truyện ngắn đầu tiên:
“Tết làng Mụa”. Tiếp theo là các truyện “Trong làng nhỏ”, “Người cầm
súng” Lúc đầu nhà văn làm báo ở quân khu III. Sau đó, ông làm phóng viên
báo, công tác tại mặt trận đường dây 559 Trường Sơn thời kì chiến tranh. Do
vậy, Lê Lựu được đi nhiều, biết nhiều, vừa mở rộng tầm mắt, vừa tăng thêm

×